1. Trang Chủ
  2. ///

Nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM

Tổng hợp sách của nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM
bộ lược khảo văn học ii - ngôn ngữ văn chương và kịch

Trong những năm 1963-1968, NXB Nam Sơn ở Sài Gòn đã ấn hành bộ sách Lược khảo văn học của Nguyễn Văn Trung, gồm ba tập: Những vấn đề tổng quát, Ngôn ngữ văn chương và kịch, Nghiên cứu và phê bình văn học. Là tài liệu tham khảo của sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm, bộ sách này sớm được Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Giáo dục tái bản ngay sau khi ra đời.

Là Giáo sư Triết học, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và vận dụng thành tựu của những trào lưu mỹ học đương thời: phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận. Bộ sách giúp độc giả làm quen với tên tuổi và quan niệm của những học giả nổi tiếng ở phương Tây: F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, J.P. Sartre. Có thể nói, cho đến thời điểm ấy ở nước ta, đây là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống nhất.

Trong ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Văn Trung đã liên hệ lý thuyết với thực tiễn văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê bình.

câu chuyện văn hóa

Đây là tuyển tập những bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí từ những năm 1980 đến nay về những câu chuyện liên quan đến văn hóa, đặc biệt là các vấn đề có lúc trở thành thời sự. Do vậy, việc tuyển chọn, ưu tiên trước hết là các bài viết đến nay vẫn còn ý nghĩa và kế đó là những bài viết có nội dung còn coi được - theo đánh giá chủ quan của mình.

Tập sách này ra đời từ nhu cầu sưu tập của một số bạn bè thân thích và kế đó, là "nhu cầu có để đọc" của các bạn trẻ hiếu học và hay quan tâm đến các vấn đề lịch sử - văn hóa. Một mặt, do những lời yêu cầu trên và mặt khác, chính nhờ những đóng góp của các thân hữu một số bài viết tác giả không còn giữ được mà tập sách "Câu chuyện văn hóa này", cũng như các tập sách "Đọc lại cổ tích" và "Gia Định - Sài Gòn - Ký ức lịch sử - văn hóa", có được nội dung dày dặn.

cuộc phiêu lưu của marie đệ nhất - quốc vương xứ sedang

Câu chuyện "một người Pháp làm vua ở Tây Nguyên" từng được một vài sách báo nhắc đến, song hầu như chưa có ai miêu tả một cách đầy đủ về cuộc đời của một nhân vật đã từng khuấy động xã hội Việt Nam và xã hội châu Âu vào những năm cuối cùng của thập niên 1880. Quyển sách mà các bạn đang có trong tay là sự thể hiện lòng mong mỏi vẽ lại một cách tương đối rõ nét hình ảnh một kẻ sống đời lang bạt, thỏa chí phiêu lưu và từng làm cho chính quyền thực dân Pháp phải nhiều phen điên đảo.

Nhân vật chính trong câu chuyện có tên đầy đủ là Auguste Jean-Baptiste Marie Charles David, về sau các sách báo thường viết với cái tên Marie-David de Mayréna, sinh ngày 31-1-1842 tại Toulon, Pháp, con trai của một sĩ quan thủy quân lục chiến. Y sung vào quân ngũ rất sớm và vào năm 20 tuổi (1862) đã có mặt trong đạo quân viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ.  Giải ngũ năm 1868, trở về Pháp, lập gia đình và tái ngũ trong trận chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870, rồi lại giải ngũ sau khi chiến tranh kết thúc, Mayréna chọn cuộc sống lang bạt rày đây mai đó và cuối cùng quay trở lại Việt Nam năm 1885. Cuộc gặp giữa y và Toàn quyền Đông Dương đầu tiên Constans làm thay đổi hẳn cuộc sống của y. Y nhận lãnh một sứ mạng vô cùng nặng nề, song với bản chất hiếu động, thông minh, hoạt bát, kèm theo ít nhiều giảo hoạt, y đã thành công trong việc tập hợp các sắc tộc trên cao nguyên miền Trung dưới ngọn cờ của Pháp. Song cuộc sống có những bất ngờ không ai lường trước được. Sự thay thế nhân sự trong chức vụ Toàn quyền Đông Dương kéo theo sự thay đổi chính sách của thực dân Pháp, biến Mayréna từ một kẻ có công trở thành kẻ tội đồ. Sau một chuyến công du Lào và Thái Lan không thành công, y trở về "vương quốc" nhìn thấy sự đổ vỡ được báo trước, người vợ đầu ấp tay gối qua đời, các giáo sĩ quay lưng vì sợ đụng chạm với bộ máy cầm quyền. Để vượt qua khó khăn và kiếm sống, Mayréna phải rời bỏ "vương quốc" của mình, phiêu dạt ở Hải Phòng, Hà Nội, Hong Kong, rồi Paris (Pháp), Bruxelles (Bỉ), lợi dụng sự ngây thơ và tính hám danh hám lợi của xã hội trưởng giả để sống qua ngày.

Nội dung tập sách này dựa chủ yếu vào tác phẩm của Soulié và Tập san BAVH, đồng thời có sự tham khảo, chắt lọc từ nhiều nguồn tư liệu khác ở các sách báo phát hành sau thập niên 1920. Bên cạnh đó, tác giả cũng lồng vào thời điểm xảy ra câu chuyện những sự kiện lịch sử được ghi chép từ chính sử Việt Nam, từ các văn kiện chính thức của chính quyền thực dân Pháp, cùng các tư liệu bán chính thức hay phi chính thức của các cây bút nước ngoài, để bạn đọc có một cái nhìn rộng hơn về các sự kiện và nhân vật lịch sử sống tại Việt Nam vào các thập niên 1860 -1870-1880, có liên quan ít nhiều đến câu chuyện. Một số văn kiện gồm công văn, thư tín, bài báo có giá trị về mặt tư liệu và lịch sử được viết tỉ mỉ, không tiện lồng vào câu chuyện chính, chúng tôi dịch trọn và xếp trong phần phụ lục để độc giả có thêm tư liệu hầu bổ sung và đối chiếu với phần chính.

phong cách quản trị park hang seo - bí quyết thành công của doanh nghiệp hàn quốc (tái bản 2019)

Phong Cách Quản Trị Park Hang Seo - Bí Quyết Thành Công Của Doanh Nghiệp Hàn Quốc (Tái Bản 2019)

Bóng đá, thực ra không khác kinh doanh hay vận hành một tổ chức thông thường là mấy.

Bóng đá cần có cầu thủ như doanh nghiệp có những nguồn nhân lực; bóng đá cần có sự lựa chọn phương hướng và đường lối chơi bóng, có cách tiếp cận như trong kinh doanh; bóng đá không thể thoát khỏi phạm vi qui định của cuộc chơi cũng không khác gì những qui định pháp luật đặt ra cho kinh doanh; bóng đá không thể sống nếu thiếu người hâm mộ cũng như người tiêu dùng không thể thiếu với doanh nghiệp và... hàng trăm điều nữa. Nhưng tựu trung lại, điều quan trọng nhất vẫn là ban huấn luyện và huấn luyện viên (HLV) trưởng, đó chính là người lãnh đạo doanh nghiệp.

Những chủ tịch tập đoàn hàng đầu trên thế giới đều nhận định thế kỷ 21 chính là thời đại mà vai trò của cá nhân, ban lãnh đạo có thể được đề cao hơn bao giờ hết, một người có thể nuôi sống vạn người, một cá nhân có thể thay đổi một cục diện và mang vinh quang về cho cả một tập thể. Chưa bao giờ mà vai trò của người lãnh đạo được đề cao như thời đại ngày nay.

Rất nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc rầm rộ đầu tư và làm ăn thành công tại Việt Nam, tôi cũng rất tò mò xem họ đang làm cách nào mà những con người Việt Nam dưới bàn tay quản lý của họ đều làm việc hiệu quả. Trong thể thao, thành công của vận động viên bắn súng Hoàng Xuân Vinh có sự giúp sức rất lớn của huấn luyện viên người Hàn Quốc đã thôi thúc tôi tìm hiểu nhiều hơn. Nhân dịp U23 tạo ra kỳ kích bởi một người Hàn Quốc khác, xin chia sẻ những triết lý, bí quyết của ban huấn luyện và của HLV trưởng Park Hang Seo để giúp doanh nghiệp, tổ chức mà người Việt đang vận hành tạo ra được những điều kỳ tích như U23 Việt Nam đã làm dưới bầu trời Trung Quốc.

Dù thế, viết sách này, tôi không có ý tôn sùng cá nhân HLV Park Hang Seo hay bất cứ ai, ông ấy cũng là một con người và có nhiều nhược điểm. Hãy hiểu, quyết định của HLV Park Hang Seo cũng là quyết định của cả ban huấn luyện U23 và sự đồng lòng của một tập thể. Tôi chỉ muốn nói rằng HLV Park Hang Seo và ban huấn luyện đã làm thế và đã có những kết quả, và hy vọng những điều họ đã ứng dụng trong bóng đá, dù mới hay cũ, đều có thể là một cảm hứng cho chúng ta trong công việc kinh doanh. Tôi cũng viết những điều này với mong muốn sẽ tổng kết để chúng ta cùng học hỏi, vì chắc chắn ngày nào đó, ông cũng sẽ phải rời xa bóng đá Việt Nam vì một vài lý do nào đó. Và nếu coi ông là một người đáng học hỏi mà chúng ta không học thì chúng ta lại cứ phải thuê hết người nước ngoài này đến người nước ngoài khác về làm HLV mà không có sự tiến bộ nào.

Và tôi xin nhắc lại, chiến thắng này là của một tập thể. Những nhân vật được nhắc trong quyển sách này, đơn giản chỉ là vì tác giả biết ở mức độ hạn hẹp, còn về mặt cá nhân, dù tất cả mọi con người trong ban huấn luyện, thành viên đoàn, cầu thủ U23 đều là những người tôi rất ngưỡng mộ về tài năng và tinh thần của họ.

Về hình ảnh, tôi xin chân thành cảm ơn phóng viên Nguyên Khôi báo Tuổi trẻ đã đồng ý để tôi sử dụng một số hình ảnh của đội U23 Việt Nam trong sách này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các tác giả của những tư liệu và hình ảnh khác được sử dụng, vì lý do chưa tìm được nguồn gốc của những tư liệu, hình ảnh này nên tôi chưa có cơ hội để liên hệ xin phép. Mong được thể lượng bỏ qua sai sót này.

Trân trọng cảm ơn anh Lê Viết Hải, Chủ tịch tập đoàn Hòa Bình đã tài trợ để quyển sách này ra đời.

Tôi lại không phải là chuyên gia về bóng đá, cũng không phải là người có kinh nghiệm viết sách, kiến thức hạn hẹp, rất mong độc giả góp ý và bổ sung.

