Việt Nam Danh Tác - Gió Đầu Mùa
“… qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng không bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bé vẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhận thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.”
Việt Nam Danh Tác - Nắng Trong Vườn
"KHI TÔI QUAY LẠI NHÌN CHỒNG NÀNG, tôi thấy rõ cái lãnh đạm của người đàn ông ấy... Nàng có sung sướng không? Nàng có còn nhớ đến tôi không? Ngậm ngùi, tôi nghĩ đến cuộc ái ân ngắn ngủi...trong mấy tháng hè: cái tình yêu biết đâu chẳng vẫn còn để lại trong lòng nàng một vẻ rực rỡ như ánh nắng trong vườn."
Nước Mỹ Đâu Xa! - Quyển 1 - Tiểu Bang New York - Tiểu Bang Hoàng Đế ( The Empire State)
Nước Mỹ đâu xa! – Quyển 1: Tiểu bang New York – Tiểu bang Hoàng Đế
“Vì sao danh hài vĩ đại nhất thế giới lại chỉ nhắc tới New York khi ông dành lời ngợi ca cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ? Phải chăng New York chính là hình ảnh thu nhỏ của nước Mỹ, hàm chứa trong mình sự kiêu hãnh của siêu cường số một thế giới - điều mà các Tiểu bang khác không thể có được - cho dù nó không phải là nơi có đông dân cư nhất (20 triệu người)!
Người Pháp và Hà Lan khám phá ra mảnh đất này vào đầu thế kỉ 17 nhưng nó chỉ được mang tên New York kể từ khi vua Charles II của Anh cấp lãnh thổ này cho anh trai mình là Công tước xứ York và Albany vào năm 1664. Khi người anh trai này sang Mỹ, ông ta đã đặt thêm chữ “New” vào lãnh địa mới của mình - “New York” (xứ York mới). Và thủ phủ của nó cũng mang tên vùng đất của ông tại Anh - Albany.
Qua gần 300 năm phát triển, New York đã khẳng định vị thế của mình bằng biệt danh “Tiểu bang Hoàng đế” (The Empire State).
Nguồn gốc thật sự của tên gọi “Hoàng đế” đến nay vẫn còn có nhiều bàn cãi vì có người cho rằng tên gọi trên do Tổng thống George Washington đã từng gọi New York - Thủ đô đầu tiên của nước Mỹ năm 1785 đến năm 1790 - là “chỗ ngồi của Hoàng đế” (The seat of the Empire) hoặc chính biểu tượng của New York – “Tòa nhà mang tên Hoàng đế” (Empire State Building), từng một thời cao nhất thế giới - đã tôn vinh cho New York. Và còn nhiều giả thiết khác nữa...!
Cho dù có tranh cãi gì thì New York, biểu tượng cho phồn vinh, thịnh vượng của Hoa Kỳ là điều khỏi cần bàn luận nếu như ta nhớ lại rằng địa điểm “được chọn” đầu tiên để những kẻ khủng bố tấn công ngày 11.9 nhằm “tát” thẳng vào mặt siêu cường kiêu ngạo chính là New York chứ không phải Thủ đô Washington!
Trước hết, New York là bang duy nhất có tới hai trong tám trường đại học “5 sao” của Mỹ - (Columbia và Cornell) nằm trong nhóm Ivy League1 - tập hợp các trường Đại học danh giá lâu đời và có chất lượng bậc nhất Hoa Kỳ.
Cảng New York là hải cảng tự nhiên lớn nhất thế giới. Mặc dù lượng hàng hóa vận chuyện qua cảng này không lớn bằng cảng Los Angeles nhưng nét “độc” của nó là hầu như tất cả “của ngon vật lạ” hay những sản phẩm mới nhất vừa được “ra lò” khắp thế giới đều được chuyển tới hải cảng này để New York “nếm” đầu tiên: Từ máy móc, tivi, thiết bị vi tính, tàu buồm, xe hơi đến thời trang, thực phẩm, dược phẩm… Một bí quyết rất đơn giản mà tất cả các nhà kinh doanh trên thế giới điều hiểu rất rõ rằng: nếu đã được New York “gật” thì việc chinh phục những thị trường còn lại của thế giới coi như đã xong…!
New York còn nổi danh nhờ những ngành công nghiệp sản xuất (ô tô, máy tính, dệt may…) ngoại thương, thương mại, xuất bản, sân khấu điện ảnh, văn hóa, thời trang...
Nhưng trên tất cả, Tiểu bang New York đã có đứa con “rượu” cực kỳ nổi danh và hái ra tiền là Thành phố New York - trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, kiểm soát gần như toàn bộ mọi giao dịch tín dụng của con người… quê hương của hai loại thẻ tín dụng uy tín nhất Visa và Master, địa bàn hoạt động của thị trường chứng khoán khổng lồ mang tên phố Wall – nơi quyết định miếng ăn, giấc ngủ của gần hết… nhân loại toàn cầu! Xin được chi tiết hơn ở các trang sau!
Chính vì những điều kể ở trên nên cái tên New York thường được người ta liên tưởng tới một thành phố hiện đại sầm uất vào bậc nhất hành tinh, nơi nhan nhản những tòa nhà chọc trời, xe cộ lúc nhúc, người đông nghẹt thở… Nhưng ít ai biết rằng tiểu bang này lại là một trong những tiểu bang “xanh” nhất Hoa Kỳ với phần lớn diện tích là đồng ruộng, rừng cây, núi, sông (nối lại dài tới 12.000 km), hồ (7.600 cái) và sở hữu địa danh với “nhan sắc thiên nhiên” có tiếng như hồ Ontario, Lake Placid, George… và nằm trong “top ten” những địa danh của thế giới mà con người cần khám phá trước khi chết - như thác Niagara!
Thật ngốc nghếch nếu như ta lại bỏ qua cơ hội để thưởng thức những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp đó của New York, phải không bạn?
Chúng ta cùng làm một chuyến du ngoạn lướt qua một số cảnh sắc thiên nhiên của Tiểu bang này.”
Nhóc Tì Tỷ Phú
Một trong những câu chuyện dính nhất quả đất.
Đã bao giờ bạn tự hỏi sẽ ra sao nếu mình có trong tay một triệu bảng? Hay một tỷ? Một tỷ tỷ? Hoặc thậm chí một tỷ tỷ tỷ? Joe Spud không phải tưởng tượng sẽ ra sao nếu nó có trong tay hàng nắm, hàng đống, hàng núi tiền. Dù mới mười hai tuổi, nó đã giàu đến nực cười, giàu đến phi lý.
Joe có trong tay mọi thứ nó muốn. Trừ một điều Joe vẫn hằng mong mỏi, tha thiết, khát khao có được hơn bất cứ thứ gì khác trên đời... MỘT NGƯỜI BẠN!!!
Tác giả
David Walliams (sinh ngày 20/8/1971) là diễn viên hài kịch và nhà văn thiếu nhi nổi tiếng người Anh. Ông tốt nghiệp Đại học Bristol chuyên ngành Kịch nói vào năm 1992 và nổi tiếng từ chương trình hài kịch Little Britain của đài BBC. Ông từng góp mặt trong nhiều bộ phim và chương trình ti vi, trong đó có Doctor Who và Britain’s Got Talent. Walliams xuất bản tác phẩm thiếu nhi đầu tiên vào năm 2008.
Kể từ đó đến nay, sách của ông đã được dịch ra hơn 55 thứ tiếng và bán được hơn 45 triệu bản trên toàn thế giới. Ông đã từng giành 4 giải Specsavers National Book Awards qua các năm 2012, 2013 và 2014.
Ma Quỷ Dân Gian Ký
“MA QUỶ DÂN GIAN KÝ” - KHI MA QUỶ VIỆT NAM CHÍNH THỨC ĐƯỢC ĐƯA VÀO TRANG SÁCH
Cuốn sách “Ma quỷ dân gian ký” là một trong số ít những công trình hiếm hoi đề cập đến những câu chuyện về ma quỷ được truyền miệng văn hóa dân gian Việt Nam, không chỉ là trong văn hóa của dân tộc Việt mà còn trong văn hóa của những dân tộc thiểu số khác ở nhiều vùng miền.
Khác với văn hoá Phương Tây, các giai thoại về ma quỷ ở văn hoá Phương Đông - đặc biệt là Việt Nam thường cho thấy ma quỷ gần gũi với con người hơn. Thường ma “xuất thân” từ những linh hồn của người đã khuất, hoặc một biến đổi về tâm linh với những loài vật quen thuộc đang sống. Chính vì vậy, trong văn hoá Việt Nam các vùng miền, ma quỷ xuất hiện nhiều trong những câu chuyện, tin đồn dân gian, thường để giải trí, hoặc doạ nạt, nhưng phía sau là giáo huấn, răn dạy người khác phải tôn trọng những vùng đất, thiên nhiên hoặc mộ phần của người đã mất. Và phía sau ma quỷ, là những tâm tình, những thói quen, quan niệm về tự nhiên, về lẽ phải của người Việt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Song, từ trước đến nay, chưa có một khảo cứu đầy đủ nào về ma quỷ ở Việt Nam, cho đến khi “Ma Quỷ Dân Gian Ký” ra đời.
Tác phẩm là một bộ sách du khảo tập hợp các loài ma quỷ và hiện tượng tâm linh trong văn hoá truyền miệng ở Việt Nam, được chia làm các chương nhỏ, đi kèm với tranh vẽ theo phong cách dân gian hiện đại. Mỗi chương sẽ gồm một chủ đề, với minh hoạ sống động và những thông tin đầy đủ về định nghĩa, đặc tính và niềm tin dân gian về các loại ma quỷ. Cuối sách là phần phụ lục các sáng tác thơ truyện liên quan đến ma quỷ dân gian.
Hoạ sỹ Duy Văn và các cộng sự đã cất công sưu tầm những truyện xưa tích cũ từ trong sách vở, các chuyến điền dã và cả từ hiểu biết của những người xung quanh. Kể từ đó, anh lập nên một bảng danh sách các loài ma quỷ và hiện tượng tâm linh ở Việt Nam. Điểm đặc biệt là Duy Văn đã thổi một hồn cốt dân gian qua những nét vẽ kết hợp lối vẽ doodle và tranh dân gian. Trong lời giới thiệu, tác giả cho biết động lực lớn nhất của anh là để phát huy một nét văn hoá đã tồn tại từ lâu, nhưng thường đi theo những cấm kị, không được công nhận đúng mức; trong khi các nước châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc đều có những sự bảo tồn với văn hoá ma quỷ của họ thông qua các hình thức diễn trình, hoặc khai thác làm phim ảnh, thương mại.
“Không những các sản phẩm từ trí tưởng tượng, mà cả những con ma thật được đưa vào chuyện dân gian đều có ý nghĩa riêng đặc biệt. Không biết tự bao giờ “con không ăn là Ông Kẹ tới bắt”, “trên cây dừa có ma tóc dài đánh du, đi chơi khuya là bị nó bắt”, “không ra tắm sông giữa trưa, không con ma da nó lôi chân”… còn nhiều những câu chuyện nữa gắn liền với những câu nói cửa miệng mà thuở nhỏ chắc hẳn nhiều người hay nghe.