TP. HCM, tháng 3 năm 2018

Lê Huy Khoa - Kanata

thi pháp học

Thi pháp học là bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu hình thức nghệ thuật tác phẩm văn chương. Bộ môn này xuất hiện từ thời cổ đại với mục đích dạy phép tắc sáng tác nghệ thuật. Đầu thế kỷ XX, Thi pháp học hiện đại hình thành và chia làm nhiều khuynh hướng: Thi pháp học thể loại, Ngôn ngữ - Hình thức, Cấu trúc – Ký hiệu mới, Phê bình Mới, Thi pháp học Văn hóa – Lịch sử. Thi pháp học ở Việt Nam cũng có đầy đủ các khuynh hướng trên nhưng bước đường phổ biến khá gập ghềnh. Mãi đến cuối thế kỷ XX, nó mới trở thành một phong trào nghiên cứu sâu rộng.

Con đường đi của Thi pháp học ở Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm. Trên mỗi chặng đường phát triển, nó dung nạp thêm nhiều sắc màu Thi pháp học thế giới để làm giàu cho mình. Sau thời kỳ rụt rè, dò dẫm, sau những năm tháng tranh cãi ồn ào, cuối cùng Thi pháp học đã tìm được chỗ đứng vững chãi của mình. Đôi khi nó thiên biến vạn hóa, khoác nhiều bộ cánh khác nhau của Ký hiệu học, Phong cách học, Hình thức luận, Cấu trúc luận, Tự sự học… Nó dung nạp nhiều ngành khoa học và cũng tập hợp nhiều nhà khoa học đến từ nhiều trường phái khác nhau. Với một đội ngũ Thi pháp học đông đảo và ham mở lòng chào đón những luồng gió mới, chúng ta hi vọng sẽ có những mùa bội thu trên địa hạt Thi pháp học Việt Nam.

oán thù trớ trêu

Từ nhỏ tôi đã rất mê truyện trinh thám, phiêu lưu mạo hiểm và thường ước mơ về những nhân vật tài giỏi, thánh thiện trong đó. Càng lớn lên, tôi càng hiểu ước mơ của mình là phù phiếm trước áp lực học tập, làm việc kiếm tiền nuôi thân, giúp gia đình. Thế nhưng bản tính thích mơ mộng cứ đeo đẳng, thúc giục nên tôi không ngừng suy nghĩ, ấp ủ đề tài này.

Thế rồi đúng 30 năm sau ngày tốt nghiệp đại học (1988 - 2018), tôi mới in được cuốn tiểu thuyết hình sự đầu tay Mật danh Đ9. Đây là tác phẩm văn học được chuyển thể “ngược” từ bộ phim 38 tập, công chiếu trên nhiều kênh truyền hình và đã vinh dự nhận giải phim truyền hình được yêu thích nhất - (Giải Ngôi sao xanh 2017). Mật danh Đ9 là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ tiểu thuyết hình sự Hồ sơ lửa gồm nhiều phần với tổng số khoảng 2500 - 3000 trang sách in mà tôi tin rằng khi được xuất bản hết, sẽ là bộ tiểu thuyết hình sự đạt kỷ lục dày nhất Việt Nam. Tôi đã viết xong bộ tiểu thuyết này, hiện đang tìm đối tác để lần lượt xuất bản, giới thiệu sách đến bạn đọc. Tiểu thuyết Oán thù trớ trêu được hoàn thành sau cùng so với các phần trước của Hồ sơ lửa như: Gia tộc tướng cướp, Lật án tử hình, Vỏ bọc thần thánh, Làm đĩ triệu đô, v.v… nhưng không hiểu sao tôi vẫn mong ước nó được ra mắt bạn đọc trước các “anh, chị” của nó. Tôi tin mỗi tác phẩm văn học cũng có số phận như con người, ra đời sớm hay muộn, được đón nhận thế nào, “thọ” được bao lâu trong lòng độc giả là bởi “cái duyên, cái quả” tạo hóa ban cho nó. Tác giả có quyền mơ ước, nhưng không thể đơn phương quyết định “ngày sinh, tháng đẻ” cho các “con” của mình. Bản thân tôi cũng chưa bao giờ dám nghĩ chỉ trong hai năm (2016 - 2017) vừa làm báo, vừa tham gia dự án phim truyền hình Hồ sơ lửa lại có thể viết xong 6 cuốn tiểu thuyết với khoảng trên dưới 3000 trang sách in như vậy. Ngoài quá trình lao động miệt mài, tôi luôn tin mình đã may mắn gặp nhiều “cơ duyên” nên mới có được “món quà trời cho” này.

Tiểu thuyết Oán thù trớ trêu bắt đầu từ những vụ án mạng liên quan đến Lý Nương - một phụ nữ xinh đẹp, đảm đang nhưng bất hạnh. Số phận đã đưa đẩy Nương trôi dạt từ Bắc vào Nam, từ người vợ chung thủy thành kẻ ngoại tình; từ người Kinh thành người Chăm, từ người sống thành kẻ chết được lập mộ bia và từ oán thù chồng chất thành vị tha, độ lượng… Đội đặc nhiệm trong quá trình điều tra hàng loạt vụ giết người bí ẩn với hàng loạt nghi can đã dần tìm đến Nương và phát hiện ra vô số những điều kỳ lạ quanh nhân vật hư hư, thực thực, nửa người nửa ma này. Những cán bộ chỉ huy tài ba, những nam nữ trinh sát thông minh, quả cảm của đội đặc nhiệm dày thành tích phá án sẽ làm gì với Lý Nương thoắt ẩn, thoắt hiện trong hồ sơ các vụ án mạng? Nếu bạn đọc hết cuốn sách này sẽ có câu trả lời rất bất ngờ, thú vị… Xin cảm ơn bạn đọc đã quan tâm đến câu chuyện về Lý Nương - người phụ nữ tuổi Nhâm Dần (1962) được người Kinh và đồng bào Chăm cùng gọi là “Bà Cọp” hay “Muk Rimaong” này.

01.02.2018

LẠI VĂN LONG

con người trong vòng vây (tái bản 2019)

“Loài người tạo vòng vây của chính mình. Loài người đang cố sức thoát khỏi vòng vây… Trời cho ta thuốc quý giúp mỗi người thoát khỏi vòng vây quanh mình. Ăn lành – ngủ đủ – tập đều – sống vui. Đây là thuốc từ cơ thể, không mất tiền mua nhưng phải biết cách dùng”… Gần 300 trang sách trong tác phẩm mới nhất của GS.BS Nguyễn Chấn Hùng – cây bút quen thuộc với độc giả báo Sài Gòn Tiếp Thị – là những tâm tình ân cần, gần gũi như thế, giúp mỗi chúng ta biết cách để có thể là “bác sĩ cho chính mình”.

Thuốc quý đâu xa

Buổi giao lưu chủ đề “Những bài thuốc quý” của hai bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Đỗ Hồng Ngọc nhân dịp ra mắt tác phẩmCon người trong vòng vây của GS.BS Nguyễn Chấn Hùng sáng 24.3 tại Hội sách TP.HCM đầy kín khán giả, từ những cụ già râu tóc bạc phơ đến các sinh viên trẻ, những người từng được bác sĩ cứu sống, bạn đọc quen thuộc của tác giả qua mục Bác sĩ trò chuyện báo Sài Gòn Tiếp Thị, và rất đông thân hữu trong giới trí thức, doanh nhân, nhà báo…

GS.BS. Nguyễn Chấn Hùng mở lời về những suy nghĩ phảng phất trong ông khi viết Con người trong vòng vây: “Từ xưa tới giờ, chúng ta thường tỏ ra bất lực khi đối diện với căn bệnh hiểm nghèo: “Trời kêu ai nấy dạ”, nhưng tôi muốn đưa ra một thông điệp mới: “Trời kêu không dạ”, vì bệnh ấy là tại mình, không phải tại trời! Vòng vây đó không phải của trời, mà của chính con người tạo ra, từ ăn uống, 40% bệnh có thể ngừa được. Vậy làm sao cho nhẹ gánh? Ăn lành – ngủ đủ – tập đều – sống vui là bài thuốc quý trời cho. Không mất tiền mua mà phải biết dùng. Từ ngàn xưa, con người đã biết hoà hợp với trời đất. Hoàng đế nội kinh bàn về dưỡng sinh, nuôi dưỡng cái sống, chú trọng dinh dưỡng tinh thần, ăn uống điều độ, rèn luyện thân thể và ứng hợp môi trường. Trang tử Nam hoa kinh đã thắm đượm cách nuôi sự sống cho mỗi người: “Ngủ không mộng mị, thức chẳng âu lo, ăn không cầu kỳ, hít thở thâm sâu”… lý lớn vô cùng. Một vị thiền sư thời nay có bài thơ thiền thật dễ hiểu: “Hít vào tâm tĩnh lặng/ Thở ra miệng mỉm cười/ An trú trong hiện tại/ Giây phút thật tuyệt vời”. Nếu mỗi ngày bạn không ngủ đủ từ bảy đến tám tiếng đồng hồ, đời sống sẽ bị thun lại, óc không nở ra được. Ngủ đủ giúp cho bộ não sắp xếp lại, mềm dẻo hơn, giúp yếu tố tăng trưởng cao. Sống vui giúp bộ não làm việc tích cực, nhạy bén, không sinh ra độc tố. Cười che chở con tim, chống được bao bệnh, mình khoẻ ru thôi…”

 

BS. Đỗ Hồng Ngọc bày tỏ sự ngạc nhiên trước tác phẩm mới của GS.BS Nguyễn Chấn Hùng: “Một vị bác sĩ say mê mổ xẻ, say mê khoa học đến giờ lại ngộ ra rằng người bác sĩ tốt nhất là chính mình. Người ta có thể nhịn ăn mười ngày vẫn sống được, nhưng nhịn thở 15 phút là có thể chết. Mà thở thì không ai thay mình cả. Không phải vô cớ mà ông Phật nói: “Hãy quay về nương tựa chính mình”. Đưa hơi xuống huyệt đan điền thực ra là phương pháp thở bụng chứ có gì đâu. Nó giúp mình thảnh thơi đầu óc, không vướng bận. Ngủ cũng là cả một nghệ thuật, phải biết cách ngủ mới thành công. Mình là bác sĩ tốt nhất để thay đổi lối sống. Mỗi bài thuốc quý không ở bác sĩ, mà ở mỗi chúng ta”.

Lá cải... bẹ xanh

GS.TS Vũ Đình Huy bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình: “Niềm lạc quan của bác sĩ đã truyền đến người đọc, bệnh nhân”. Còn đạo diễn Việt Linh thổ lộ: “Sau tai biến mạch máu não, nhiều bạn bè tưởng tôi không qua khỏi. Tôi thực hiện một cách xuất sắc những lời dạy của hai vị bác sĩ, biết buông bỏ những gì làm mình buồn, bắt đầu làm quen với những di chứng của bệnh, và tự tìm ra giải pháp cho mình. Lỗi là do mình đã đối xử quá tệ với bản thân. Xin lỗi bản thân, xin lỗi cơ thể cũng là cách để tôi biết sống có ích, cống hiến cho mọi người nhiều hơn…”

Sự tung hứng dí dỏm, sâu sắc của hai vị bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng và Đỗ Hồng Ngọc làm không khí oi bức tại hội sách như dịu hẳn. Đã quá trưa, nhưng nhiều người còn vây quanh GS.BS Nguyễn Chấn Hùng với những câu hỏi bất tận. Kết thúc buổi giao lưu, ông thổ lộ: “Chúng ta đều trong vòng trời đất, kính ngưỡng trời đất, nhưng chúng ta cũng phải biết 85% các loại bệnh không phải tại trời, mà do con người. Loại được những nguyên nhân đó để bệnh không nhập vô mình, thay đổi cách nhìn cũ là điều mà tôi suy nghĩ, để viết Con người trong vòng vây, truyền đạt cho mọi người cùng biết. Viết cho mọi người, văn phong phải giản dị, dễ hiểu, điều này tôi học được từ những người thầy như nhà văn Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Sơn Nam, và học được từ bạn tôi, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Chúng tôi thường đùa tụi mình giống nhau, viết “lá cải”, nhưng không phải lá cải đâu, là cải bẹ xanh đó, mát và lành lắm, thiếu là không được”!

thủ tướng phan văn khải - nhà lãnh đạo xuất sắc của đảng, nhà nước và nhân dân

Trong các hoạt động của Thành phố Hồ Chí Minh kỷ niệm ngày giỗ đầu của Thủ tướng Phan Văn Khải (17-3-2018 – 17-3-2019), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh được giao nhiệm vụ thực hiện một ấn phẩm về  đồng chí Phan Văn Khải nhằm khắc họa chân dung người học trò ưu tú của Bác Hồ, một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cuốn sách THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI – NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN bố cục theo 4 phần: Những trước tác của Thủ tướng Phan Văn Khải; Thủ tướng Phan Văn Khải qua ký ức của  đồng  chí, người  thân,  bạn  bè; Dấu ấn của Thủ tướng Phan Văn Khải trên một số lĩnh vực; Đồng chí Phan Văn Khải trong 10 năm hoạt động cuối đời. Qua 74 bài viết của gần 60 tác giả từ Thủ đô Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh, từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, từ căn cứ địa Dương Minh Châu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chiến khu Bắc Tây Ninh trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phong cách vị thủ tướng của đổi mới, vị thủ tướng nghĩa tình, trọng dân, gần dân được phác họa rõ nét.

Giá trị tinh hoa về tư tưởng được thể hiện tập trung trong phần I với 5 bài hồi ký, tự thuật và 9 bài chuyên luận của đồng chí Phan Văn Khải viết về đề tài giáo dục truyền thống cách mạng, về hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Với lối viết chân thật, sinh động, mộc mạc và giàu biểu cảm, những bài hồi ký, tự thuật và chuyên luận của đồng chí Phan Văn Khải đã giúp thế hệ hôm nay và mai sau hiểu rõ hơn những biến thiên của xã hội, những thăng trầm của đất nước, những bước ngoặt của cách mạng và những giai đoạn đột phá của lịch sử đã diễn ra tại vùng đất Nam Bộ và trên đất nước ta trong 70 năm, từ thập niên thứ tư thế kỷ XX đến thập niên thứ hai thế kỷ XXI. Qua từng trang hồi ký, tự thuật, chẳng những bạn đọc hiểu rõ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của đồng chí Phan Văn Khải, mà còn tiếp thu được những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá đã được đồng chí nung nấu và tôi luyện thành công trong 85 năm đồng hành cùng lịch sử.

Phần II gồm 29 bài viết giàu cảm xúc, được thể hiện qua kỷ niệm và ký ức sâu đậm của đồng chí, người thân và bạn bè, hình ảnh Thủ tướng Phan Văn Khải có sức lan tỏa sâu rộng trong độc giả bằng cái chân, cái thiện và cái mỹ; bằng việc tiếp thu đạo lý: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; bằng sự quán triệt vận dụng tư tưởng, phong cách và nếp sống của người cán bộ Cụ Hồ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Trong phần III, 17 bài viết của 19 tác giả đã làm nổi bật dấu ấn năng động và sáng tạo của đồng chí Phan Văn Khải trên những chặng đường đột phá của lịch sử, từ việc tham gia “tháo gỡ” sự trói buộc của cơ chế quản lý nhằm làm “bung” năng lực sản xuất của Thành phố Hồ Chí Minh những năm trước Đổi mới và trong giai đoạn đầu tiến hành “cải cách”, “mở cửa”; hiện đại hóa hệ thống thể chế và văn bản pháp luật về kinh tế thị trường, tiếp tục xây dựng quan hệ đối ngoại đa phương, rộng mở trong hai nhiệm kỳ làm Thủ tướng, từ đó góp phần tạo ra những bứt phá ngoạn mục trong thời kỳ đất nước đổi mới, hội nhập và phát triển.

14 bài viết ở phần IV khắc đậm tấm lòng của đồng chí Phan Văn Khải trên lĩnh vực giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho nhân dân, cho thế hệ trẻ và cho đời sau trong khoảng 10 năm hoạt động cuối đời. Những bộ sách và những thước phim tài liệu về Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, đặc biệt là bộ sách Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam; Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được ra đời dưới sự cố vấn nội dung sâu sát, đầy tâm huyết của đồng chí Phan Văn Khải.

Để cuốn sách có thể ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản chân thành cảm ơn sự chỉ đạo, định hướng và góp ý của Ban Tuyên giáo Thành ủy từ ý tưởng ban đầu đến nội dung, hình thức bản thảo. Xin tri ân sự nhiệt tình và tâm huyết của các đồng chí, các tác giả đã góp phần quý báu vào việc tổ chức bản thảo cũng như đóng góp bài viết cho cuốn sách. Đặc biệt xin trân trọng cảm ơn đồng chí Trần Hữu Phước, nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Xây dựng khu di tích lịch sử cách mạng miền Nam, một người bạn tâm giao của Thủ tướng Phan Văn Khải, dù tuổi cao sức yếu, dù bộn bề công việc vẫn dành thời gian hỗ trợ Nhà xuất bản tổ chức bản thảo và chăm chút các bài viết. Qua đó cũng cho thấy những tình cảm hết sức đáng trân quý mà các tác giả đã dành cho vị Thủ tướng trọn một đời vì nước, vì dân.

Được xuất bản đúng một năm sau ngày mất của Thủ tướng Phan Văn Khải, cuốn sách như một nén tâm nhang bày tỏ sự thành kính tưởng nhớ và biết ơn những công lao, đóng góp to lớn của Thủ tướng Phan Văn Khải đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thủ tướng Phan Văn Khải đã đi xa, nhưng hình ảnh về một vị Thủ tướng bình dị, nghĩa tình, tài đức vẹn toàn, tận tâm cống hiến… sẽ mãi mãi được khắc ghi.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng tôi rất mong sẽ tiếp tục được các đồng chí góp ý chỉnh sửa, bổ sung tư liệu để khi có điều kiện tái bản, cuốn sách sẽ được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc !

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

làng quê buồn vui… thương nhớ…

Kỹ sư cao cấp phan Khánh vốn là một nhà khoa học thủy lợi yêu thích lịch sử, có nhiều duyên nợ với nghề văn. Dẫu không phải là nhà văn chuyên nghiệp, song ông có một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ với hơn hai mươi tác phẩm. Nhà văn ma Văn Kháng từng nhận xét trong Lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết Đỗ Thích kỳ án: “Sáng tác của cây bút phan Khánh có khuynh hướng chuyên sâu về lịch sử. Đặc điểm này phản ánh ưu thế trội trong học vấn, tài năng, tính cách của ông. Thông thạo lịch sử, giàu có về ngôn ngữ, minh triết về tư duy, ưa thích khám phá chiều sâu hiện thực và có một trí nhớ siêu thường đáng được gọi là cường ký”. Ở tuổi 85, ngòi bút của ông vẫn sắc sảo và giàu cảm xúc trong từng trang viết của tiểu thuyết Làng quê thương nhớ mà quí độc giả đang cầm trên tay.

Ra đi từ thời trai trẻ, ngược xuôi khắp nẻo đường nam bắc đông tây; lúc đối mặt với sự sống và cái chết trong gang tấc nơi chiến trường, khi miệt mài trong cuộc mưu sinh và bây giờ đã về hưu vui vầy bên con chá trong ông vẫn luôn đau đáu nỗi nhớ quê hương. cũng chính bởi trí nhớ “cường ký” nên ông không thể quên ký ức đầy ám ảnh về những ngày đói quay đói quắt năm Ất Dậu; về không khí hồ hởi đi hiến vàng mà vui như được cho vàng trong buổi đầu độc lập; về không khí khác thường ở làng quê trong những ngày cải cách ruộng đấ tất cả vẫn sống động, vẫn vẹn nguyên trong tâm trí, thôi thúc ông cầm bút ghi lại để con cháu đời sau hiểu được một thời đoạn sôi nổi, đầy biến động của lịch sử nước nhà.

Nhiều nhân vật, tình tiết trong Làng quê thương nhớ được xây dựng từ cái lõi người thật việc thật, từ những gì mà chính tác giả đã chứng kiến, đã trải qua, do đó tình tiết truyện vừa sống động, bất ngờ - bất ngờ như chính cuộc đời này - vừa gần gũi, chân thực. Đọc cuốn sách có cảm tưởng như đang xem một bộ phim dài tập, được trải qua nhiều cung bậc cảm xúc: uất nghẹn khi đọc những trang viết về nạn đói năm ất Dậu lúc bọn nhà giàu ghim hàng trăm tấn thóc, nhất quyết không bán ra, khiến 156 đồng bào làng bài chết đói; bàng hoàng, ngơ ngác khi người mẹ thấy con chạy tới xin ăn đã nuốt vội miếng bánh đang cầm trên tay, mặc cho ba đứa con gào khóc đến chết vì đói; xúc động khi những cán bộ làng bài đi họp đã giành ăn mo cau toàn khoai luộc của bà hà Duyên để chia sẻ với bà phần cơm của họ; và sẽ có không ít lần bật cười trước những câu chuyện hài hước, dí dỏm.

giọt mực của mưa huế

Giọt Mực Của Mưa Huế

theo dấu chân người tình

- "Đất nước Việt Nam hiền hòa với những phong cách thiên nhiên tươi đẹp trải dài từ Bắc tới Nam, với 54 dân tộc mang những nét văn hóa độc đáo của mỗi vùng miền sẽ là một điểm đến tuyệt vời cho những ai yêu thích du lịch, muốn khám phá những vùng đất mới, khám phá văn hóa bản địa.