Ông bà ta dùng những hình ảnh ma quỷ để răn dạy con cháu một cách khéo léo. Thuở xưa nạn bắt cóc nhiều người ta nghĩ ra ông ba bị để con cái ngoan ngoãn ở nhà, không quấy phá. Nếu đời sống thôn quê có nhiều thành phần tiểu tiện bừa bãi mà không xử lí, chúng ta có Ma Lai, sẽ ăn phân và gây chết do đứt ruột. Từ đó mọi người chú ý giữ vệ sinh hơn. Đó chính là ý nghĩa nhân văn của ma quỷ trong dân gian.” - Hoạ sỹ Duy Văn tâm sự.
Đây sẽ là một bộ sách tiên phong về lĩnh vực vừa quen vừa mới lạ với văn hoá Việt. Đặc biệt sẽ là nguồn tham khảo cực kì phong phú và đáng giá cho những cá nhân, tập thể làm các dự án sáng tạo ở Việt Nam, như nhà văn Di Li nhận xét: “Ma Quỷ Dân Gian Ký không chỉ là một cuốn sách để đọc, để cảm thấy thú vị mà còn là tư liệu tốt cho những nhà văn đang viết truyện kinh dị, hoặc các thể loại văn học có yếu tố huyền ảo”.
Đây là cuốn du ký hay nhất tôi từng đọc. Cô Đơn Trên Everest có lẽ sẽ không khiến bất kỳ ai lật sách ra mà phải thất vọng. Một cuộc phiêu lưu bằng cả ngôn từ, thị giác lẫn xúc giác. Có lãng mạn, có xót xa, có đau đáu, có hài hước và đầy những hồi hộp như chính mình đang đi giữa cuộc hành trình. Đọc “Cô đơn trên Everest”, có đôi lúc tôi cảm nhận được mình đã nhìn thấy ảnh mặt trời đỏ ối vào lúc bình minh trên sông Hằng, có đôi khi, tôi rợn người vì cảnh người ta khuân củi chở đến lò thiêu xác.
Nhà báo Bùi Kiều Trang (Từ “Ngày nay”)
Di Li là nữ nhà văn đã có chuyến đi bão táp trên đất Ấn Độ ngay trước khi quốc gia này thiết lập lệnh phong tỏa vì đại dịch lần thứ nhất. Trong Cô Đơn Trên Everest, có tới non nửa dành kể những câu chuyện chị đã trải qua trên đất nước Ấn Độ. Di Li đã khiến người đọc đứng tim khi theo chị băng qua dãy núi tuyết Himalaya và dọc bờ sông Hằng. Sông Hằng, con sông thiêng của người Hindu, với đầy xác chết được đốt rồi thả xuống sông, có cả những người chết thiêng không đốt, cứ thế trôi trên sông, người ta phóng uế ở đấy, và tắm táp với lòng thành kính cũng ở đấy...
Nhà báo Võ Hồng Thu (Từ “Sức khỏe đời sống”)
Heartstopper - Tập 2
Nick và Charlie là đôi bạn thân. Nick biết Charlie là người đồng tính, còn Charlie đinh ninh Nick là trai thẳng. Tuy nhiên, tình yêu luôn khiến người ta bất ngờ. Nick bắt đầu khám phá ra đủ thứ về bạn bè, gia đình… và cả chính bản thân.
Có những sự thật sẽ giết chết ta.
Một thế giới hậu tận thế trong tương lai, khô cằn, tàn nhẫn, chết chóc. Ở đó, con người sống cùng nhau, hàng bao thế hệ, trong một tòa tháp đâm sâu vào lòng đất. Khung cảnh bên ngoài chỉ còn là những điểm ảnh, gói gọn trong một màn hình chiếu. Những câu chuyện, ước ao về vùng đất ngoài kia trở thành đề tài cấm kỵ. Nhưng như lẽ thường phải thế, luôn có những kẻ nuôi hy vọng, giấc mơ, những kẻ mang trong mình niềm lạc quan có thể lây lan cho những cư dân khác. Hình phạt cho chúng chỉ có một: chúng bị tống đi lau chùi các cảm biến bên ngoài tháp giống.
Và đó sẽ là chuyến đi không đường trở lại.
Khi cảnh sát trưởng của tháp giống phạm phải tội lỗi không thể tha thứ ấy, Juliette, một thợ máy ở bộ phận Cơ Khí, trở thành người kế nhiệm bất đắc dĩ. Cô không biết rằng mình sắp trở thành nhân tố cuối cùng, góp phần đưa tháp giống đến với bước ngoặt quyết định sự tồn vong hay tuyệt diện của nó.
LEN CHÙI (WOOL) là tập đầu tiên trong bộ ba tập về SILO – THÁP GIỐNG của tác giả HUGH HOWEY. Một series phim truyền hình gồm 10 tập, lấy tên Wool, do Rebecca Ferguson đóng chính, được dự kiến ra mắt trên Apple TV+ vào tháng Ba, 2023.
Hugh Howey (sinh năm 1975) là một tác giả viết truyện sci - fi người Mỹ. Ông trường thành ở Monroe, Bắc Carolina. Các tác phẩm của ông thưởng xoay quanh chủ để vượt qua nghịch cảnh mà không đánh mất chính mình.
LEN CHÙI (WOOL) ra mắt độc giả lần đầu tiên vào năm 2011 như một truyện ngắn độc lập, do tác giả tự xuất bản dưới dạng ebook trên Amazon. Nhờ sự đón nhận nồng nhiệt từ độc giả, ông triển khai câu chuyện để cho ra thêm 4 tiểu thuyết ngắn. Quyển sách bạn đang cầm trên tay là phiên bản tổng hợp cả 5 phần sách, được phát hành năm 2012, cũng là tập mở đầu cho series SILO – THÁP GIỐNG.
CA TRỰC (SHIFT), tập thứ hai trong series, cũng được phát hành lần đầu thành 3 tiểu thuyết ngắn (phần 6 đến 8 trước khi được in gộp làm 1 quyền vào năm 2013.
CÁT BỤI (DUST), tập cuối cùng trong series, được phát hành năm 2013 dưới dạng một tiểu thuyết hoàn chỉnh.
Khổng Tử (551 - 497 TCN) là nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà giáo dục nổi tiếng Trung Hoa. Ông là người sáng lập Nho giáo. Ở Trung Quốc, Khổng Tử được gọi là bậc thánh nhân, người đời khoác cho ông rất nhiều vòng nguyệt quế, nhưng chủ yếu vẫn là nhà tư tưởng và nhà giáo dục.
Và đặc biệt nhất là hậu thế vẫn tiếp nối nhau ngưỡng phục và vận dụng nội dung học thuyết chủ yếu của Khổng Tử trong Luận ngữ để đưa vào thực tế một cách thành công. Điều đó không chỉ khẳng định Khổng Tử là nhà tư tưởng, nhà giáo dục uyên bác mà còn nêu bật rằng Khổng Tử đồng thời còn là một nhà mưu lược xuất sắc.
Rất khó miêu tả câu chuyện về Chú bé mang pyjama sọc này. Thường thì chúng tôi vẫn tiết lộ vài chi tiết về cuốn sách trên bìa, nhưng trong trường hợp này chúng tôi nghĩ làm như vậy sẽ làm hỏng cảm giác đọc của bạn. Chúng tôi nghĩ điều quan trọng là bạn nên đọc mà không biết trước nó kể về điều gì.
Nếu bạn định bắt đầu đọc cuốn sách thật, bạn sẽ cùng được trải qua một hành trình với một cậu bé chín tuổi tên là Bruno (dù đây không hẳn là sách cho trẻ chín tuổi). Và chẳng sớm thì muộn bạn sẽ cùng Bruno đến một hàng rào. Những hàng rào như vậy vẫn tồn tại ở khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi hy vọng không ai trong chúng ta phải vượt qua một hàng rào như vậy trong đời.
*******
Nhận định
“Một tuyệt tác sách nho nhỏ.” - Guardian
“Một cuốn sách vương vấn khôn nguôi trong tâm trí người đọc.” - Times
“Mạnh mẽ đến choáng váng.” - Carousel
“Cuốn sách cứ nán lại trong tâm trí ta khá lâu. Một câu chuyện tinh tế, đơn giản một cách có tính toán và cảm động đến tận cùng. Dành cho bất kỳ lứa tuổi nào.” - Times
"Đây là những gì tiểu thuyết nên làm: giới thiệu ta đến với tâm trí của những người mà bình thường ta không dễ gì gặp được." - Guardian
"Gần như không thể buông xuống, đây là cuốn sách hiếm hoi sẽ ám ảnh tâm trí bạn nhiều ngày trời." - Becky Stradwick, The Bookseller
"Tràn ngập những ẩn ý ám ảnh trí tưởng tượng... câu chuyện luôn đi trước độc giả trước khi tung ra cú đấm sát thủ cuối cùng trong những trang cuối." - Nick Tucker, Independent
"Lò Thiêu, với tư cách một chủ đề, thường đòi hỏi kính nhi viễn chi, hạn chế bình luận và ưu tiên sự im lặng. Chỉ có một điều rõ ràng: cuốn sách này sẽ khó lòng nhẹ nhàng mang lại giấc ngủ ngon." - Observer
"Một cuốn sách khác thường... một câu chuyện đầy sức mạnh được kể lại một cách giản dị." - Examiner
"Đây là một cuốn sách khơi gợi nhiều suy nghĩ và ý kiến trái chiều, một cuốn sách đáng đọc, đáng thảo luận, đáng được áp chặt vào tim." - Achuka
Tửu Chàng Tiên - Tập 1
“Kiếp này của Lộ Tiểu Thiền chưa bao giờ hướng tới công danh lợi lộc. Đối với cậu, ăn khôgn đủ no, không có nơi nào che mưa chắn gió đã là chuyện thường tình.
Tâm niệm cả đời của cậu chỉ là được uống trọn một vò “Tuý Sinh Mộng Tử”. Bản tính cậu phóng khoáng xởi lởi, hễ ngủ ngon là mộng đẹp, nhưng mộng đẹp cách mấy cũng chẳng gặp được người muốn gặp. Tuy nhiên sau mỗi lần uống “Tuý Sinh Mộng Tử”, cậu lại có thể nhìn thấy vị thần tiên dưới ánh trăng thanh kia.”
Hơn một ngàn ba trăm năm, ba ngàn thế giới, biết bao bãi bể nương dâu – là chấp, là niệm – cuối cùng Thư Vô Khích cũng gặp được Lộ Tiểu Thiền. Quá khứ và hiện tại, liệu lựa chọn của hai người sẽ là gì?
"Đánh bại hắn, tôi sẽ trở thành kiếm sĩ mạnh nhất Nhật Bản, đúng chứ?"
Đọa Kiếm sĩ Sabi Hakuhei, chủ nhân hiện tại của Bạc Đao Hari và cũng là người "mạnh nhất Nhật Bản", gửi cho kiếm sĩ không dùng đao kiếm Yasuri Shichika cùng kỳ mưu sĩ Togame một lá thư thách đấu! Liệu họ có thể đoạt được thanh đao cùng danh hiệu "mạnh nhất" từ tay anh ta hay không? Mười hai thanh đao do người thợ rèn đao truyền thuyết Shikizaki Kiki hoàn thiện, nay còn chín!