-Với mong muốn mang đến cho người đọc những hiểu biết thú vị về thiên nhiên, văn hóa, con người trên mảnh đất hình chữ S này, nhà báo Đỗ Quang Tuấn Hoàng với lợi thế là một người đi nhiều, trải nghiệm nhiều, đã tập hợp những ghi chép trong mỗi hành trình đến các vùng miền trên cả nước trong "Theo dấu chân Người tình".Có những nơi bạn đã từng đến, nhưng dưới ngòi bút của tác giả, bạn sẽ thấy những điều mới mẻ, những điều mình chưa từng trải nghiệm".

căn phòng của jacob

Dù tác phẩm nói về một thanh niên người Anh tên là Jacob Flanders, con người và tính cách của anh rất mơ hồ, phụ thuộc vào cảm nhận của những người từng tiếp xúc với anh. Một điểm đáng lưu ý: tên của tác phẩm là “Căn phòng của Jacob” chứ không phải là “Jacob Flanders”. Căn phòng của anh, một biểu tượng cũng rất mơ hồ, được mô tả ba lần:

“Căn phòng của Jacob có một cái bàn tròn và hai cái ghế thấp… Không sinh khí, bầu không khí trong một căn phòng trống rỗng chỉ khiến những bức màn phồng lên; những đóa hoa trong lọ lay động. Một thớ sợi trong cái ghế bành đan bằng cành liễu gai kêu cọt kẹt, dù không có ai ngồi ở đó.” (Chương Ba)

“Con đường chạy qua bên dưới. Chắc chắn phòng ngủ nằm ở phía sau. Đồ nội thất – ba cái ghế đan bằng cành liễu gai và một cái bàn xếp – đến từ Cambridge. Những ngôi nhà này (con gái của bà Garfit, bà Whitehorn, là chủ của ngôi nhà này) được xây dựng khoảng một trăm năm mươi năm trước. Những căn phòng rộng rãi, những trần nhà cao; trên khung cửa gỗ có khắc hình một bông hồng hoặc đầu cừu đực. Thế kỷ mười tám có sự khác biệt của nó. Ngay cả những tấm ván cửa, sơn màu tím quả mâm xôi, cũng có sự khác biệt.” (Chương Năm)

“Thế kỷ mười tám có sự khác biệt của nó. Những ngôi nhà này đã được xây dựng cách đây chừng một trăm năm mươi năm. Căn phòng rộng rãi, trần nhà cao; trên khung cửa gỗ có chạm hình một bông hồng hoặc một cái đầu cừu. Ngay cả những tấm ván cửa, sơn màu tím quả mâm xôi, cũng có sự khác biệt của chúng... Không khí trong một căn phòng trống rỗng rất uể oải, chỉ làm tấm màn cửa phồng lên; những bông hoa trong lọ hơi lay động. Một thớ sợi trong chiếc ghế bành đan bằng cành liễu gai kêu cọt kẹt, dù không có ai ngồi ở đó.” (Chương Mười bốn)

Trong một đoạn nhật ký ngay sau ngày sinh nhật của mình, ngày Thứ hai, 26/1/1920, khi Virginia Woolf tròn 28 tuổi và bắt đầu khởi thảo Căn phòng của Jacob, bà viết: “Tôi… đã có một ý tưởng về một hình thức mới cho một cuốn tiểu thuyết mới. Tôi nhận ra rằng cách tiếp cận lần này sẽ hoàn toàn khác hẳn: không một sườn giàn giáo nào; hầu như không viên gạch nào ló dạng; tất cả đều mờ ảo mơ hồ, nhưng con tim, sự mê đắm, tâm trạng, mọi thứ đều sáng tỏ như ánh lửa giữa màn sương.”

(“I ... arrived at some idea of a new form for a new novel. I figure that the approach will be entirely different this time: no scaffolding; scarcely a brick to be seen; all crepuscular, but the heart, the passion, humour, everything as bright as fire in the mist.” – Writer’s Diary, biên tập Leonard Woolf, NXB Hogarth Press, 1953)

Không phải là tác phẩm hàng đầu của Virginia Woolf, nhưng với ý nghĩa và giá trị của nó, Căn phòng của Jacob là bước chuyển biến đột phá cực kỳ quan trọng để sau đó hình thành nên Bà Dalloway và Tới ngọn hải đăng. Nó cũng là đối tượng của hàng ngàn luận văn cao học và tiến sĩ, nhiều gấp bội so với hai tác phẩm nói sau.

Sài Gòn, 19/4/2018

Nguyễn Thành Nhân (Lời người dịch)

người chết thuê

Đọc Người chết thuê, ướm mình giữa từng câu chữ sấp ngửa, đan chéo của hôm qua và hôm nay, của bao mộng ước hôm sau nữa, dễ khiến người ta lởn vởn trôi trên những đụn mây thiên di, chỉ chờ đủ nhân duyên sẽ sà cơn mưa tưới mát ngay cho cuộc đời vốn dĩ không thể êm đềm.

Là một trong số ít cây bút trẻ có ý thức làm mới mình, chú trọng suy tư cả về ý tưởng lẫn phong cách, Thái Cường với lần trở lại này đã lột xác hẳn so với Những mảnh mắt nhìn và Gam lam không thực.

Chọn lối trần thuật song song điểm nhìn làm điểm tựa, Người chết thuê dung hòa giọng văn mạnh bạo trên nền phương ngữ đậm chất vùng miền, vẽ nên mùa hè đáng nhớ của nhóm bạn trẻ đương độ “bẻ gãy sừng trâu”. Những cô cậu mới lớn này cùng nhau rong ruổi, lăn lộn với đời, đánh nhau đôi ba lượt lại cặp vai bá cổ dìu nhau qua từng ghềnh thác dại khờ, cứ thế vươn mình như cành khô gai góc, tự học cách trưởng thành bởi bao lần hoang mang, đổ máu, cả ngây người khi cơ thể lên tiếng.

Chìm trong những quãng văn được Thái Cường tận dụng triệt để cách viết đặc tả trên chuỗi tình tiết lúc miên man, lúc bất cần, bất cứ ai cũng thoáng thấy đâu đó bóng dáng chính mình của một thời tập tành say trong khói thuốc, nốc rượu cho thân tàn bệt bã, rồi ngàn vạn câu hỏi nhưng chẳng lần nào có đáp án, rồi những nỗi niềm giấu đi cho tới ngày chịu hết nổi phải òa nhiệt.

Lim dim và sặc sụa, tuổi trẻ cứ làm vẻ sành điệu cho đời biết tên nhau, nhưng lại là cả một thiên đường ắp đầy những bóng vỡ mà sau này có dịp ngồi ru ca bềnh bồng thêm lần nữa, chắc gì tay chạm đã với tới khi bao hoa mộng sẽ mãi tan biến giữa bức tranh mưu sinh hiện thời.

Thanh xuân bay đi, sầu vương gửi lại, đám bạn năm xưa giờ đứa giàu có, đứa con cái, đứa đã chết, cái chết dài dằng dặc như chưa từng dứt, như những mảng vôi rồi cũng trát thành vách tường sáng loáng. Sau ba mươi, có nhớ, có mong, vẫn phải rã rời trên phận đời, để một lần nào đó dợm lòng ngẫm lại cõi nhân sinh, tự dưng dụi mắt ngó trời, chợt khóc ròng thương những năm mười bảy.

Trần Huy Minh Phương

(Nhà văn – Nhà thơ)

khúc hoan ca của văn chương

Khúc hoan ca của văn chương

bộ địa chí văn hóa thành phố hồ chí minh tập 1 - lịch sử

Có thể nói đây là bộ Địa chí Văn hóa đầu tiên trong lịch sử Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, được Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố chỉ đạo biên soạn một cách nghiêm túc, khái quát đầy đủ và có hệ thống diện mạo văn hóa của Thành phố qua ba thế kỷ hình thành và phát triển.

Sau khi ra đời, bộ sách được giới nghiên cứu khoa học và bạn đọc hoan nghênh, đánh giá cao và nhiệt tình đóng góp nhiều ý kiến và phát triển.

Để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, nhân kỷ niệm 320 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1698 - 2018), NXB Tổng hợp TPHCM tái bản trọn bộ "Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh".

bộ địa chí văn hóa thành phố hồ chí minh tập 3 - nghệ thuật

Có thể nói đây là bộ Địa chí Văn hóa đầu tiên trong lịch sử Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, được Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố chỉ đạo biên soạn một cách nghiêm túc, khái quát đầy đủ và có hệ thống diện mạo văn hóa của Thành phố qua ba thế kỷ hình thành và phát triển.

Sau khi ra đời, bộ sách được giới nghiên cứu khoa học và bạn đọc hoan nghênh, đánh giá cao và nhiệt tình đóng góp nhiều ý kiến và phát triển.

Để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, nhân kỷ niệm 320 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1698 - 2018), NXB Tổng hợp TPHCM tái bản trọn bộ "Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh".

ký hiệu và liên ký hiệu

Ký hiệu tồn tại như một sự tổng hòa các mối quan hệ văn hóa. Không thể có bất cứ một ký hiệu nào nằm ngoài văn hóa. Theo đó, ký hiệu không hề và không thể tồn tại như một thực thể độc lập tuyệt đối, mang một nghĩa tự trị đơn nhất. Ngay từ lúc ra đời, ký hiệu luôn được tri nhận trong các mối quan hệ văn hóa nhất định. Một ký hiệu, vì thế đã trở thành một tổ hợp ký hiệu trước và sau nó. Vậy nên, nó luôn là một liên ký hiệu.

Từ phát hiện này, chúng tôi tiếp cận ký hiệu ngôn từ ở chiều sâu của liên ký hiệu, đúng hơn là từ ký hiệu học hậu hiện đại. Khác với lẽ thường, thay vì lập mô hình để khu biệt và nhận dạng nghĩa của ký hiệu theo các cách nhà cấu trúc luận, chúng tôi đi giải cấu trúc ký hiệu để tìm bản chất của ký hiệu ngôn từ, tìm nội hàm của nó trong triết học, trong cổ mẫu, trong vô thức, trong quan niệm trò chơi hành dụng,… tóm lại là từ các mối liên kết nghĩa đa tầng bậc của chúng.

Sách này sử dụng lại, có sửa chữa cơ bản, một số chương đã in trong cuốn Ký hiệu học văn học, nhưng được sắp xếp để làm nổi bật lên tính liên ký hiệu - một đóng góp mang tính cá biệt của chúng tôi cho ngành ký hiệu học, vốn đã được khảo sát và ứng dụng rộng trên toàn thế giới.

Nghiên cứu ký hiệu đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những tên tuổi như Charles Sanders Peirce, Ferdinand de  Saussure,  Roland  Barthes,  Jacques  Derrida,…  đã  quá  quen

thuộc với giới học thuật Việt Nam. Hướng nghiên cứu này trên thế giới ắt hẳn đã có cả triệu công trình lớn nhỏ. Có thể kể các cuốn tiêu biểu: Claude Lévi–Strauss với Nhân học cấu trúc (Structural Anthropology, 1968); Jacques Lacan với Ngôn ngữ của cái tôi: chức năng của ngôn ngữ trong Phân tâm học (The Language of the Self: The Function of Language in Psychoanalysis, 1968); Terence Hawkes với Chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học (Structuralism and Semiotics, 1977); Jonathan Culler với Truy tìm ký hiệu (The Pursuit of Signs, 1981); Robert Scholes với Ký hiệu học và diễn giải (Semiotics and Interpretation, 1982); Thomas A. Sebeok (chủ biên), Ký hiệu chuyện kể: một khảo sát ký hiệu học (The Tell– Tale Sign: A Survey of Semiotics, 1975); Robert E. Innis (chủ biên), Ký hiệu học: Hợp tuyển nhập môn (Semiotics: An Introductory Anthology, 1985)…

Trước vô vàn công trình nghiên cứu giá trị trên, nhiệm vụ của chúng tôi chỉ là tổng hợp các lý thuyết đó theo một cấu trúc của riêng mình nhằm đưa ra một cách tiếp cận ký hiệu vừa mang tính hệ thống vừa dễ hiểu hơn đối với người đọc. Bên cạnh đó, chúng tôi vận dụng lý thuyết ký hiệu học, đặc biệt là liên ký hiệu, để phân tích, giải mã tác phẩm văn học, nhằm giúp người học cách thực hành lý thuyết, vận dụng nó vào thực tiễn. Văn bản được chọn khảo sát trong sách này được ưu tiên cho các tác phẩm được tuyển dạy trong nhà trường Việt Nam.

Hi vọng sách sẽ bổ ích đối với những ai yêu thích liên ký hiệu, yêu thích sự nghiên cứu ngôn ngữ văn chương như một quá trình hành dụng. Biết khó có thể tránh được hạn chế, chúng tôi mong nhận được các ý kiến đóng góp để sách hoàn thiện hơn trong các lần tái bản sau.

Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2018

GS. TS. Lê Huy Bắc

hồi ức tuổi tám mươi - hành trình từ điện tử đến vi mạch

Đây là tập tự truyện về cuộc đời tôi, đặc biệt là về quãng đời bốn mươi năm tôi ở Nhật Bản và những năm tháng có liên quan, kể cả những hoạt động sau đó đã chịu ảnh hưởng hoặc đã có quan hệ mật thiết đến quãng đời đó.

Tập tự truyện này đặt tên là “Hồi ức tuổi tám mươi - Hành trình từ điện tử đến vi mạch” là bởi vì nó đã được viết sau khi tôi đã được tám mươi tuổi. Nó được viết ra bằng tiếng nhật với ý định cho xuất bản tại Nhật Bản.

Sau khi bản tiếng Nhật ra đời, các bạn Việt Nam ngỏ ý muốn đọc, nên muốn tôi cho xuất bản bản tiếng Việt này. Vì thế, tôi đã “viết lại” bằng tiếng Việt. Tôi “viết lại”, chứ không “dịch”, mặc dầu nội dung của cả hai bản tiếng nhật và tiếng Việt đều khá giống nhau.Nếu có khác nhau, thì đó là những chi tiết nhỏ mà trong lúc viết lại bằng tiếng Việt tôi đã chợt nhớ ra nên đã thêm vào, hoặc cũng có chỗ lúc viết lại như vậy, tôi lại không thấy quan trọng nên đã lược bỏ đi.

Thêm nữa, nhân tiêu đề phụ của tập tự truyện này vốn là “Hành trình từ điện tử đến vi mạch”, cho nên tất cả những chi tiết nào, mặc dầu có thể là rất quan trọng đối với đời tư của cá nhân tôi, nhưng tự nó không trực tiếp liên quan đến những từ khóa “điện tử” hoặc “vi mạch”, thì đều bị lược bỏ, hoặc không đề cập đến.

Ngoài ra, trong suốt tập tự truyện, tôi đã nhắc đến rất nhiều người, có người vì không tiện nêu tên thật ra nên đã viết bằng tên viết tắt. tôi thành thật xin lỗi các anh/chị ấy. Điều tôi viết ra là sự thật, mặc dầu có khi “sự thật mất lòng”. Tôi viết sự thật ra ở đây không hề có ý phẩm bình ai, mà chỉ là muốn kể lại một sự thật lịch sử trong quá trình tiếp xúc giữa người và người, mỗi người đều có lập trường của mình, có sứ mạng lịch sử của mình. Một người gặp phải sự việc không suôn sẻ không nhất thiết là vì sự có mặt của người khác, cũng như không phải vì mình làm không tốt, mà có thể là vì cái vận của mình, cái chủ trương, chủ ý của mình đã không phù hợp với quan điểm của người khác vào thời điểm lịch sử nhất định đó, nên đã không thành. Thế thôi.

Tương tự, những sự thật lịch sử trong phạm vi lớn hơn, như những gì đã xảy ra trong khuôn khổ vận mệnh của gia đình tôi, của cha mẹ và anh em tôi, thậm chí cả của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ thế sự xoay vần, tôi cũng đã kể ra đây một vài chi tiết có thể làm cho người khác, nhất là những người ít tuổi hơn tôi, ngạc nhiên, thậm chí có quan điểm không đồng tình. Những sự thật đó đã xảy ra từ lâu rồi, đương sự trong những sự việc đó đều đã khuất núi từ lâu rồi; nhưng, sự việc đó còn vương vấn trong ký ức của một ông già tám mươi tuổi, như là hồi ức về một thời niên thiếu, thời tráng niên, được kể lại ở đây như một chuyện cổ tích, không hơn không kém.

Tôi đã được nhiều bạn bè, Việt Nam và Nhật Bản, đọc toàn văn bản thảo trước khi cho in thành sách. nhận xét hoặc cảm tưởng của mỗi người như vậy, tôi không thể kể hết ra đây. Chỉ những nhận xét chính của những vị này đã được tóm tắt ngắn gọn trong Chương Kết.

Xin chân thành cảm tạ

nhà văn nhật bản thế kỷ xx

Nhà Văn Nhật Bản Thế Kỷ XX

Thế kỷ XX, văn học Nhật Bản nở rộ nhiều tài năng và đạt được những tầm cao mới không chỉ ở trong nước mà cả trên thế giới. Đây là một nền văn học có truyền thống lâu đời. Nhiều thế hệ nhà văn kế tiếp nhau đã tạo nên một diện mạo văn chương Nhật Bản đặc thù. Học hỏi phương Tây mà không đánh mất bản sắc là một trong những tiêu chí sống còn để cách tân văn chương, người Nhật đã làm rất tốt điều này so với phần còn lại của thế giới.

Trong ý thức xây dựng một bộ mặt văn chương mang tầm cỡ nhân loại, người Nhật rất xem trọng việc phổ biến văn học Nhật ra thế giới. Không chỉ các nhà văn Nhật sống và làm việc ở nước ngoài đảm nhận nhiệm vụ này, mà chính phủ Nhật cũng đầu tư thích đáng để đưa các tác phẩm tiêu biểu của họ đến với bạn đọc năm châu. Có thể nói, hầu hết những tác phẩm xuất sắc của Nhật đều được chuyển dịch sang tiếng Anh, thứ ngôn ngữ hiện đang được sử dụng toàn cầu. Nhiều tác phẩm văn học Nhật được dịch ra tiếng Việt cũng từ tiếng Anh. Người Nhật đã có sự kế thừa và phấn đấu vì một nền văn chương Nhật bền bỉ và liên tục. Đầu thế kỷ XX, ta thấy nổi lên Tanizaki, Akutagawa, giữa thế kỷ là Kawabata, Mishima, Oe; cuối thế kỷ là Murakami Haruki, Banana Yoshimoto, Murakami Ryu,… những nhà văn này lại tiếp tục tỏa sáng sang thế kỷ XXI.

Thành tựu dễ thấy của nhà văn Nhật Bản là sự gắn kết mật thiết với xứ sở. Truyền thống Nhật luôn bỏng cháy trên trang sách của bất cứ nhà văn xứ Phù Tang nào. Thậm chí ngay đến một người từng rời xa nước Nhật như Kazuo Ishiguro, khi được trao giải Nobel văn chương 2017, người ta cũng ghi nhận căn tính Nhật trong sáng tác của ông.

Những giá trị và đóng góp của văn học Nhật Bản cho nhân loại đến nay thì khỏi phải bàn. Họ quá mạnh so với phần còn lại của châu Á, tuy dân số của họ chỉ ở mức khiêm tốn khi đặt tương quan với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia… Nếu tính cả nhà văn Anh gốc Nhật, thì Nhật Bản đã được trao tặng ba giải thưởng Nobel văn học. Chưa hết, cần phải kể đến Murakami Haruki hay Banana Yoshimoto như những ứng viên tiềm năng cho các Nobel văn học tiếp theo.

Với nền dân chủ tiến bộ bậc nhất nhân loại theo kiểu Mỹ, người dân Nhật Bản được giáo dục theo tinh thần khai phóng, đề cao vai trò và ý thức cá nhân, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh, xã hội tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy hết tiềm năng vốn có của mình,… kết quả là trong lĩnh vực nghệ thuật văn chương nói riêng, người Nhật đã hình thành được một đội ngũ nhà văn đa phong cách với năng lực sáng tạo phi thường. Có thể nói, ở những chừng mực nhất định, thế giới có những xu hướng nghệ thuật tiên phong gì thì ở Nhật cũng đều có các xu hướng đó. Nhà văn Nhật, với tố chất Á Đông bền bỉ, khiêm nhường, và không ngừng học hỏi, đã thể hiện những quan sát và cách sử dụng ngôn từ độc đáo, làm ngây ngất trái tim của triệu triệu bạn đọc khắp năm châu.

Không chỉ là thơ Haiku, là tiểu thuyết Truyện Genji, người Nhật còn có một Akutagawa bất hủ với truyện ngắn Trong rừng trúc, một câu chuyện khi được chuyển thể thành phim đã lập tức trở thành kinh điển cho mọi thời đại. Ngoài ra, Kawabata hay Murakami,… những cái tên với số lượng sách phát hành hàng triệu bản, luôn xuất hiện trong các công trình nghiên cứu của các phê bình gia nổi tiếng của nhân loại, thì chẳng ai có thể phủ nhận tài năng.