Trong tập 4 của Đao Ngữ, đối thủ quyết chiến của họ chính là kiếm sĩ mạn nhất Nhật Bản đầy kiêu hãnh, Sabi Hakuhei!
VỀ TÁC GIẢ
Nisio Isin (sinh năm 1981) được mệnh danh là cây bút thiên tài trong làng Light Novel Nhật Bản với rất nhiều tác phẩm đình đám. Năm 2002 khi đang theo học đại học Ritsumeikan, Nisio Isin ra mắt với tác phẩm "Vòng xoáy chặt đầu", tập đầu tiên trong series Lời nói đùa, và đã giành giải Mephisto lần thứ 23 ở tuổi đôi mươi. Bộ truyện đã có gần 4 triệu bản được bán ra tại Nhật và nhiều năm liên tiếp lọt top 3 của bảng xếp hạng Kono Light Novel ga Sugoi!
Sau khi rời khỏi trường đại học, Nisio Isin làm việc cho nhà xuất bản nổi tiếng Kodansha, chuyên về các tạp chí dành cho các cây bút trẻ như Faust hoặc Pandora. Tháng 1 năm 2007, Nisio Isin ra mắt series Đao Ngữ dưới nhãn Kodansha Box, với tiến độ mỗi tháng một tập, tổng cộng 12 tập đã được xuất bản đều đặn trong vòng một năm.
Các tiểu thuyết Đao ngữ, Lời nói đùa, Monogatari, Medaka Box và Juni Taisei của ông đã được chuyển thể thành anime.
“Vua Solomon là một nhà thơ, bậc hiền triết và nhà tiên tri trong thời cổ đại Do Thái. Ông được mệnh danh là vị vua anh minh, tài đức nhất trong lịch sử nhân loại. Solomon nói ra 3.000 câu châm ngôn. Đức Chúa Trời từng tuyên bố rằng, trước và sau chẳng ai trong thiên hạ có thể sánh bằng Solomon. Không phải ngẫu nhiên mà thơ tình Nhã Ca được trân trọng đặt ngay tâm điểm của Kinh Thánh, quyển sách nổi tiếng nhất thế giới từ cổ chí kim. Người xưa biết, dù 65 tập sách khác trong Kinh Thánh hùng hồn đến mấy, nhưng nếu vắng bóng Nhã Ca, thì cả quyển kinh điển chỉ là kinh cầu, một sa mạc vô sinh, vô vọng. Chính thơ tình Nhã Ca là nhịp sống, là cái hồn, cái túy, và là trái tim của cả Kinh Thánh. Nhã Ca đã nâng kinh điển cổ xưa lên cung bậc thánh. 117 câu thơ trong thơ tình Nhã Ca chuyển tải sinh lực sống đến tất cả cấu trúc tinh vi của hàng tỉ ý tưởng nhiệm mầu trong cả Kinh Thánh. Chúng ta không thể hiểu sâu sắc lời lẽ Kinh Thánh nếu chưa hiểu, chưa sống và chưa yêu như đôi trai gái trong thơ tình Nhã Ca…
Nhã Ca thổ lộ tình yêu và định ý tốt đẹp Tạo Hóa dành cho loài người và muôn loài vạn vật khắp nơi trên hoàn vũ, rằng tình yêu là sự sống, và sự sống là tình yêu. Muôn hoa đua nở trên khắp đồng nguyên, vẻ đẹp huyền nhiệm tiếp diễn qua khung cảnh bốn mùa, đến đôi môi thẹn thùng cười trong lần gặp gỡ đầu của đôi nam nữ, tất cả nói lên một sự thật bất biến, rằng Thiên Chúa là tình yêu thương, rằng chúng ta chính là hiện thân của tình yêu hoàn mỹ được Ngài tạo dựng.
Trong cách nhìn của Mục sư, người nữ - vốn là phái yếu, là những người từng bị coi thường - trở nên thiêng liêng và cao quý. “Em rất thích cách anh diễn tả về tình yêu lứa đôi, cho người nghe như em có một cảm giác được đưa lên cung tầng rất cao, ở nơi đó không còn vương vấn bất kỳ lo lắng, tính toan, khổ sở của kiếp sống trần gian. Đọc từng lời anh viết về người nữ, em thấy mình đẹp đặc biệt, quý phái và sang trọng, em biết mình thật sự là cô gái nhà quyền quý, con của Vua Trời. Em hạnh phúc trọn vẹn vì được tỉnh ngộ, nhận biết đặc ân được làm người nữ, được yêu thương, trân trọng, bảo vệ và chăm sóc.”
Tác giả:
Mục sư Ngô Duy Cường, tác giả Tôi Đi Tìm Ai và Không Gì Dễ Bằng Yêu. Ông tốt nghiệp đại học Mỹ thuật tại Hoa Kỳ, từng triển lãm họa phẩm nghệ thuật tại các thành phố lớn. Ông hoàn thành chương trình thạc sĩ thần học tại Viện Thần Học Andrews University năm 2001 và viết luận án tiến sĩ năm 2015.
Niềm hạnh phúc thường ngày của ông là được tản bộ trong cảnh thiên nhiên, vui với nét cọ trên khung vải, ngồi viết lách, tĩnh lặng và thưởng thức tách trà ấm theo khung cảnh bốn mùa.
Trích đoạn nội dung:
Tất cả những gì cần biết về thiên nhiên, vũ trụ và Đấng Tạo Hóa đều đã được gói gọn trong châu thân người nữ. Người ta tìm kiếm thiên đàng, niết bàn, thêu dệt hình ảnh một vị thần linh nào đó để sùng bái, ra vẻ như yêu lắm nét tinh hoa của vị thần linh họ thờ phụng. Nhưng lạ quá, nét thiên đàng hiển hiện ngay trong châu thân người nữ lại bị thế giới đàn ông quấy nhiễu, lạm dụng và sử dụng như một thứ đồ vật tùy hứng và tùy ý không hơn không kém. Tạo Hóa không hề đưa người nữ vào đời như một công cụ giúp việc cho người nam, nhưng là một nửa linh hồn để hoàn thiện nhân cách sống của người nam. Yêu thương và bảo vệ người nữ là thước đo giá trị đạo đức của một người đàn ông đúng nghĩa đàn ông.
Nhã Ca chỉ vỏn vẹn 117 câu, nhưng là nguyên gốc của nhiều sách liên quan đến tình yêu và hôn nhân từng được viết. Ít nhiều trong các sách được xuất bản, các tác giả đã trích dẫn những ý tưởng và bí quyết yêu từ Nhã Ca. Tạo Hóa, Nguồn Gốc của âm và dương, nam và nữ, đã khai thị cho thế giới nhân loại cả một biển kho tàng vô giá về bí quyết yêu trong 117 câu thơ tình Nhã Ca.
Trong nghệ thuật chuyển ngữ, các học giả Việt Nam đã rất tài khéo trong cách dùng từ để thổ lộ khát vọng sâu kín trong tâm can người nữ: “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thao thức.” Người nữ đã vào nơi êm ấm nhất của mình, nơi đây nàng đã được hứa hẹn rằng chàng sẽ đưa nàng vào “phòng yến tiệc, và phủ lên nàng lá cờ tình yêu”, nhưng sao đã nằm trong giường, mảnh vườn lòng đã mở khóa, suối nước đã chuẩn bị cho sự dạt dào của nó, mà nàng lại “thao thức”?
TÁC GIẢ
Milan Kundera sinh năm 1929 ở Séc, định cư ở Pháp từ năm 1975 và nhập quốc tịch Pháp năm 1981. Sớm nổi tiếng với các bài thơ và tiểu thuyết bằng tiếng Séc, ông chuyển hẳn sang sáng tác bằng tiếng Pháp từ năm 1995. Ngoài mười cuốn tiểu thuyết và một tập truyện ngắn (chín trong đó đã được dịch ở Việt Nam), ông còn viết kịch, phê bình và tiểu luận, với bốn tập tiểu luận về văn học viết trực tiếp bằng tiếng Pháp đều đã dịch sang tiếng Việt.
Các tác phẩm của Kundera đã xuất bản bằng tiếng Việt:
Tiểu thuyết, tập truyện ngắn:
- Cuộc sống không ở đây (Cao Việt Dũng dịch)
- Những mối tình nực cười (Cao Việt Dũng dịch)
- Điệu van giã từ (Cao Việt Dũng dịch)
- Đời nhẹ khôn kham (Trịnh Y Thư dịch)
- Sự bất tử (Ngân Xuyên dịch)
- Chậm (Ngân Xuyên dịch)
- Căn cước (Ngân Xuyên dịch)
- Vô tri (Cao Việt Dũng dịch)
Tiểu luận:
- Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch)
- Những di chúc bị phản bội (Nguyên Ngọc dịch)
- Màn (Cao Việt Dũng dịch)
- Một cuộc gặp gỡ (Nguyên Ngọc dịch)
Kitayama Shizuku, bạn cùng lớp của Miyuki sẽ đi du học ở USNA (Hợp chúng quốc Bắc Mỹ). Trong thời đại này, để tránh thất thoát gien di truyền cũng như tài nguyên quân sự, các pháp sư có trình độ cao bị chính phủ giới hạn (hoặc có thể nói là nghiêm cấm) xuất ngoại. Mặc dù vậy, Shizuku vẫn được cho phép đi du học theo diện trao đổi.
Angelina Kudou Shields, người nhập học trường trung học phép thuật thể chỗ cho Shizuku đã sang Mỹ, là một cô gái với mái tóc vàng và đôi mắt xanh biếc. Từ cái nhìn đầu tiên, Tatsuya đã ngay lập tức nhận ra danh tính của cô một trong “mười ba sứ đồ”, một pháp sư cấp chiến lược ngang tầm vũ khí hủy diệt hàng loạt, kiêm tổng đội trưởng đội pháp sư STARS. Đối đầu với “Tia lửa”, pháp sư mạnh nhất của quân đội Hoa Kỳ được cử đến trường trung học phép thuật, Tatsuya sẽ phải làm gì đây?
VỀ TÁC GIẢ
Sato Tsutomu
Sato Tsutomu sinh năm 19XX tại một miền quê hẻo lánh của Nhật Bản. Anh từng xem thể loại khoa học viễn tưởng về vũ trụ là lương thực để sống qua thời niên thiếu. Thời thanh niên Sato Tsutomu chuyển sang đam mê thể loại giả tưởng và tiểu thuyết truyền kỳ. Sau khi tốt nghiệp, anh bán linh hồn cho thế giới hiện thực trong vai trò một chiến binh công sở (dù chỉ là lính lác). Năm 2011, anh trở lại thế giới giả tưởng trên cương vị một nhà văn cho tuổi teen ra mắt muộn màng.