Người Nhật là vậy. Họ biết đâu là điểm mạnh và đâu là điểm yếu của mình. Họ sẵn sàng học hỏi những điều tốt đẹp ngay cả khi điều đó thuộc về kẻ thù. Còn nhớ, trong Thế chiến thứ hai, Mỹ là kẻ thù tàn hại nước Nhật, nhưng sau chiến tranh, người Nhật bỏ qua ngay thù hận, học hỏi cách quản lý đất nước ưu việt và kết quả là nước Nhật đã bước ra khỏi bóng tối, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai của thế giới trong suốt thời gian dài.

Cần lưu ý, nhà văn Nhật học hỏi thế giới, không có nghĩa họ đánh mất đi bản sắc của mình. Cái được gọi là “bản sắc” thì sẽ luôn đập cùng nhịp tim, vận động cùng trong huyết quản của bất kỳ ai biết nói thứ tiếng mẹ đẻ của mình. Mọi sự học hỏi của bất kỳ tầng lớp trí thức ngôn từ nào thì đích cuối cùng cũng chỉ để làm giàu cho nền văn chương quốc nội. Chỉ có kẻ u mê mới khư khư bám lấy cái mình cho là chân lý, không chịu giao lưu với thế giới bên ngoài, luẩn quẩn trong mớ tri thức thủ cựu mà cứ nghĩ là vốn tri thức thánh hiền vĩnh cửu muôn đời.

Văn học Nhật đã được đưa vào nhà trường Việt Nam. Ở phổ thông, học sinh được dạy về thơ Haiku. Lên bậc đại học, sinh viên ngành Ngữ văn được tiếp xúc với nền văn học Nhật qua nhiều tác gia tiêu biểu. Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học và khóa luận tốt nghiệp về văn học Nhật của sinh viên ước tính có tới hàng ngàn công trình lớn nhỏ trên cả nước. Số lượng đề tài luận văn thạc sỹ thì có đến cả trăm. Luận án tiến sỹ thì đã có sáu đề tài bảo vệ thành công:

Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm của Yasunari Kawabata của Đào Thị Thu Hằng bảo vệ năm 2006. Đây là luận án tiến sỹ về văn học Nhật Bản đầu tiên ở Việt Nam do GS. Hà Minh Đức hướng dẫn.

Thơ Haiku Nhật Bản - Lịch sử phát triển và đặc điểm thể loại của Nguyễn Vũ Quỳnh Như, bảo vệ năm 2013, do PGS. TS. Lê Giang hướng dẫn.

Yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Haruki Murakami của Lê Thị Diễm Hằng, bảo vệ năm 2014, do PGS. TS. Trương Đăng Dung hướng dẫn.

Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội của Hạ Thị Lan Phi, bảo vệ năm 2017, do PGS. TS. Đinh Thị Vân Chi và PGS.TS. Phạm Hồng Thái hướng dẫn.

Mỹ cảm aware trong văn học Nhật Bản qua tiểu thuyết “Truyện Genji” của Murasaki Shikibu và “Ngàn cánh hạc” của Kawabata Yasunari của Hoàng Thị Mỹ Nhị, bảo vệ năm 2018, do GS.TS. Nguyễn Đức Ninh hướng dẫn.

Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Haruki Murakami của Đặng Phương Thảo, bảo vệ năm 2018, do GS.TS. Lê Huy Bắc và TS. Đào Thị Thu Hằng hướng dẫn.

Ngoài ra, còn bốn đề tài tiến sỹ về văn học Nhật đang được thực hiện ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Về văn học Nhật, những thành tựu nghiên cứu trường quy ở Việt Nam rất đáng ghi nhận, nhưng ở lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu thì chưa có nhiều công trình. Đến nay, ước tính có chưa đến mười cuốn chuyên luận về văn học Nhật được lưu hành. Con số này quả là quá khiêm tốn khi so với các công trình nghiên cứu về văn học Pháp, Mỹ, Nga ở Việt Nam. Tình hình đó đòi hỏi giới nghiên cứu nỗ lực thêm nữa để đưa văn học Nhật đến với bạn đọc Việt Nam. Cuốn sách này ra đời trong bối cảnh đó.

Chưa thể bao quát hết tất cả các nhà văn Nhật thế kỷ XX, chúng tôi bước đầu chỉ tập trung vào 8 tác giả tiêu biểu. Thêm nữa, vẫn còn nhiều chỗ chưa thể bàn kỹ được. Hy vọng sẽ trở lại vấn đề này trong thời gian không xa.

Chuyên luận được hình thành trên cơ sở nghiên cứu của đề tài cấp Bộ Đặc trưng văn xuôi Nhật Bản hiện đại thế kỷ XX, mã số B.2015-17-64. Nhân dịp cuốn sách ra mắt bạn đọc, tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Rất mong nhận được những góp ý chân thành từ Quý độc giả để cuốn sách được hoàn thiện hơn khi có điều kiện tái bản.

Hà Nội, 18 tháng 8 năm 

đại tướng mai chí thọ - ký sự nhân vật

Tham gia cách mạng từ năm 1936 vào Đảng Cộng sản Đông Dương 1939, trải qua nhiều nhà tù của đế quốc, từ Nam Định, Hỏa Lò Hà Nội, Sơn La, Khám Lớ Sài Gòn, Côn Đảo,... Cuộc đời của MAi Chí Thọ gắn liền với cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam bên cạnh các vị đã cùng ông vào sinh ra tử, gánh vác trách nhiệm lớn lao ở miền Nam như Lê Duẩn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Quốc Hương, Trần Bạch Đằng,..

Một cuộc đời như Đại tướng Mai Chí Thọ quả là hiển hách và trọn vẹn. Ông đã được giao các trọng trách trong Đảng và chính quyền trong ngành công an và tình báo. Khi hòa bình, đã cùng các đồng sự lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh và ngành vượt qua bao thử thách, kiển trì đổi mới. Năm 1991 nghỉ hưu, nhưng bàn chân, khối óc, tấm lòng không ngơi nghỉ, ông luông hướng về đồng đội, người nghèo, bệnh tật. Một con người hết lòng vì Đảng, vì dân cho đến phút chót.

bông trái quê nhà

Đóng góp vào khuynh hướng văn học đó, nét riêng của Trần Bảo Định có lẽ là sự kết hợp bước đầu chủ nghĩa nhân bản Phật giáo với chủ nghĩa nhân văn sinh tháo. Thiên nhiên nuôi dưỡng và vun đắp Phật tánh nơi con người. Bông trái đâu chỉ chữa bệnh cho người mà còn bồi đắp tình yêu, tấm lòng thủy chung, tính lương thiện ngay trong nghịch cảnh. Hầu như đoản văn nào cũng xuất hiện một tâm hồn nữ - khi là ngoại, khi là mẹ, khi là gì, khi là chị - bao dung như Mẹ hiền Quán Thế Âm, nhắc nhở ta “rễ thúi, gốc ư thì diệt vong”, “cầm cố đất cho người, mai nầy lấy chi mà chuộc lại”, “bán đất cho người, mai này con cháu tụi bây lấy đất đâu để ở và có nơi chốn để về?”.

Tác giả :

Trần Bảo Định

Bút danh khác: Cao Thị Hoàng, Lê Kim Phượng

Sinh năm 1944 tại An Vĩnh Ngãi, Long An, học tại trường Đại học Văn Khoa, Viện Đại học Đà Lạt.

Đã xuất bản nhiều tập thơ như Ngao du sơn thủy, Thầy tôi, Mẹ. Tiếng lòng, Vợ tôi, Làng tôi… và hai tập truyện Kiếp Ba khía, Đời Bọ hung xuất bản năm 2014, 2015

chuyện về ứng xử văn hóa

Việc sống sao cho tử tế có lẽ luôn là sự tự đòi hỏi, tự phấn đấu để hoàn thiện bản thân của mỗi người. Đó cũng là sự đòi hỏi của xã hội, là sự gặp gỡ của những giá trị chung mà mọi người cùng hướng đến.

Tuy nhiên, trong thực tế, đời sống kinh tế đã khá lên nhưng đời sống văn hóa, tinh thần chưa được như mong muốn. Mặt bằng dân trí có nâng lên nhưng văn hóa ứng xử thì chưa theo kịp. Có người còn cho rằng, trong ứng xử, có mặt còn thấp hơn ngày xưa và ước gì “bao giờ cho đến ngày xưa”.

Trong một thế giới phát triển nhanh, khoa học công nghệ giúp con người thu hẹp khoảng cách về địa lý, thế giới như gần gũi nhau hơn, thông tin nhanh, rộng hơn nhưng không gian ảo mở ra nhiều hơn và thật, giả cũng rất khó lường.

Để mỗi người sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và làm tốt trách nhiệm công dân là điều mà gia đình, nhà trường và xã hội vun trồng ngay từ khi còn bé. Trên nền tảng tôn trọng pháp luật, ứng xử có văn hóa, với lòng nhân ái, bao dung... con người sẽ có điều kiện vươn tới những phẩm chất cao đẹp hơn như đức hy sinh, tinh thần dũng cảm, óc sáng tạo, sự dấn thân cho mục đích cao cả...

Với góc nhìn về ứng xử văn hóa, xin được khơi gợi đôi điều về những nét ứng xử qua cảm nhận, qua những câu chuyện được nghe thấy và suy ngẫm. Chân thành kính gửi đến độc giả Chuyện về ứng xử văn hóa và xin được trân trọng đón nhận lời góp ý.

PHẠM PHƯƠNG THẢO

câu chuyện khoa học (tái bản 2018)

Khoa học là một trong những di sản quí báu nhất của văn hóa nhân loại. Nếu chúng ta hiểu văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình tương tác giữa con người về tự nhiên, thì khoa học là một phần của văn hóa. Do đó, tôi cũng sẽ kể cho các bạn về lí lịch khoa học của những con vật gần gũi chúng ta như heo, gà, chuột, khỉ, cùng mối liên quan đến sự hiện diện của chúng và nguồn gốc của nền văn minh lúa nước Đông Nam Á. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết nơi xuất phát của những con vật này là từ Đông Nam Á. Các bạn cũng sẽ biết Đức Phật đã nói gì về một hội chứng mà chúng ta gọi là “loãng xương” ngày nay. Tôi cũng không quên kể cho các bạn những câu chuyện về các nhà khoa học lừng danh như Charles Darwin, Alexandre Yersin, Paul Erdos, và một số nhà khoa học khác đã đem đến cho chúng ta những phát minh cứu hàng triệu người.

tinh thần nhập thế của phật giáo việt nam ( 1945-1975)

Gốc rễ sự đồng hành cùng dân tộc xuyên suốt hai thiên niên kỷ của Phật giáo Việt Nam, không gì khác hơn là tinh thần nhập thế. Có thể khẳng định đây là một nét đặc sắc của phật giáo nước ta. Nét đặc sắc ấy được trình bày trong cuốn sách Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam (1945-1975).