Minh họa: Ishida Kana
Ishida Kana sinh năm 19XX. Đây là lần đầu cô làm công việc vẽ minh họa. Công việc chính của cô là họa sĩ phim hoạt hình. Những tác phẩm điển hình trước đây của Ishida Kana là CODE GEASS: Lelouch of the Rebellion, Mobile Suit Gundam Unicorn (giám sát hình ảnh), Ore no Imoto ga Konnani Kawaii Wake ga Nai (đạo diễn hình ảnh)…
Vẫn là chú thỏ con Simon lúc thì mè nheo vòi vĩnh khi đi siêu thị, lúc thì nhút nhát bướng bỉnh khi đi khám răng, lúc lại không biết chia sẻ khi đòi bố mẹ cho em bé quay trở lại bệnh viện để em bé khỏi chiểm mất không gian của mình.
Nhưng chẳng sao cả, bởi vì là Siêu Thỏ, nên rốt cuộc chú vẫn rất can đảm vượt qua mọi sợ hãi, biết yêu thương, cảm thông và đặc biệt ra dáng một người anh tuyệt vời!
"Những cuộc phiêu lưu của Siêu Thỏ Simon đem đến một góc nhìn thật hài hước về các giai đoạn phát triển mấu chốt của trẻ nhỏ." - fnac.com
Stephanie Blake
Sinh năm 1968, là tác giả sách thiếu nhi sống tại Paris nhưng chào đời ở Northfield, bang Minnessota, Mỹ. Các cuốn sách của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khắp châu Âu, châu Á. Tên tuổi bà gắn liền với chú thỏ Simon có biệt danh Siêu Thỏ. Nhiều cuốn trong bộ truyện tranh Siêu Thỏ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường học danh tiếng.
Vẫn là chú thỏ con Simon lúc thì mè nheo vòi vĩnh khi đi siêu thị, lúc thì nhút nhát bướng bỉnh khi đi khám răng, lúc lại không biết chia sẻ khi đòi bố mẹ cho em bé quay trở lại bệnh viện để em bé khỏi chiểm mất không gian của mình.
Nhưng chẳng sao cả, bởi vì là Siêu Thỏ, nên rốt cuộc chú vẫn rất can đảm vượt qua mọi sợ hãi, biết yêu thương, cảm thông và đặc biệt ra dáng một người anh tuyệt vời!
"Những cuộc phiêu lưu của Siêu Thỏ Simon đem đến một góc nhìn thật hài hước về các giai đoạn phát triển mấu chốt của trẻ nhỏ." - fnac.com
Stephanie Blake
Sinh năm 1968, là tác giả sách thiếu nhi sống tại Paris nhưng chào đời ở Northfield, bang Minnessota, Mỹ. Các cuốn sách của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khắp châu Âu, châu Á. Tên tuổi bà gắn liền với chú thỏ Simon có biệt danh Siêu Thỏ. Nhiều cuốn trong bộ truyện tranh Siêu Thỏ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường học danh tiếng.
Vẫn là chú thỏ con Simon lúc thì mè nheo vòi vĩnh khi đi siêu thị, lúc thì nhút nhát bướng bỉnh khi đi khám răng, lúc lại không biết chia sẻ khi đòi bố mẹ cho em bé quay trở lại bệnh viện để em bé khỏi chiểm mất không gian của mình.
Nhưng chẳng sao cả, bởi vì là Siêu Thỏ, nên rốt cuộc chú vẫn rất can đảm vượt qua mọi sợ hãi, biết yêu thương, cảm thông và đặc biệt ra dáng một người anh tuyệt vời!
"Những cuộc phiêu lưu của Siêu Thỏ Simon đem đến một góc nhìn thật hài hước về các giai đoạn phát triển mấu chốt của trẻ nhỏ." - fnac.com
Stephanie Blake
Sinh năm 1968, là tác giả sách thiếu nhi sống tại Paris nhưng chào đời ở Northfield, bang Minnessota, Mỹ. Các cuốn sách của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khắp châu Âu, châu Á. Tên tuổi bà gắn liền với chú thỏ Simon có biệt danh Siêu Thỏ. Nhiều cuốn trong bộ truyện tranh Siêu Thỏ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường học danh tiếng.
Vẫn là chú thỏ con Simon lúc thì mè nheo vòi vĩnh khi đi siêu thị, lúc thì nhút nhát bướng bỉnh khi đi khám răng, lúc lại không biết chia sẻ khi đòi bố mẹ cho em bé quay trở lại bệnh viện để em bé khỏi chiểm mất không gian của mình.
Nhưng chẳng sao cả, bởi vì là Siêu Thỏ, nên rốt cuộc chú vẫn rất can đảm vượt qua mọi sợ hãi, biết yêu thương, cảm thông và đặc biệt ra dáng một người anh tuyệt vời!
"Những cuộc phiêu lưu của Siêu Thỏ Simon đem đến một góc nhìn thật hài hước về các giai đoạn phát triển mấu chốt của trẻ nhỏ." - fnac.com
Stephanie Blake
Sinh năm 1968, là tác giả sách thiếu nhi sống tại Paris nhưng chào đời ở Northfield, bang Minnessota, Mỹ. Các cuốn sách của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khắp châu Âu, châu Á. Tên tuổi bà gắn liền với chú thỏ Simon có biệt danh Siêu Thỏ. Nhiều cuốn trong bộ truyện tranh Siêu Thỏ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường học danh tiếng.
Vẫn là chú thỏ con Simon lúc thì mè nheo vòi vĩnh khi đi siêu thị, lúc thì nhút nhát bướng bỉnh khi đi khám răng, lúc lại không biết chia sẻ khi đòi bố mẹ cho em bé quay trở lại bệnh viện để em bé khỏi chiểm mất không gian của mình.
Nhưng chẳng sao cả, bởi vì là Siêu Thỏ, nên rốt cuộc chú vẫn rất can đảm vượt qua mọi sợ hãi, biết yêu thương, cảm thông và đặc biệt ra dáng một người anh tuyệt vời!
"Những cuộc phiêu lưu của Siêu Thỏ Simon đem đến một góc nhìn thật hài hước về các giai đoạn phát triển mấu chốt của trẻ nhỏ." - fnac.com
Stephanie Blake
Sinh năm 1968, là tác giả sách thiếu nhi sống tại Paris nhưng chào đời ở Northfield, bang Minnessota, Mỹ. Các cuốn sách của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khắp châu Âu, châu Á. Tên tuổi bà gắn liền với chú thỏ Simon có biệt danh Siêu Thỏ. Nhiều cuốn trong bộ truyện tranh Siêu Thỏ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường học danh tiếng.
Những trang nhật ký chiến trường "Lính chiến" đã làm sống lại những năm tháng kháng chiến hào hùng của vùng đất miền Trung - Tây Nguyên, đặc biệt là địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Với tinh thần tiếp lửa truyền thống xếp bút nghiên lên đường chiến đấu sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân của mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, những trang sách "Lính chiến" mang tinh thần của các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh cho độc lập tự do đến mọi miền tổ quốc, mang tình cảm của các cựu chiến binh đến với cuộc sống hòa bình hôm nay. Cuốn sách này là món quà tặng nhân văn và hết sức ý nghĩa cho những người đã từng sống, chiến đấu hoặc sinh ra và lớn lên tại miền Trung - Tây Nguyên và cả những bạn đọc biết trân trọng lịch sử, truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Giữa không gian êm đềm mà oi bức của một khu dân cư yên tĩnh bên lề công viên Brockwell, Nam London, một cặp vợ chồng được phát hiện trong tình trạng mất nước trầm trọng, tay chân bị trói chặt và mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. Họ đã bị giam cầm trong chính ngôi nhà của mình, phía sau mặt tiền trang nhã và tưởng chừng rất bình yên. Và còn chưa hết: Con trai nhỏ của họ đã biến mất.
Khi thanh tra Jack Caffery được triệu tập đến điều tra sự việc, những điểm tương đồng giữa vụ mất tích lần này với các sự kiện từng xảy ra trong quá khứ của chính anh khiến Jack không thể có được một cái nhìn phân minh khi tiếp cận vụ án. Càng đào sâu, anh càng phải cố gắng để bảo toàn cuộc sống của riêng mình để nó khỏi vụn vỡ dần theo từng mảnh ghép được lật mở - những mảnh ghép vô cùng đáng lo ngại về cả quá khứ lẫn hiện tại, và đó chính là lúc cơn ác mộng thực sự bắt đầu....
MO HAYDER
(1962-2021) là nhà văn Anh chuyên viết tiểu thuyết trinh thám ly kỳ. Năm 1978, bà bỏ học và rời bỏ gia đình, làm nhiều công việc khác nhau (phục vụ bar, bảo vệ...) trước khi đến Nhật năm 25 tuổi. Sau hai năm ở Nhật, bà tiếp tục đến nhiều nơi trên thế giới, quan sát và thấu hiểu cuộc sống, văn hóa của nhiều dân tộc. Niềm đam mê phim hoạt hình đã đưa bà tới Los Angeles. Sau khi nhận bằng Thạc sĩ chuyên ngành Điện ảnh tại American University, bà về Anh lấy bằng Thạc sĩ Sáng tác tại Bath Spa University.
Các tác phẩm khác của MO HAYDER đã được Nhã Nam xuất bản:
Ác quỷ Nam Kinh
Điểu Nhân
Chuyện của chúng tôi là một cuốn tự truyện của Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc. Cuốn sách gồm 7 chương, chương 1 có tựa đề “Quê hương”, tác giả viết về những vấn đề đã cũ (cải cách ruộng đất) nhưng dưới góc nhìn tinh tế và đổi mới. Chương 2, chương 3 và chương 4 có tựa đề “Thời đi học”. “Dấu ấn khởi đầu”, “Bước đường phát triển”, tác giả khắc họa ký ức tuổi thơ trong những năm tháng học tập và trưởng thành của học sinh sinh viên trong cuộc chiến tranh ác liệt. Chương 5, chương 6 và chương 7, tác giả chia thành những mục nhỏ với chủ đề “Hành trình hội nhập, “Những câu chuyện đáng nhớ” và “Những câu chuyện vui”, trong các phần này bằng kinh nghiệm cá nhân khi còn công tác, tác giả kể những câu chuyện có thật dưới góc nhìn tinh tế và hài hước.
Mỗi câu chuyện trong cuốn sách là sự chắt lọc tinh tế từ cuộc sống, những triết lý sâu sắc nhưng nhẹ nhàng, để lại ấn tượng đặc biệt với người đọc.
CUỐN SÁCH CÓ GÌ ĐẶC BIỆT
Độc giả mà cuốn sách hướng tới là những ai? Họ cần giải quyết những công việc gì?
Cuốn sách này phù hợp với những người trưởng thành, đã kinh qua nhiều biến động, trải nghiệm những gian nan trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, có một cái nhìn toàn cảnh về những biến động của xã hội.
Tại sao độc giả nên đọc cuốn sách này? Cuốn sách đem đến giá trị gì để giải quyết những lo lắng (đau đớn) của độc giả?
Cuốn sách đem đến cho khách hàng những giá trị gia tăng gì ngoài mong đợi của họ?