Nét nổi bật của cuốn sách là nguồn tài liệu phong phú từ nhiều phía, cả trong và ngoài nước, trong đó có nhiều tài liệu quý được lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ quốc gia, các tự viện, trong thư việ Đại học Harvard – Mỹ cùng với việc phỏng vấn nhân chứng; qua đó các tác giả đã trình bày, phân tích đầy đủ và rõ nét tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong suốt 2.000 năm, đặc biệt là giai đoạn 1945-1975, với những biểu hiện, tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử cụ thể.

bộ nghìn năm bia miệng - tập 2

Nghìn năm bia miệng Tập 1 và Tập 2 là sưu tập công phu và tương đối đầy đủ về kho tang các sự tích và giai thoại dân gian được sáng tác, lưu truyền trong suốt hành trình hơn 300 năm khai phá, dựng xây và bảo vệ vùng đất phương Nam của Tổ quốc. Đó là những câu chuyện về buổi đầu lưu dân người việt đặt chân tới vùng đất hoang vu “ cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy”. Những chuyện đánh cọp, diệt sấu, bắt rắn cho thấy tài trí và bản lĩnh của những người đi mở cõi; song song với đó là câu chuyện bầu cọp làm Hương cả giúp ta thấy được cuộc sống của ông cha thuở trước, vừa phải chống chọi vừa tìm cách thích ứng, hòa hợp với thiên nhiên khắc nghiệt…

21 kỹ năng trí thông minh nội tâm

Đây là một quyển sách quan trọng và kịp thời trong bối cảnh người ta đang sử dụng từ “nội tâm” trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đây là một sự kết hợp xuất sắc giữa lý thuyết và thực hành, lúc đầu dựa trên các loại trí thông minh của Howard Gardner và công trình về trí thông minh cảm xúc của Goleman. Xuyên suốt quyển sách, tác giả tổng hợp công trình của nhiều tác giả khác trong lĩnh vực này. Có một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kinh nghiệm cá nhân của chính tác giả và lời khuyên dành cho độc giả. Tôi đặc biệt tâm đắc với phần kết nói về cách thức phát triển trí thông minh nội tâm, đặc biệt là Chín bước đi đến cái tôi thanh lương và Ba bài tập căn bản. Chương cuối cùng, có tựa là Thay đổi sâu sắc, ảnh hưởng vô tận, là chương có khả năng truyền cảm hứng, dẫn độc giả ra khỏi quyển sách, để “bắt đầu một quá trình vui sống với tính người và tiềm năng trọn vẹn”. Quyển sách này cực kỳ hữu ích cho rất nhiều giới, trong đó có các nhà quản lý, các mục sư, các nhà khai vấn cuộc đời, các giám đốc linh hướng, các giáo viên, v.v…

thoại ngọc hầu qua những tài liệu mới (tái bản 2018)

Thoại ngọc hầu là bậc danh tướng đa tài trong lịch sử nước ta. về binh nghiệp, ông là bậc “công thần vọng các” đã từng theo phò nguyễn Ánh từ những ngày còn bôn tẩu khắp nơi, giúp hoàng tôn Ánh khôi phục gia định, lấy đất nghệ An; từng trấn thủ và giữ yên vùng đất biên cương phía bắc trong những năm đầu khi vua gia Long mới làm chủ đất bắc hà; ba lần giữ chức bảo hộ cao miên “lo liệu sắp đặt việc ngoài biên” được vua minh mạng ngợi khen là đã “nói lên một cách rộng rãi cái uy đức của triều đình, củng cố được biên cảnh”. Ông còn là nhà ngoại giao tài ba, từng bảy lần đi sứ sang xiêm, ít nhất hai lần đi sứ sang Lào, thuyết phục vua xiêm và các bộ tộc Lào giúp nguyễn vương thoát khỏi tình thế nguy nan, tạo nên bước ngoặt trong quá trình bắc tiến. bên cạnh tài thao lược, ngoại giao, Thoại ngọc hầu còn là một nhà kinh tế có tầm nhìn xa trông rộng, ông đã góp công rất lớn trong sự nghiệp đào kênh vĩnh tế, kênh Thoại hà, chiêu dân lập ấp, biến châu đốc từ một vùng đất “cỏ hoang bát ngát” thành nơi dân cư tụ họp đông đúc “ruộng vườn bao quanh chân núi, hơi lam tuôn cuốn lẫn khói nấu cơm, chùa chiền trên chót hương tỏa mây lồng, thật không kém gì phong cảnh trung châu”. trong suốt cuộc đời mình, dấu chân Thoại ngọc hầu đã in trên khắp mọi miền đất nước, ở xứ cao miên, vạn tượng, xiêm La.

Năm 1972, cuốn sách biên khảo đầu tiên về Thoại ngọc hầu nhan đề Thoại Ngọc Hầu với công cuộc khai phá miền Hậu Giang của học giả nguyễn văn hầu đã ra mắt bạn đọc với lời bình của nhà nghiên cứu bửu Kế: “Sự phong phú của sách khiến không còn ai có thể viết về vấn đề nầy làm gì nữa”. Lời bình ấy đã nói lên tâm huyết, nỗ lực và thành công rất lớn của học giả nguyễn văn hầu trong quá trình sưu tầm tài liệu để viết nên cuốn biên khảo này. nhưng lời nhận xét ấy không có nghĩa là tất cả những gì về Thoại ngọc hầu đã trở nên sáng tỏ, chính xác hoàn toàn, bởi lẽ khoa học là hành trình khám phá không ngừng.

Hơn bốn mươi năm sau, nhà nghiên cứu trẻ trần hoàng vũ giới thiệu đến bạn đọc cuốn biên khảo thứ hai về Thoại ngọc hầu với tựa đề Thoại Ngọc Hầu qua những tài liệu mới. để viết nên cuốn sách này, tác giả đã dồn nhiều tâm sức sưu tầm những tài liệu mới nằm rải rác khắp nơi, trong biên niên sử hoàng gia xiêm, cao miên, trong các công trình du khảo của người phương tây, và các bài văn bia liên quan đến Thoại ngọc hầu ở khắp trong nam ngoài bắc,... Kế thừa những thành tựu nghiên cứu trong những năm gần đây, cộng với nguồn tài liệu mới sưu tầm được, tác giả đã đính chính và bổ sung nhiều thông tin quan trọng về cuộc đời và sự nghiệp của Thoại ngọc hầu trong cuốn biên khảo công phu và hấp dẫn này.

Trân trọng những nỗ lực và tâm huyết của nhà nghiên cứu trẻ trần hoàng vũ, nhà xuất bản tổng hợp Thành phố hồ chí minh giới thiệu đến bạn đọc cuốn sách Thoại Ngọc Hầu qua những tài liệu mới. chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách đầu tay của tác giả sẽ được bạn đọc xa gần đón nhận và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để những hiểu biết của chúng ta về lịch sử dân tộc ngày một đầy đặn và chính xác hơn.

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

mây ngàn - những cái bóng nhớ thương

Tiểu thuyết Mây ngàn của Vita (1910 – 1956), nhà giáo và nhà văn miền Nam, có thể coi là một loại truyện nổi tiếng một thời, xuất bản lần đầu năm 1936 tại Sài Gòn, sau đó còn được tái bản vài lần, ít nhất được biết vào các năm 1944, 1954,1966,1995, tính đến nay tuyệt bản đã lâu. Chính vì vậy, đối với thế hệ trẻ ngày nay, Vita cùng với Mây ngàn và nhiều tác phẩm rất hay khác nữa của ông trong thời gian khá dài đã bị lãng quên, chỉ được một hai nhà nghiên cứu văn học gần đây nhắc lại, xếp vào chiếu “nhà văn Nam Bộ ít được biết đến”. Tại miền Nam trước năm 1975, nhờ có giá trị văn học cao, ở tính nhân văn trong nội dung mượt mà, hiện đại trong hình thức biểu hiện, vài đoạn văn trong Mây ngàn đã được trích giảng trong sách giáo khoa Việt văn lớp 7 thời đó, như bài “Nhớ cố hương” là một đoạn văn tả cảnh lồng với tả tình xuất sắc, đáng làm mẫu mực để học sinh và người luyện tập viết văn noi theo.

mười ngày rung chuyển thế giới (tái bản 2018)

Sau khi đọc một cách vô cùng hứng thú và chăm chú từ đầu chí cuối quyển sách của John Reed Mười ngày rung chuyển thế giới, tôi hết lòng giới thiệu tác phẩm này với công nhân tất cả các nước.

Tôi mong muốn cuốn sách này được phát hành hàng triệu bản và dịch ra đủ mọi thứ tiếng, vì nó cung cấp một bức tranh xác thực và vô cùng sinh động về những sự kiện cực kỳ quan trọng để hiểu thế nào là cách mạng vô sản, thế nào là một chuyên chính vô sản.

Những vấn đề đó ngày nay được thảo luận rộng rãi, nhưng trước khi chấp nhận hoặc bác bỏ những ý kiến này, cần phải hiểu biết ý nghĩa của sự quyết định của mình.

Chắc chắn là quyển sách Mười ngày rung chuyển thế giới của John Reed sẽ làm sáng tỏ thêm vấn đề căn bản này của phong trào công nhân toàn thế giới.

V.I. Lenin

chủ nghĩa hiện sinh - dẫn luận ngắn

Người ta thường thừa nhận rằng chủ nghĩa hiện sinh là một học thuyết triết học về cá nhân cụ thể. Đây vừa là vinh quang vừa là nỗi tủi nhục của nó. Trong thời đại truyền thông đại chúng và sự hủy diệt hàng loạt, điểm sáng của chủ nghĩa hiện sinh là nó bảo vệ giá trị nội tại của cái mà Sartre, một đại diện tiêu biểu của nó, gọi là ‘cá nhân hữu cơ tự do’, tức là, tác nhân bằng xương bằng thịt. Do trong xã hội hiện đại con người ta bị đẩy tới chỗ phục tùng một cách không thể cưỡng lại được, nên cái mà ta gọi là ‘tính cá nhân hiện sinh’ là một thành tựu, chứ không phải là tính cá nhân thường trực. Chúng ta sinh ra là những thực thể sinh học nhưng chúng ta phải trở thành các cá nhân hiện sinh bằng cách chấp nhận trách nhiệm cho các hành động của mình. Đây là một sự áp dụng lời khuyên của Nietzsche cho việc ‘trở thành cái bạn là’. Nhiều người không bao giờ thừa nhận trách nhiệm ấy mà lẩn vào sự thoải mái của đám đông vô diện mục để tránh né tính cá nhân hiện sinh của mình. Để minh họa cụ thể cho việc trở thành cái cá nhân, trong chương tiếp theo, tôi lần theo cái Kierkegaard gọi là ‘các lĩnh vực’ của sự hiện hữu hay ‘các giai đoạn trên đường đời’ và kết luận với một số nhận xét về việc Nietzsche sẽ quan niệm dự phóng trở thành cá nhân hiện sinh này như thế nào.

Trong khi giá trị tối cao của tư tưởng hiện sinh nhìn chung được thừa nhận là sự tự do, thì đức hạnh hàng đầu của nó là tính đích thực. Chương 4 sẽ tập trung bàn luận chủ đề này cũng như bản tính và các hình thức của sự tự dối mình, hay sự ngụy tín, giữ chức năng như là mặt đối lập với nó. Tôi liên kết tính đích thực với tính cá nhân hiện sinh và xem xét khả thể của một thứ đạo đức học về tính đích thực dựa trên trách nhiệm hiện sinh.

(Trích Lời nói đầu)

quan hệ nhân quả - dẫn luận ngắn

"Có nhiều quan điểm khác nhau. Một số cho rằng cơ sở của quan hệ nhân quả là tính hợp quy tắc: nghĩa là một vật hay một sự kiện sẽ thường trực được nối kết với vật khác hay sự kiện khác. Số khác lại cho rằng không nhất thiết và cũng không cần thiết phải có quan hệ nhân quả. Lý thuyết khác lại nói rằng sự hiện hữu của kết quả là phụ thuộc vào sự hiện hữu của nguyên nhân, song làm thế nào quan niệm này đủ sức phân biệt được các nguyên nhân thực sự với các hiện tượng khác cũng gắn kết với kết quả? Quyển Quan hệ Nhân quả: Dẫn luận ngắn này sẽ giới thiệu đến độc giả các lý thuyết then chốt về mối quan hệ nhân quả cũng như những cuộc tranh luận và tranh cãi xung quanh mối quan hệ này. Phải chăng các nguyên nhân tạo ra các kết quả bằng cách đảm bảo sẽ tạo ra các kết quả? Có thực sự các nguyên nhân phải đi trước các kết quả không? Ta có thể quy giảm quan hệ nhân quả thành các lực trong vật lý học được không? Liệu ta có đúng không khi xem quan hệ nhân quả như một mối quan hệ hoàn toàn cá biệt?"

sa lan đỏ bãi xanh

Sa Lan Đỏ Bãi Xanh, tập truyện ngắn mới nhất của Văn Thành Lê, khoác cái tên chung gợi cảm giác lạ lẫm, khiến ở nấc tiếp xúc đầu tiên người đọc thoáng chút khựng lại, ngạc nhiên và mơ màng. Khả năng lạ hóa những điều gần gũi, bình dị ngoài đời thực khi lên trang viết của anh thể hiện ngay ở cách đặt tựa. Những câu chuyện, các vấn đề vẫn gặp đâu đó trong bộn bề cuộc sống qua góc nhìn Văn Thành Lê bỗng trở nên khác lạ, gọi người đọc tập trung nhìn theo anh, nghĩ về chúng theo một cách khác.

Người đọc có thể bật cười với Đầu năm đi chùa, Hoàng tử tuổi xế chiều, công chúa tuổi hoàng hôn, Ngoài mọi quy luật, có thể cảm nhận cái nhếch mép giễu cợt với Nhà thơ cấp nước, Hạ huyệt an toàn hay Giăng lưới bắt chim. Giữa các truyện ngắn mang âm hưởng khôi hài, đượm tinh thần châm biếm, người đọc sẽ bắt gặp khoảnh khắc chùng lòng, tiếc nuối bởi những truyện ngắn như Sa lan đỏ bãi Xanh… Để rồi, gấp lại những trang viết đậm chất đời, phía sau các hóa thân có vẻ từng trải, phía sau những nụ cười phảng phất mỉa mai, kỳ thực Văn Thành Lê vẫn là một người trẻ tin vào phần thiện lương của cuộc đời phía trước.

Nhà văn Phan Hồn Nhiên

bóng chiều quê

Với tập truyện ngắn Bóng chiều quê, ta lại bắt gặp nét chấm phá riêng, một thể tài mới đáng quý của cây bút cao niên khi truyền tải “tục hay nếp cũ” trên mảnh đất chín rồng. Bấy nay, tìm hiểu về phong tục, tập quán đất Nam Bộ, hẳn độc giả đã quen thuộc với những khảo cứu của các nhà nghiên cứu về Nam Bộ… Nhưng, dùng văn học để truyền tải đến các bạn đọc những thông tin về phong tục, tập quán miệt đất phuong Nam, lại không có nhiều, nhất là những tục lệ tốt đẹp, đã ăn sâu bén rễ vào đất và người phuong Nam… Ở Bóng chiều quê, ta cảm nhận được, đó không chỉ là hồn cốt, nết ăn nết ở, là những nếp cũ, tục hay làm nên riêng chất Nam bộ, mà xen kẽ qua từng câu chuyện, tác giả đã hết sức tự nhiên lồng vào đó bao hiểu biết về lịch sử vùng đất như Gò Tháp, Gò Trụi, Bình Cách… để từ đây, những thông điệp về lối sống, cách ứng xử làm nên tính cách Nam Bộ cũng được truyền tải nhẹ nhàng mà thấm sâu.

vườn xưa dạo bước

Vườn Xưa Dạo Bước

“Những bài viết của Nguyễn Đông Triều và Phan Mạnh Hùng, một mặt, gợi lên niềm lo âu và băn khoăn về nguy cơ xuống cấp của những di sản văn hóa như đình, chùa, miếu và tình trạng quên lãng công tích của Tổ tiên nơi các thế hệ hậu sinh; mặt khác, lại gieo trồng niềm tin rằng không có gì bị mất dấu trong cuộc đời này, và bên cạnh sự thờ ơ, lãnh đạm của những kẻ vô cảm, vẫn còn có những nổ lực đầy tâm huyết để lưu danh những đấng bậc đã lập đức, lập ngôn… Vườn xưa dạo bước đem lại cho người đọc không chỉ sự chiêm nghiệm về quá khứ mà còn là thu hoạch bổ ích để đi tới những chọn lựa ứng xử phù hợp trong hiện tại và tương lai.”

bộ chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954 - tập 1 (tái bản 2018)

Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 1 (Tái Bản 2018)

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

 

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

 

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

 

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

 

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

 

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

 

trở lại cố hương

Trở Lại Cố Hương được Thomas Hardy khởi thảo vào cuối năm 1876 và hoàn thành vào mùa xuân 1878. Đây là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của ông. Được công nhận rộng rãi là một trong những tiểu thuyết nổi bật nhất của Thomas Hardy, Trở lại cố hương tìm cách giải mã mối xung đột giữa tình yêu và tình cảm gia đình, giữa hiện thực và khát vọng, giữa tự nhiên hay định mệnh tàn ác vô tình và đời người hữu hạn.  Một số nhà soạn nhạc nổi tiêng, bao gồm Gerald Finzi, Benjamin Britten, và Gustav Holst đã lấy thơ ông để phổ nhạc, Holst cũng soạn bản giao hưởng dựa trên chủ đề của tiều thuyết The Return of the Native nhan đề Egdon Heath: A homage to Thomas Hardy vào năm 1927.

milano sài gòn đang về hay sang?

Milano Sài Gòn Đang Về Hay Sang?

Có thể nói những cuộc viễn du của Trương Văn Dân khắp năm châu, bốn biển cũng là một phương thức  để  tích  lũy  vốn  sống  cho  những  trang  viết. Chính vì vậy ở những câu chuyện của Trương Văn Dân, cuộc sống bày ra ngồn ngộn, thậm chí khá bộn bề.(…) Một phương diện khác của cõi nhân sinh trong Milano Sài Gòn, đang về hay sang? đó là nỗi ám ảnh về nguồn cội, về đất nước quê hương mà dẫu có sống ở  những quốc gia giàu sang đến mức nào thì khát vọng tìm về cội nguồn vẫn luôn canh cánh trong lòng những con dân nước Việt. Và đây là những trang văn hay và cảm động trong tập truyện mà Trương Văn Dân muốn chia sẻ với người đọc với tư cách là một chứng nhân, là người trong cuộc.

…,

Hy vọng, đọc tác phẩm này các bạn sẽ chia sẻ với những vấn đề tác giả nói đến trong cõi nhân sinh và tìm được cho mình “một cõi đi về”. Đó là cõi đi về phía ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân ái và sự hướng thiện, vốn là những giá trị hằng cửu mà những tác phẩm văn học đích thực mang đến cho con người. Milano Sài Gòn, đang về hay sang? của Trương Văn Dân là một tác phẩm văn chương như thế mà tôi muốn chia sẻ như một người đọc tri âm.

Xóm Đình An Nhơn

Gò Vấp - Mùa Vọng Giáng sinh

Thành phố Hồ Chí Minh, 10/12/2017

bộ chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954 - tập 2 (tái bản 2018)

Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 2 (Tái Bản 2018)

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

 

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

 

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

 

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

 

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

 

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

 

từ điển việt hàn (tái bản 2018)

Từ Điển Việt - Hàn (Tái Bản 2018)

Những năm gần đây người Việt học tiếng Hàn Quốc ngày càng đông do sự phát triển giao lưu mạnh mẽ giữa 2 nước Việt - Hàn. Điều này có tác dụng lơn đến qui mô dạy và học tiếng Hàn ở Việt Nam.

Cuốn sách "Từ điển Việt - Hàn" được xuất bản là để đáp ứng nhu cầu học tiếng Hàn và tra cứu từ loại một cách nhanh chóng, khoa học và tiết kiệm thời gian cũng như công sức bỏ ra để tìm tòi và thu thập từ loại tiếng Hàn phục vụ cho ngành kinh tế, thương mại theo vần của tiếng Việt...

đào uyên minh toàn tập

Đào Uyên Minh Toàn Tập

Đào Tiềm tự là Uyên Minh lại có tự là Nguyên Lượng, người Tầm Dương, Sài Tang (nay ở Tây Nam huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây). Ông sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Ai Đế đời Đông Tấn (năm 365), mất năm thứ 4 niên hiệu Nguyên Gia vua Văn Đế đời Tống (năm 427), hưởng thọ 63 tuổi. Sau khi ông chết, bạn bè đặt thuỵ là Tịnh Tiết Trưng Sỹ, nên còn có tên là Đào Tịnh Tiết.

Đào Uyên Minh là một tác gia quan trọng hàng đầu trong lịch sử văn học Trung Quốc, thơ Uyên Minh đều là những áng thơ ca bất hủ, được người đời tán thưởng. Ảnh hưởng của ông vượt ra ngoài cả Trung Hoa; các nước Nhật Bản, Pháp, Liên Xô đều đã xuất bản các bản dịch và chuyên luận nghiên cứu về ông. Đối với một tác gia quan trọng như vậy, việc giới thiệu và nghiên cứu là điều cần yếu.

14
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

  • Giới Thiệu
  • Chính Sách Bảo Mật
  • Liên Hệ
  • Email: Taisachebook@gmail.com