Cuốn sách mang đến cho người đọc những câu chuyện thú vị trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, dưới góc nhìn của Nguyên Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CUỐN SÁCH
- Với cách viết, lời văn tinh tế, tự nhiên; với tư liệu, chất liệu phong phú và chân thực, tác giả đã kể chuyện cuốn hút, khiến người đọc hồi hộp, “tò mò”, đọc mãi, đọc mãi… Lối viết vừa chân tình, chân thực, dí dỏm và có cả tiếng cười trong đó khiến người đọc cảm thấy thú vị. Mỗi câu chuyện là sự chắt lọc tinh tế từ cuộc sống, một triết lý sâu sắc nhưng rất nhẹ nhàng, vừa uyên thâm, vừa có tính giải trí, để lại trong lòng người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, ấm áp... - PGS.TS. Nguyễn Trọng Điều
Các câu chuyện anh kể thật hay và hấp dẫn. Anh viết mộc mạc, giản dị, nhưng mỗi câu chuyện, chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện buồn, chuyện vui, đều để lại những ấn tượng sâu sắc. Đó cũng có thể là những bài học, sự chia sẻ về công việc; về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ với biết bao thăng trầm, nhưng thật đáng trân trọng; về tình người với nhiều cung bậc khác nhau, nhưng vẫn luôn vị tha, ấm áp. - Hồ Quang Minh
“Cuốn sách đã đưa tôi về những miền ký ức cách đây cả nửa thế kỷ với bao buồn vui giúp tôi hồi tưởng , chiêm nghiệm nhiều điều xảy ra, nay được kể lại một cách chân thật, giản dị, cởi mở, dưới cái nhìn hết sức tỉnh táo, bao dung, và sự đúc kết nhẹ nhàng mà sâu sắc, thấm thía của tác giả.” – Phạm Chi Lan
TÁC GIẢ:
Ông Võ Hồng Phúc, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1945, quê ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một chính khách của Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, IX, X; đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, XII.
Phiền muộn ư? Ai mà chẳng có lúc như thế. Nhưng với Nhóc Nicolas và nhóm bạn hết sảy của cậu: Alceste (thằng to béo ăn luôn mồm), Eudes (thằng chỉ thích đấm vào mũi bạn), Maixent (thằng có hai đầu gối lúc nào cũng bẩn), Clotaire (thằng đứng bét lớp nhưng lại có một cái xe đạp), Geoffroy (thằng có ông bố giàu ơi là giàu), Joachim (thằng vừa có một đứa em trai), Rufus (thằng có bố làm cảnh sát) và Agnan (thằng cục cưng của cô giáo) thì những phiền muộn có thể sẽ rất kinh khủng! Nhất là khi lại có bố, bà, thầy hiệu trưởng và thầy giám thị Nước Lèo nhúng tay vào.
Nhưng rồi cũng với nhóc Nicolas, mọi chuyện đều có thể dàn xếp được... cho dù theo một cách chẳng lô gic tí nào!
Trường học là nơi dành cho bạn bè. Chính vì lý do hiển nhiên này mà Nicolas rất thích trường học, nhất là giờ ra chơi. Có thằng Clotaire khóc nhè, có thằng Alceste đang ăn bánh mứt, có thằng Agnan điên rồ đang ôn lại bài, có cả thằng Geoffroy và thằng Maixent nữa, và không thể thiếu được thầy giám thị Nước Lèo. Nhưng những giờ ra chơi của nhóc Nicolas và nhóm bạn “hết sảy” của mình diễn ra giữa các tiết học hay chính trong các tiết học đó? Đó là câu hỏi thường trực trong đầu của thầy giám thị Nước Lèo, thầy hiệu trưởng và cô giáo. Nhóm bạn “kinh khủng” này đã làm cho tất cả không được một phút nghỉ ngơi, nhưng cũng không có phút nào để muộn phiền.
Thằng đầu tiên có một ông bố mua cho nó tất tật những thứ nó muốn. Thằng thứ nhì là cục cưng của cô giáo. Thằng thứ ba là đứa khoẻ nhất lớp. Bố thằng thứ tư thì là nhân viên cảnh sát. Thằng thứ năm chuyên xếp bét lớp. Cái thằng thứ sáu to béo ham ăn... cái băng bạn của tôi ấy à, thật là hết sảy nhất đời: Geoffroy, Agnan, Eudes, Rufus, Clotaire, Maixent, Alceste, Joachim... và cả tôi nhóc Nicolas.
“Đấy là do bác sĩ, thằng Clotaire giải thích cho chúng tôi, đã bảo với bố mẹ tao rằng nếu như tao xếp thứ bét, thì có thể tại vì tao nhìn mọi thứ trong lớp không được rõ. Thế là người ta dẫn tao vào một cửa hàng kính và ông hàng kính nhìn vào mắt tao bằng một cái máy không làm đau tẹo nào, ông ta bắt tao phải đọc hàng đống chữ chả có ý nghĩa gì hết và rồi ông ta đưa cho tao kính, và bây giờ, bùm! Còn lâu tao mới xếp thứ bét nhé!”
“Khi chúng tôi vào trong lớp, cô giáo nói với chúng tôi:
- Các em, sáng nay, các bác sĩ sẽ đến để...
Và cô không thể nào nói tiếp được, bởi vì thằng Agnan đã đứng phắt ngay dậy.
- Các bác sĩ? thằng Agnan kêu lên. Em không muốn đi khám bác sĩ! Em sẽ không đi khám bác sĩ! Em phản đối! Với cả em không thể đi khám bác sĩ được, em bị ốm.
Vậy là ban đang cầm trên tay Nhóc Nicolas và các bạn, cuốn sách đã từng đoạt Giải Alphonse Allais dành cho tác phẩm khôi hài nhất của năm, và là một trong xê-ri năm cuốn kinh điển lừng danh về nhóc Nicolas của Goscinny và Sempé.
Đầu tiên là khách sạn Bờ Biển Đẹp, cùng bọn bạn mới: Blaise, Fructueux, Mamert, Irénée, Fabrice và Côme. Kế đến là vụ cho đỗ nảy mầm hụt trước khi đến Trại Xanh nghỉ hè, nơi cả lũ chơi vui kinh lên được. Ôi những kỳ nghỉ hè của nhóc, hết sảy biết bao nhiêu! Thế mà khi về nhà cái con Marie-Edwige lại còn dám trộ Nicolas nữa cơ chứ!
“-Tao không thích, thằng Côme bảo.
- Thế sao mày lại không thích? Con Micheline hỏi.
- Bởi vì nó thấy cậu bé quá chứ còn làm sao, con Isabelle nói. Nó thích làm chồng tớ hơn.
- Còn lâu nhé! Con Micheline nói và nó tát cho thằng Côme một cái và thằng Mamert bắt đầu khóc. Để làm cho thằng Mamert câm miệng, thằng Côme nói rằng nó sẽ làm chồng bất cứ đứa nà.”
“- Thế đấy, mẹ nói, bây giờ anh lại còn lăng mạ cả mẹ!
- Anh lăng mạ bao giờ? Bố kêu lên. Mẹ bắt đầu khóc lóc, còn bố vừa đi lại trong phòng khác vừa quát lác, còn tôi thì tôi bảo là nếu không cho đỗ xanh của tôi nảy mầm ngay, tôi sẽ tự tử. Vậy là, mẹ đã đét đít tôi. Các bậc bố mẹ ấy à, mỗi khi đi nghỉ về, là không thể nào chịu đựng nổi!”
Có bao giờ bạn thắc mắc món ăn trên bàn của bạn từ đâu tới? Bạn sẽ không ngờ được rằng xung quanh những món ăn nổi tiếng trên thế giới và những món ăn được yêu thích ở Việt Nam lại có nhiều câu chuyện thú vị đến thế!
Cuốn sách tranh Nào ta cùng ăn của họa sĩ Mèo Mốc sẽ dẫn bạn vào cuộc khám phá nguồn gốc xuất xứ các món ăn hấp dẫn bằng những bức tranh sinh động và lối dẫn truyện vui nhộn. Bạn sẽ ngạc nhiên, bạn sẽ bật cười, bạn sẽ cảm thấy những món đã từng ăn bỗng ngon lên gấp bội, đồng thời háo hức muốn nếm thử những món mình chưa hề biết đến.
Serotonin (dịch từ nguyên tác tiếng Pháp: Sérotonine, Éditions Flammanrion, 2019) là tác phẩm của nhà văn Michel Houellebecq. Xuyên suốt tiểu thuyết là giọng kể của một người đàn ông 46 tuổi, tên Florent-Claude Labrouste. Ông đột ngột rời bỏ bạn gái, từ bỏ ông việc và trốn đến một khách sạn ở một quận khác của Paris.
Thời gian này, Florent-Claude tìm đến bác sĩ kê đơn chống trầm cảm để khắc phục tình trạng thiếu hụt serotonin trong não. Thế nhưng, từ ngày uống loại thuốc này, ông đã mất đi mọi ham muốn cuộc sống, kể cả ham muốn tình dục. Dẫu vậy lòng ông luôn thôi thúc tìm lại những người tình cũ, muốn tái ngộ những người đã đóng vai trò trong đời mình, muốn trò chuyện cùng họ, lần cuối. Trở về Normandie, ngỡ rằng có thể tìm thấy sự thanh thản, Florent-Claude lại chứng kiến một cuộc bạo động của nông dân địa phương, những người đã bị bỏ quên sau quá trình toàn cầu hóa và các chính sách nông nghiệp của chính phú.
Dữ dội và mạnh mẽ trong ý tưởng, lạnh lùng và trung lập trong góc nhìn, một chút hài hước xen lẫn với nỗi u buồn bàng bạc khắp nội dung, tiểu thuyết Serotonin của Michel Houellebecq là khúc ca lãng mạn và đau thương về những bi kịch của cuộc đời con người.
“Chúng ta sống lại trong con cái mình
Ở đâu đó, cha đã đọc được rằng sau khi chết, chúng ta còn được hưởng một quãng 'sống thêm' cả trăm năm nữa, trước khi những người từng quen biết chúng ta, những người được nghe nói đến chúng ta một cách trực tiếp, đến lượt họ cũng biến mất khỏi cuộc đời. Rồi sau đó mới là sự lãng quên, hoặc huyền thoại được kể lại.... Và quãng sống thêm ấy phụ thuộc vào người chứng kiến đầu tiên, phụ thuộc vào đứa con.
Cha sắp có một đứa con, nó sẽ nhìn cha sống rồi sẽ truyền lại cho con cái nó hình ảnh về cha được khắc ghi trong tâm trí nó.”
Câu chuyện của một người kể về cha mình với con trai, với những chiêm nghiệm về gia đình, về những khác biệt thế hệ và và những hy sinh thầm lặng của người trước dành cho người sau. Cái dòng chảy ấy của huyết thống, tưởng âm thầm lặng lẽ mà thực ra lại luôn mạnh mẽ và bền bỉ giữa những thăng trầm và sóng gió cuộc đời, để rồi mỗi người càng thấm thía hơn những tầng sâu ý nghĩa của hai chữ “gia đình".
Georges Simenon sinh ngày 13 tháng Hai năm 1903 tại Liège (Bỉ), mất tại Lausanne (Thụy Sĩ) ngày 4 tháng Chín năm 1989.
Ban đầu là phóng viên, sau là tác giả với nhiều bút danh khác nhau của hàng loạt tiểu thuyết danh tiếng, Simenon đã tạo ra nhân vật thanh tra Maigret đưa ông đến với thành công trên khắp thế giới. Ông đã xuất bản khoảng 200 tiểu thuyết, 155 truyện ngắn và 25 tự truyện được dịch ra trên 50 ngôn ngữ tại 50 quốc gia khác nhau, chuyển thể thành hơn 70 bộ phim và tiêu thụ hơn 800 triệu bản trên toàn thế giới.
Simenon còn là:
- tác giả tiếng Pháp trong thế kỷ 20 được dịch nhiều nhất thế giới
- tác giả tiếng Pháp được dịch nhiều thứ ba trong mọi thời đại, chỉ sau Jules Verne và Alexandre Dumas
- tác giả được dịch nhiều thứ ba trong mọi thời đại ở Mỹ và Anh (theo UNESCO)
Kinh khủng Gì Đâu nằm trong số những quái vật được yêu mến nhất mọi thời đại. Từ lần đầu xuất bản năm 1999, câu chuyện về cuộc đụng độ giữa Gì Đâu và chú chuột nâu trong khu rừng sâu thẳm đã chinh phục trái tim trẻ nhỏ và người lớn trên toàn thế giới. Câu chuyện là sáng tạo của Julia Donaldson và Axel Scheffler, bộ đôi nhà văn-họa sĩ thành công nhất trong địa hạt sách tranh, Kinh khủng Gì Đâu là một câu chuyện cổ hiện đại mà cả chuột và quái vật đều trở thành những ngôi sao trên sân khấu lẫn giờ kể chuyện. Năm năm sau ngày Kinh khủng Gì Đâu, Bé Gì Đâu được xuất bản, cuốn sách đã chứng tỏ được sức cuốn hút của mình và được bình chọn là Cuốn sách thiếu nhi của năm tại giải thưởng British Book of the Year năm 2015. Tương tự, Kinh khủng Gì Đâu cũng đạt rất nhiều giải thưởng, bao gồm Nestlé Smartie Proze và Blue Peter Award cho Cuốn sách đọc thành tiếng hay nhất – và năm 2009 được bình chọn là Câu chuyện trước khi đi ngủ hay nhất tại Anh. Kinh khủng Gì Đâu được yêu thích bởi độc giả toàn cầu: cuốn sách được dịch ra hơn 60 thứ tiếng, bao gồm tiếng Thái, Nga, Scots và Maori, tiếng Việt…, thậm chí cả tiếng Latin cho các học giả cổ điển. Kinh khủng Gì Đâu thực sự là một hiện tượng toàn cầu, cả hai cuốn sách đều được chuyển thể thành phim, được lồng tiếng bởi Robbie Coltrane, James Corden, John Hurt và Helena Bonham Carter.
Bé Gì-đâu rất hay tò mò. Dù bố đã dặn kỹ bé phải tránh xa những rắc rối, nhưng bí mật hấp dẫn về Chuột-khổng-lồ thì thật khó cưỡng. Rồi một đêm mưa tuyết khi bố đang ngủ, bé Gì-đâu quyết định làm một chuyến thám hiểm vào rừng.
“Mình chẳng sợ gì đâu!”
Bé Gì-đâu tự nhủ
dẫu tuyết có rơi dày
và gió đang gầm rú.”
Rồi bé sẽ gặp rắn, cú và cáo, và than ôi, cả… Suỵt, bạn hãy tự mình tìm hiểu nhé.
Bộ đôi Khủng khiếp Gì-đâu và Bé Gì-đâu, đã được bình chọn là Câu chuyện gối đầu giường tại Anh năm 2009, hẳn cũng sẽ mang đến những tràng cười sảng khoái cho các bạn nhỏ Việt Nam trước giờ đi ngủ.
“Một cuốn sách thông minh và tươi tắn.” – Booklist.
Mỗi người có một miền quê thương mến, rộng ra cho cả cộng đồng thì đó chính là cội nguồn dân tộc. Trân trọng nguồn cội dấu yêu là nền tảng căn bản để từng người con lớn lên lành mạnh. Để hiểu về dân tộc mình thì bước đầu tiên là học rành rẽ ngôn ngữ, câu chữ từ xưa truyền lại.
Ông cha ta để lại rất nhiều cụm từ, câu nói, bài thơ ngắn gọn, giản dị, giàu nhịp điệu và hình ảnh... Thuộc những cụm từ ấy, ta giàu thêm vốn từ, ta biết thêm kinh nghiệm, và tâm hồn ta cũng “giàu có” rất nhiều. Đó là những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca... Cuốn sách này lựa ra những thành ngữ và tục ngữ thường gặp và dễ hiểu với bạn đọc trên 3 tuổi, thêm chú dẫn những khái niệm cổ và khó, thêm các cụm từ gần gặn... giúp các bạn đọc ít mà hiểu nhiều.
Dưới thời nhà Trần, khi giặc Nguyên Mông lăm le tràn sang bờ cõi nước ta, có năm chàng trai trẻ tài đức vì căm thù giặc mà cùng nhau lập nên nhóm "Thăng Long Ngũ Hiệp”. Người trẻ nhất có tên là Trần Quốc Toản. Thế nhưng đây không phải là câu chuyện về Trần Quốc Toản, một trong những nhân vật hiển hách nhất nhà Trần, mà là về Trần Bảo Ngọc, một chàng trai vừa mắc nợ tình vừa mắc nợ núi sông.
Mọi chuyện bắt đầu vào một chiều thu trên đoạn đường rừng, khi Bảo Ngọc cùng hai cận vệ trung thành là cha con Trần Nhị và Trần Trung bị một bọn cướp rừng tấn công. Trong lúc hỗn loạn, con ngựa trắng như tuyết của Bảo Ngọc đã phi đi mất cùng một người con gái kỳ lạ. Lần theo người con gái ấy, rồi đây chàng công tử họ Trần sẽ rơi vào một vòng xoáy vô tận của những bí mật rừng sâu, những cuộc thanh trừng đẫm máu và cả những âm mưu phản nghịch đã bám rễ ngay trong lòng triều đình...
Với Kỳ nữ gò Ôn Khâu, Đinh Hùng cho thấy ông không chỉ là thi sĩ của Mê hồn ca mà còn là một cây văn xuôi dồi dào bút lực, khi có thể mượn lịch sử để hầu chuyện trống canh, mượn tình riêng để ngợi ca non nước, mượn hư để soi thực và trên tất cả, mượn anh hùng để kể chuyện anh thư.
Hoài Điệp Thứ Lang (1920-1967) là một trong những bút danh của Đinh Hùng. Ông là một nhà thơ, tiểu thuyết gia Việt Nam thời tiền chiến.
Đinh Hùng sinh tại làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội). Năm 1954, ông cùng vợ con vào Sài Gòn, lập ra tờ nhật báo Tự do. Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết đã sử Kỳ nữ gò Ôn Khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng trên báo Tự do, báo Ngôn luận. Năm 1967, ông cho ra tuần báo Tao Đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn.
Jazz - một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người châu Phi ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, đã lan ra khắp thế giới và hiện diện ở mọi nền văn hóa âm nhạc quốc gia. Nhạc jazz mang đậm tính nghệ sĩ, đầy nét đặc trưng và khiến những thính giả khi đã thích rồi sẽ như một kẻ si tình với nó.
Ở Việt Nam, jazz cũng có rất nhiều câu chuyện riêng, kiến thức “nhập môn” riêng để khám phá, như người Việt chơi jazz ở Việt Nam là ai? Họ học chơi jazz ở đâu, bằng cách nào? Có thật là họ “chơi jazz” không?...
Những câu hỏi ấy sẽ được giải đáp trong Chơi jazz ở Việt Nam: Quyền Văn Minh và nhạc jazz Hà Nội - cuốn sách kể lại cuộc hành trình jazz ra đời ở Việt Nam, tập trung vào câu chuyện của nghệ sĩ Quyền Văn Minh - người đã tận hiến đời mình cho việc phát triển jazz ở mảnh đất quê hương, để thuật lại sống động cách mà nhạc jazz được nghe, được học và được biểu diễn ở nơi này.
Không phải một bài phỏng vấn tiêu chuẩn mà ta vẫn thường đọc trên báo chí, nội dung cuốn sách như góp nhặt từ những lần ngồi xuống tâm tình, hàn huyên cùng một người bạn đáng tin cậy, để từ chuyện đời mà nghe ra chuyện nhạc, chuyện jazz.
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CỦA CHUYÊN GIA
“Đây là cuốn sách mà những người yêu âm nhạc trên toàn cầu không thể bỏ lỡ”. - Yamashita Yosuke
TRÍCH ĐOẠN HAY
- Nếu như tôi được phép mạnh dạn nói, thì chuyện đời Quyền Văn Minh thực ra đã nói lên khá nhiều về việc jazz đã được bắt đầu ở Việt Nam ra sao. Khi so sánh, không có cá nhân nào ở các nước khác tại châu Á hay khu vực Đông Âu mà chúng tôi có thể ghi công cho toàn bộ sự phát triển của jazz để nó trở thành một dòng nhạc chính thống thực thụ ở quốc gia họ. Trong trường hợp của nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, những nỗ lực của Minh đã khơi mở động lực, từ việc biểu diễn jazz trước công chúng tới việc dạy jazz, cả chính thống và phi chính thống, tất cả đã đóng góp vào những cố gắng định hình một giọng điệu nguyên bản của Việt Nam để biểu diễn cùng những kết cấu âm thanh đa dạng của jazz thế giới, và quan trọng nhất, tạo nên một không gian công cộng cho các nhạc sĩ chơi jazz và người Việt nghe jazz. Những nỗ lực của ông đã tạo uy tín cho những cố gắng của nhạc viện quốc gia, giờ đây được biết với cái tên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, để cuối cùng đưa nhạc jazz thành một ngành học lấy chứng chỉ trung cấp, rồi lấy bằng cử nhân trong chương trình giáo dục âm nhạc chuyên nghiệp. Rất hợp lý khi bắt đầu câu chuyện về jazz ở nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa với câu chuyện đời Minh.
- Chơi jazz ở Việt Nam là một bài tập tự sự có tính cộng tác, sử dụng những lời của đích thân Quyền Văn Minh mà tôi xâu chuỗi lại như một trò chơi xếp hình từ rất nhiều cuộc đối thoại giữa chúng tôi trong những năm từ 2009 đến 2017.
- Jazz ở Việt Nam không phải là một thứ thanh âm nổi loạn được biểu diễn trong bóng tối, không hề, từ khi Minh biểu diễn thể loại này trước công chúng trong hai chương trình biểu diễn độc tấu được công nhận chính thức vào năm 1988 và 1989. (tr.28)
- Sinh ra ở Hà Nội vào năm 1954, hành trình của Quyền Văn Minh trong nhạc jazz diễn ra trong bối cảnh của những cuộc chiến tranh ở Đông Dương và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của người Việt Nam. […] Minh học đàn guitar cổ điển vào năm 1967 trước khi học clarinet theo sự động viên của mẹ mình vào năm 1968. Chỉ được học cơ bản về đàn clarinet, Minh vốn là một nhạc sĩ tự học. Việc tình cờ khám phá ra thứ âm nhạc kỳ quặc mà đầy mê hoặc trong khi mở một chiếc radio bán dẫn của gia đình đã thay đổi đời Minh. Minh khi ấy gọi nó là “âm nhạc mê hoặc”, bởi cậu không biết có thể loại nhạc nào mà thứ âm nhạc ấy có thể được phân vào đó. Cậu tự nhủ: “Mình phải học cái này mới được! Mình phải chơi được như thế!” Minh ghi nhớ từng nốt nhạc mà bản thân có thể nhớ được, tạo nên các ký hiệu biến ngẫu của riêng mình trên trang giấy, thực hành và bắt chước theo những gì cậu nghe được. [tr.33]
- Năm 1988 và 1989, Minh, khi ấy còn là cán bộ ở Đoàn Ca múa Thăng Long, đã tổ chức hai chương trình độc tấu giới thiệu jazz, như một phần các tiết mục trong buổi trình diễn trước công chúng được cấp phép chính thức. Lần đầu tiên, công chúng được nghe nhạc jazz do một nghệ sĩ Việt biểu diễn ở nước Việt Nam dưới thời xã hội chủ nghĩa. Minh được đất nước công nhận là nghệ sĩ saxophone đầu tiên ở Việt Nam sau khi diễn hai chương trình độc tấu tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Nhạc jazz được thừa nhận bởi những tên tuổi quan trọng trong giới âm nhạc chính thống. Cả hai buổi hòa nhạc đều được ghi hình và phát sóng trên truyền hình quốc gia. Jazz đã được nghe trên khắp Việt Nam khi đất nước bắt đầu những bước đi mới mẻ trên con đường cải cách. (tr.37)
- Với tôi, tôi nhìn vào đoàn chơi nhạc và tôi tự hỏi bản thân rằng liệu có một ngày khi jazz ở Việt Nam cũng có cùng được môi trường học tập như những sinh viên này có khi theo học ở Học viện Monk. Trước đó tôi chưa từng mơ rằng một ngày kia tôi có thể đứng kế bên Herbie Hancock trên sân khấu. Nhưng chúng tôi đã làm vậy! Tôi trước đó chưa từng mường tượng rằng mình có thể chơi hết tâm can trên sân khấu với một nghệ sĩ jazz vĩ đại và với sự tôn trọng lẫn nhau. Và rằng chúng tôi có thể học hỏi điều này điều kia từ nhau. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra cảnh tượng như vậy khi, khi còn là một cậu bé 14 tuổi, vô tình biết rằng nhạc jazz tồn tại trên thế giới này! (tr.85+86)
- Tôi sẽ luôn nhớ cái đói liên tục mà chúng tôi phải chịu đựng từ ngày này qua ngày khác trong thời kỳ ấy, nhưng không có cách nào khác. Chúng tôi chỉ có thể ăn khi trở về nhà, và chúng tôi chỉ có thể ăn trong giờ cơm của gia đình. Không có thức ăn ngoài. Tôi luôn chờ mẹ về nhà. Vì khi mẹ về nhà, bà sẽ chuẩn bị bữa trưa hay bữa tối cho cả gia đình, và điều đó có nghĩa là đã đến giờ ăn! (tr.93- thời kỳ tem phiếu)
- Ngay từ ban đầu khi bắt đầu chơi nhạc, tôi đã không có một bài học âm nhạc thực thụ nào. Khi tôi chơi thành thạo được một bản nhạc cụ thể nào đó, tôi sẽ ra chỗ mẹ và chơi cho bà nghe. Mẹ tôi lắng nghe và khen ngợi tôi: “Tuyệt vời!” cũng như động viên tôi tiếp tục luyện tập. Mẹ là một ca sĩ giỏi với giọng ca tuyệt đẹp. Anh có thể nói rằng bà là người thầy đầu tiên và duy nhất của tôi. Mẹ dạy tôi cách lắng nghe và khuyến khích tôi đưa cái mình nghe được bằng đôi tai của mình thành những gì mình chơi trên guitar, và sau này là clarinet. Khi tôi bắt đầu tham gia các buổi diễn và biểu diễn trong các đoàn ca múa, tôi có thể học những bản nhạc mới rất nhanh. (tr.97)
- Khi tôi bắt đầu học clarinet, tôi khao khát mọi thể loại âm nhạc. Tôi nghe mọi thể loại âm nhạc và tôi chơi mọi thể loại âm nhạc có vào thời đó! Bất cứ khi nào nghe được thứ gì thú vị, tôi sẽ thử chơi lại nó. Mỗi lần học được điều gì mới, tôi lại tập luyện chăm chỉ để thành thạo nó. Bất kể tôi chơi được gì trên guitar, tôi cũng sẽ gắng chơi được nó trên clarinet nữa. Tôi thậm chí còn đạp xe tới tận nhạc viện, đứng ngoài cổng và gắng nghe xem sinh viên đang tập gì trong lớp. Những ngày đó, các chú bảo vệ sẽ không cho bất cứ ai không có giấy phép hợp lệ bước vào nhạc viện. Tôi tập trung vào những thanh âm khác nhau mà tôi có thể nghe ra ở ngoài cổng và cố gắng phân biệt thông qua cái hỗn âm được chơi bởi những học trò khác nhau tập luyện những khóa nhạc khác nhau, những bài hát khác nhau và những nhạc cụ khác nhau. Tôi nhận ra rằng họ đang tập luyện những bài tập thực sự kỹ thuật và tinh tế mà tôi không thể đơn giản là học được từ tạp âm lờ mờ, chồng chất bên ngoài cổng. Tôi về nhà. (tr. 109+110 – đọc thêm về lần gặp gỡ của Minh với nhạc jazz)
- Tôi tập luyện một mình và cứ tập những gì tôi đã nghe. Tôi tập cả nhạc cổ điển nữa. Thực ra, bất kể bài nào, bất kể sách thực hành nào, bất kể người ta cho tôi mượn cái gì, tôi cũng tập tuốt! Tôi tiếp tục với thứ đạo đức nghề nghiệp đã khởi sự hành trình của tôi trong âm nhạc, tập luyện và cố gắng thành thạo bất cứ thứ âm nhạc nào tôi bắt gặp. Tôi trở thành một nhạc công cực kỳ đa năng bởi tôi luyện tập và học đủ loại nhạc mà tôi có thể có được hay mượn được. 1972 cũng là năm mà tôi bắt đầu dành nhiều sự chú ý hơn tới saxophone. Tôi nghĩ mình có thể nói rằng khi tôi chơi cho Đoàn Ca múa Hà Tây thì tôi đã là một trong những cây clarinet hàng đầu đất nước. (tr.141)
- Một cách tự nhiên, tôi đi loanh quanh xem những nhạc công jazz Hungary biểu diễn. Hungary có một nền nhạc jazz tuyệt diệu. Những nhạc công thật tuyệt diệu! Và tôi tự hỏi bản thân: “Tôi có thể đứng trong hàng ngũ những nhạc công Hungary và chơi jazz với họ, cùng họ?” Nhưng tôi nhận ra rằng nếu lúc đó tôi chọn ở lại Hungary, tôi sẽ không kiếm sống bằng âm nhạc của mình hay bằng cách chơi jazz. Tôi sẽ đi bán đồ trong chợ! Ngày đó, mọi người sẽ mang thuốc lá và đủ món đồ khác tới bán ở chợ nước ngoài. Anh có thể kiếm rất nhiều tiền nhờ làm thế. Tôi có thể giàu lên và có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trước chuyến đi, giám đốc đã nói chuyện với tôi: “Tôi khá lo lắng về việc ký giấy tờ cho cậu sang Hungary một mình. Tôi sợ là cậu có thể không muốn quay về Việt Nam”. Câu trả lời của tôi rất đơn giản: “Đời cháu đã gắn với việc chơi saxophone. Thứ duy nhất cháu muốn làm, là chơi nhạc. Cháu là người rất có nguyên tắc; khi chương trình xong thì cháu sẽ về. Đó là lời hứa của cháu đấy”. Khi tôi trở về Hà Nội, tôi đến bưu điện để gọi ngay cho ông giám đốc, để báo ông là tôi đã về rồi. Tôi muốn chơi jazz. Tôi đã quyết tâm chơi jazz ở Việt Nam. (tr.164+165)
- Minh không chỉ còn là một nghệ sĩ saxophone đắt show và một giảng viên saxophone ở Hà Nội, mà còn là một nghệ sĩ jazz đắt show với nhạc mục riêng gồm các nhạc phẩm jazz nguyên gốc. Ông được công nhận như bố già nhạc jazz ở Việt Nam, một tước phong mà các phóng viên trao cho ông khi viết trên những tờ báo và tạp chí địa phương về nền âm nhạc đang thay đổi ở Việt Nam. Quyền Văn Minh đã trở thành một tên tuổi biểu tượng đại diện cho sự tồn tại của jazz ở Việt Nam, và nhạc jazz Việt như một thớ nhỏ song không thể thiếu trong khung cảnh thanh âm Việt Nam. (tr.296+297)
- Tôi tên là Văn Minh, trong “nền văn minh”, và họ tôi là Quyền, trong “quyền lợi”. Cho nên tôi nghĩ rằng tôi “có quyền sống một cuộc sống văn minh”. Tôi có quyền sống một cuộc sống phẩm giá và văn minh bất chấp những gian khó và thách thức trong hành trình chơi jazz của mình… [T]ôi có một giấc mơ, một giấc mơ chơi jazz ở Việt Nam. Vì jazz, tôi đã gặp nhiều gian khó. Vì jazz, tôi đã nhận nhiều hạnh phúc và vui thú. Giờ tôi đã nghỉ hưu ở nhạc viện. Đó là công việc của tôi với đất nước. Nhưng công việc của tôi với cây saxophone thì không bao giờ ngừng lại.
CÂU QUOTE HAY
- Khi tôi dạy những người không chuyên hay người mới bắt đầu, đôi khi họ chỉ muốn học một hai bài trên kèn saxophone thôi. Họ tìm thấy niềm vui trong việc ấy, cho nên tôi dạy họ. Đây là một kiểu hạnh phúc rất mực giản đơn và thuần thực. (tr. 48)
- Nếu như tôi có thể mang lại điều gì đó tốt đẹp cho xã hội với âm nhạc của mình, tôi sẽ làm như thế. Tôi tin rằng âm nhạc của tôi cũng sẽ luôn trả lại tôi điều gì đó tốt đẹp. (tr.49)
- Dù sinh ra ở Việt Nam, một đất nước cơ bản chẳng biết jazz là gì, tôi đã yêu nhạc jazz từ khi tôi nghe được nó trên radio vào năm 1968. Tôi đã chơi nhạc trong hơn 50 năm kể từ năm 1967, và tôi đã mở quán jazz club hơn 20 năm trước, vào năm 1997. Cái sự thật rằng tôi có đủ niềm tin vào bản thân để chơi jazz, tôi nghĩ, tự thân đã là một thành tựu! Trong những điều kiện hạn chế mà tôi học chơi jazz, tôi đã trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp, và rồi trở thành một giáo viên saxophone và nhạc jazz. (tr.49)
- Tôi đã lựa chọn tập trung vào sứ mệnh phát triển jazz ở Việt Nam. (tr.70)
- Khi mẹ đặt cây clarinet vào tay tôi, bà bảo: “Mẹ chỉ muốn con chơi thật tốt. Ngay cả khi con chỉ kiếm được một đồng từ việc chơi clarinet, điều đó vẫn đáng giá với mẹ hơn một tỉ đồng từ người khác”. Thời ấy, khi anh bắt đầu thực thụ học chơi một nhạc cụ, điều đó có nghĩa là anh đã chọn một nghề kiếm sống. (tr.102)
- Nhưng đó cũng là thời điểm mà danh tiếng chủ yếu được thiết lập thông qua truyền miệng. Nếu người ta đã nghe anh chơi nhạc, nghe anh chơi nhạc hay, và biết được từ những người khác đã nghe anh chơi, thế thì họ sẵn sàng trả tiền cho anh chơi nhạc. Và họ cũng sẵn lòng trả hậu hĩnh. Và nếu anh chơi hay, anh phải có được sự tự tin để hỏi xin trả giá tốt hơn! (107)
- Nhờ vận may, tôi tìm được một kênh chơi “thứ” nhạc ấy. Tôi lúc đó còn không biết nó được gọi là “jazz”. Tôi run rẩy khi nghe thứ nhạc ấy. Tôi thầm nghĩ, nếu tôi có thể chơi như vậy thì tôi sẽ chẳng còn phải lo lắng gì nữa! (tr.110)
- Bản thân tôi, tôi say sưa trong âm nhạc. Tôi cứ tập luyện âm nhạc của mình. Nhưng khi tập thật chăm chỉ như vậy, anh sẽ trình diện thứ âm nhạc của mình ở đâu? Và tôi thực sự muốn chơi jazz. (tr.158)
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Stan BH Tan-Tangbau
Tiến sĩ chuyên nghiên cứu về các câu chuyện văn hóa cũng như sự thay đổi chính trị-xã hội ở Việt Nam và khu vực miền núi khắp Đông Nam Á. Nhiều bài viết của ông được đăng trên các tạp chí như Jazz Perspectives, Collaborative Anthropologies, Journal of Narrative Politics và Journal of Vietnam Studies.
Ông từng giảng dạy tại Đại học Ritsumeikan ở Kyoto và Đại học Quốc gia Singapore.
Quyền Văn Minh
(sinh năm 1954)
Cơ bản mà nói thì nếu không cẩn thận mọi thứ đều có thể gây ra hạnh phúc !
Tui hiểu mấy người nói xấu gì tui nhưng tui không quan tâm !
Phụ nữ là số 1 !
Lê Bích - Nhân vật ảo với chiếc bụng phệ, rốn lồi, khuôn mặt luôn tỏ vẻ tư lự, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, tam giáo, cửu lưu, tứ thư, ngũ kinh, tinh thần yêu nước trung trinh, đạo đức lung linh, phong tục, luật lệ, bản quyền, Horoscope, vật lý lượng tử... cái gì Lê Bích cũng tưởng là chàng biết.
Năm 2015, Lê Bích xuất hiện và nhanh chóng thu hút được các bạn trẻ nhờ những phát ngôn “chuẩn không cần chỉnh” do chính nhóm bạn nghĩ ra, bên cạnh đó cũng có một số status dịch từ nước ngoài, một số khác mượn ý của một vài ngàn người bạn.
Đời Về Cơ Bản Là Buồn Cười là một tập hợp những phát ngôn ấy của Lê Bích, dĩ nhiên là chưa từng xuất hiện trên fanpage, bên cạnh những câu nói quen thuộc làm nên tên tuổi của Lê Bích.
Nổi loạn hay Bản lĩnh? Chấp nhận sống đời tù túng rồi tự diệt vong, hay dũng cảm đối mặt với thách thức để tìm ra chân trời mới? Đó là những câu hỏi luôn thôi thúc trong lòng khiến chú ốc sên nhỏ "lạc loài" quyết tâm từ biệt gia trang ô rô để dấn thân vào cuộc hành trình dài đầy thử thách. Và cuối cùng, người anh hùng của đồng cỏ đã hiểu ra vì sao giống loài của mình lại chậm chạp đến vậy.
Trong thế giới thiên nhiên tươi sáng, sống động đang diễn ra ngay trước mắt bạn đọc, ngòi bút tài tình của Luis Sepulveda dường như biến mỗi người chúng ta thành một chú ốc sên nhỏ, hồn nhiên và nhiệt thành, sống hết mình trên hành trình khôn lớn mỗi ngày.
Một dòng họ Do Thái (dịch từ nguyên tác: Thésée, sa vie nouvelle, Éditions Verdier, 2020) là tác phẩm của nhà văn Camille de Toledo; đủ sức làm nên một hiện tượng mới trong đời sống văn học đương đại Pháp. Đây là tác phẩm được lọt vào chung khảo của giải thưởng Goncourt 2020. Với lối kể phi tuyến tính, tác phẩm tái tạo sự phức tạp và yếu ớt, sự mất mát, đau buồn và chấn thương thế hệ của một gia đình gốc Do Thái.
Sau hàng loạt biến cố khi anh trai tự sát, mẹ và cha đều qua đời, Theseus đi về phía đông hướng đến Berlin để kiếm tìm một đời sống mới. Cả ba cái chết đều gây cho Theseus những nỗi ám ảnh không dứt về bi kịch của gia đình. Mang theo ba cái thùng đựng những tập tài liệu ngổn ngang, Theseus cùng các con của mình chạy trốn khỏi những ký ức u ám, những vết thương gia đình mãi không lành.
Tự xem bản thân sẽ như một người hiện đại, chỉ sống hướng đến tương lai, Theseus xem quá khứ là những mũi kim mà anh cố hết sức để tránh bị đâm vào, là một chiếc hộp đen của thời gian mà anh nhất quyết không khơi lại. Cứ nghĩ cuộc hành trình này sẽ đưa anh về phía ánh sáng, hướng đến sự khởi đầu mới cho cuộc đời, nhưng rồi quá khứ đã nhanh chóng bắt kịp lấy anh, can dự vào thực tại tinh thần và đời sống của anh khi anh lần dở lại bộ hồ sơ bốn thế hệ của gia đình, đó là một bài thơ đầy ảm đạm, như một cái án di truyền bi thảm...
Với sự kết hợp tuyệt vời của thơ ca và văn xuôi, Camille de Toledo đã mang đến những trường đoạn rất đẹp về nỗi khốn khổ trong cuộc đời của một con người, chọn lựa đối diện với sự trỗi dậy chiếm lĩnh của lịch sử, ký ức đã qua.
Một dòng họ Do Thái thực sự là một cuốn tự truyện nên thơ và hấp dẫn về hành trình đi tìm ý nghĩa thực sự trong nỗi bi kịch của gia đình và ý thức về bản thân khi trải qua những mất mát, khổ đau của cuộc đời.
--------------------------
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Camille de Toledo (sinh năm 1975) là nhà văn, tiến sĩ văn học so sánh và chuyên gia trong cộng đồng người châu Âu gốc Do Thái. Ông dạy viết sáng tạo ở Brussels, Bỉ và ở Aix-Marseille, Pháp. Chủ đề ưa thích của ông là ký ức, sự chuyển giao và trạng thái mất cân bằng.
Từng lọt vào chung khảo giải Prix Goncourt (2020), nhận giải thưởng Franz Hessel danh giá và là người giành chiến thắng Liên hoan phim Villa Medicis.
Năm 2008, ông thành lập Hiệp hội Tác giả châu Âu để thúc đẩy “dịch thuật như một ngôn ngữ”. Năm 2012, ông chuyển đến Berlin sau khi cha mẹ và anh trai qua đời.
Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục thứ tiếng.
Các tác phẩm tiêu biểu:
- L’Inversion de Hieronymus Bosch (Verticales, 2005)
- Le hêtre et le bouleau: Essai sur la tristesse européenne (Éditions du Seuil, 2009)
- Vies pøtentielles (Éditions du Seuil, 2011)
- L’Inquiétude d’être au monde (Verdier, 2012)
- Oublier, trahir, puis disparaître (Éditions du Seuil, 2014)
“THI ĐỖ, RỒI ĐI LÀM CÔNG SỞ, đó là mục đích của cả một đời. Nhưng bây giờ Trường mới rõ cái nhỏ mọn của điều mong ước ấy. Sự sống đã cho chàng bao nhiêu bài học hay. Trường không băn khoăn vì cảnh nghèo của mình nữa. Chàng không ganh ghét với những người sang trọng, giàu có hơn chàng, - Trường nghĩ đến Quang, đến người bạn học cũ ở nhà quê, - và tự thấy mình giàu hơn họ nhiều, giàu hơn họ nhiều, giàu những tính tình tốt đẹp, những ý nghĩ đằm thắm mà những người chỉ biết đến mình không bao giờ có được.”
THẠCH LAM (1910-1942)
Khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi lại là Nguyễn Tường Lân, thuở nhỏ chủ yếu sống ở quê ngoại tại Cẩm Giàng, Hải Dương, nguyên quán ở làng Cẩm Phô, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Ông là nhà văn nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn và cũng là em ruột của hai nhà văn khác trong nhóm: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long).
MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA THẠCH LAM:
Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937)
Nắng trong vườn (tập truyện ngắn, 1938)
Ngày mới (truyện dài, 1939)
Sợi tóc (tập truyện ngắn, 1942)
Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, 1943)
Ngày 23 tháng Mười một năm 1992, lần đầu tiên tôi đặt chân đến Việt Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh, trước đây được biết đến với cái tên Sài Gòn. Tôi vừa mới nhận nuôi một đứa trẻ, tôi không biết gì về bé và hơn hết tôi không biết rằng tôi cũng sẽ được “nhận nuôi” ngay tại đất nước này...
Kể từ đó, tôi đã trở lại nơi đây thường xuyên, lúc thì một mình hoặc với con trai tôi, lúc thì với các nhóm hoặc bạn bè. Tôi đã ngừng đểm từ chuyến đi thứ ba mươi. Tôi nghỉ hưu từ năm 2013 và hiện có thể ở Việt Nam lâu hơn, đôi khi hai lần mỗi năm. Tôi sống trong một gia đình người Việt Nam và cũng sống cùng những đứa trẻ trong cô nhi viện, nơi con trai tôi đã ở vào thời điểm con được nhận làm con nuôi.
Tôi mong muốn và có nhu cầu chia sẻ những kỷ niệm, những cuộc gặp gỡ và kinh nghiệm sống của mình với trẻ em khuyết tật, với nhân viên trại trẻ mồ côi, cũng như với gia đình này, nơi mà tất cả các thành viên giờ đây chào đón tôi như người thân của họ. Tôi hy vọng, theo cách riêng của họ cùng với sự hào phóng và giản dị, bây giờ đến lượt tôi, tôi mời các bạn bước vào Việt Nam của tôi.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi