1. Trang Chủ
  2. ///

Nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM

Tổng hợp sách của nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM
già ơi...chào bạn!

 Già là hiện tượng tự nhiên, là điều tất yếu trong vòng đời của con người. Nhưng già thế nào cho “đúng cách” cho “điệu nghệ”. Trong cuốn “Già ơi…chào bạn!” với kiến thức y khoa chuyên môn và giọng văn hóm hỉnh, BS. Đỗ Hồng Ngọc sẽ giới thiệu đến bạn đọc những thay đổi tâm sinh lý của một người khi bắt đầu tuổi già. Qua cuốn sách này ông  chuẩn bị cho người ta một tâm thế sẵn sàng, tự tại để vui hưởng tuổi già khỏe mạnh, hạnh phúc, và có ích cho con cháu. 

bản ngã

Khi chúng ta yêu thương, khi chúng ta cảm thấy được tình yêu thương, cho dù đối với một con người, một con vật, một bông hoa hoặc một buổi hoàng hôn, thì chúng ta được thoát ra khỏi chính mình. Những ham muốn của chúng ta, những sợ hãi và nghi ngờ của chúng ta tan biến  hết. Nhu cầu được thừa nhận tan biến, ta không còn tìm cách để so sánh mình với những người khác nữa, để sống được nhiều hơn những người khác nữa. Tâm hồn chúng ta nổi lên trong khi tất cả chúng ta tràn đầy cảm giác này, khi ấy sự hăng hái hoan hỉ của con tim lan tỏa một cách tự nhiên để ôm hôn tất cả các chúng sinh và vạn vật trong cuộc đời.---

--- Thiếu tự tin ngăn cản ta tiếp cận với các nguồn. Khi tôi nói về các nguồn, tôi chỉ định tất cả mọi khả năng trí tuệ, lý trí hoặc thân thể, tất cả mọi kỹ năng của chúng ta, tất cả sức lực mà chúng ta đang có trong mình, ở đâu đó trong ta mà ta không thường xuyên sử dụng chúng. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận thấy rằng các bạn có trong mình nhiều nguồn hơn các bạn tưởng đấy. ---

--- Alice cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương ở mức độ cao nhất. Anh xem cô là gì mới được chứ? Chỉ biết quan tâm đến món sô-cô-la nhuyễn thôi ư?

Cô - người vốn rất tự hào với chức danh tư vấn của mình. Cô - người vốn luôn được tôn trọng trong lĩnh  vực của mình. Cô - người đàm phán để đoạt được một hợp đồng quốc tế khủng. Cô – người hàng ngày kiến lập những lời cố vấn gây tác động ảnh hưởng đến hàng ngàn khách hàng...

- Nói lại cho em biết anh có bao nhiêu con chiên?

Anh so vai tỏ dấu hiệu bất lực.

- Chẳng thể làm được gì đâu. Một sự nghiệp bị lỡ dở, quên đi thôi.

Cô chợt cảm thấy mình như một đứa trẻ cứ ngỡ có khả năng bơi qua một cái hồ, và người ta khiến nó hiểu rằng nó bị mắc lừa hoàn toàn.

Lần cuối cùng khi có người đã dự báo trước sự thất bại dành  cho cô, là khi cô vừa bước chân vào công ty với tư cách là thực tập sinh. Cô đã dám trình bày những đề xuất cho một khách hàng trong khi cô chỉ được coi là đảm nhận viết báo cáo ở các cuộc họp. Người ta đã nhẹ nhàng chỉnh đốn cô: đề xuất của cô không trụ được, khách hàng chắc sẽ không muốn. Cô đã khăng khăng nài nỉ, tin chắc vào giá trị những ý tưởng của cô, và đã chiến đấu để có quyền được giới thiệu chúng cho khách hàng. Đề xuất đó đã không chỉ được chấm mà sự áp dụng chúng vào thực tế đã mang lại một thành công vang dội. Đợt thực tập của cô đã được chuyển thành CDI(1).

Tôi không nghĩ là em tinh thông trong các vấn đề về tinh thần đâu. Thật khó nuốt trôi...

(1). CDI: Contrat à durée indéterminnée: Hợp đồng làm việc vô thời hạn. ---

--- Espicète đã nói “Người ta sẽ hủy hoại bạn bắt đầu từ lúc bạn cho rằng người ta hủy hoại bạn”. Nhưng để phán xét một tình hình, cần phải có khả năng phóng mình vào thời tương lai để có một cái nhìn tổng thể lên toàn bộ sự kiện đang được nói tới, những hậu quả thực sự của nó, những gì mà nó dù sao cũng đã đem lại cho chúng ta, những gì mà nó đã tránh được cho chúng ta, và những gì mà chúng ta đã lĩnh hội được qua sự kiện đó... Chỉ với sự bình tâm suy nghĩ lại và chiêm nghiệm thì ta mới có thể biết được tất cả mọi điều.---

--- Nhưng sau một hồi, xuất hiện một thứ cảm giác hoàn toàn xa lạ trào dâng trong cô. Một thứ tình cảm “đã thấy”.

Những lời răn dạy huyền bí mà cô đang đọc nhắc cô nhớ đến những lời răn dạy khác cũng hoàn toàn huyền bí,những lời mà cô ép mình đọc và đọc đi đọc lại mà vẫn không sao thực sự hiểu chúng một cách tường tận, những lời nói đôi khi hoàn toàn kỳ lạ mà cô còn chế giễu chúng.

Những lời răn của chúa Jésus.

Làm sao điều ấy lại có thể chứ?  Hai người sống cách nhau sáu thế kỷ, sáu thế kỷ và hàng ngàn kilomet, vào những thời kỳ mà hiếm khi người ta đi du lịch  xa, và còn trước khi người ta phát minh ra máy in rất lâu...

Bối rối trước khám phá của mình, cô chạy đi tìm cuốn Kinh thánh Luật dân sự của mình, và đọc lại ngay từ đầu cuốn Đạo Đức Kinh để truy tìm tất cả mọi sự giống nhau.

Dần dần cô phát hiện ra, cô ghi lại và theo từng bước, sự ngạc nhiên của cô biến thành niềm hứng thú khi cô đánh giá mức độ khám phá của mình.

Thi thoảng, những lời của chúa Jésus giống như sự hưởng ứng cho lời của Lão Tử, như thể ngài trả lời nhà hiền triết:

Lão Tử: Tâm hồn ta là tâm hồn của kẻ có trí tuệ đơn giản.

Jésus: Phước thay những kẻ nghèo nàn về trí tuệ.

Ở những đoạn khác, các câu nói của hai người hoàn toàn như nhau:

Lão Tử: Khi thánh nhân đã cho đi tất cả, họ lại còn có nhiều hơn nữa.

Jésus: Hãy cho đi, các người sẽ nhận về nhiều hơn thế cả trăm lần.

Ngay cả những lời nói khó hiểu nhất, những điều khó chấp nhận nhất, thì cũng rất gần gũi với nhau:

Lão Tử: Lấy về mình những nhơ bẩn của vương quốc [...] đó chính là vua của tất cả.

Jésus: Phước thay nếu người ta phỉ nhổ dè bỉu con.

Đôi khi từ ngữ khác nhau, nhưng ý tưởng giống nhau:

Lão Tử: Thánh nhân không có ham muốn gì khác ngoài việc không ham muốn gì.

Jésus: Hãy chăm chú vào cầu nguyện, để không bị sa vào cám dỗ.

Ta tìm thấy cũng một lời kêu gọi hãy sống nhún nhường, tự hạ mình:

Lão Tử: Kẻ nào tự đặt ra chỗ sáng thì mãi mãi tăm tối. Kẻ nào thỏa mãn về mình không được đánh giá cao.

Jésus: Nếu ta tự tôn vinh bản thân mình, vinh quang của ta không đáng giá gì hết.

Lão tử: Tự đặt mình vào vị trí cuối cùng, thánh nhân ở vị trí hàng đầu [...] Kẻ  nào mạnh và lớn thì đứng trong vị trí thấp.

Jésus: Ai đó đứng lên thì sẽ bị hạ thấp xuống.

Cả hai người đều lấy làm tiếc cho khó khăn khi đưa vào vận hành những ý tưởng của mình:

Lão Tử: Những lời dạy của ta đều rất dễ hiểu, rất dễ làm theo, nhưng con người không thể hiểu chúng và không thể làm theo chúng.

Jésus: Tại sao các người cứ gọi ta là “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” nhưng lại  không thực hiện những gì ta nói?

Cả hai người đều cảnh báo về nguy cơ bị vật chất ám ảnh...

Lão Tử: Không có tai ương nào tồi tệ hơn ham muốn được sở hữu.

Jésus: Thật là khó cho những kẻ giàu có bước vào Vương quốc của Thiên chúa!

…với thi thoảng những câu ẩn dụ rất cùng họ hàng, những từ rất gần gụi với nhau:

Lão Tử: Một căn phòng đầy vàng bạc và đồ trang sức không thể giữ được. Tự cao tự hào bởi vì ta tràn đầy sự giàu có và danh dự, luôn thu hút về mình điều bất hạnh. Khi việc hữu ích được hoàn thành và khi danh vọng xuất hiện thì nên rút lui: Đó là Đạo Trời.

Jésus: Đừng ky cóp gom góp làm giàu trên trần gian, những con sâu và gỉ sét sẽ phá hủy chúng, bọn trộm cắp sẽ đột nhập và lấy đi, mà hãy gom góp những vật báu trên trời, nơi sẽ chẳng có sâu lẫn gỉ sét phá hủy, và là nơi mà bọn trộm cắp không đột nhập và lấy đi. Bởi ở đó sẽ là vật báu của các con, cũng tại đó sẽ là tâm hồn các con.

Cũng cùng một lời khuyến khích nên tìm lại một tâm hồn con trẻ:

Lão Tử: Kẻ nào chứa đựng trong mình sự vĩ đại của Đức hạnh thì giống như một đứa trẻ sơ sinh mà những loài thú độc không cắn, những loài thú dữ không ăn thịt, những loài chim săn mồi không cắp đi.

Jésus: Người nào tự biến mình khiêm nhường như một đứa trẻ nhỏ thì sẽ vĩ đại nhất trong Vương quốc các vị thần.

Họ thậm chí còn chia sẻ cùng một nhận định về cái chết:

Lão Tử: Kẻ nào chết mà không ngừng tồn tại thì đã trở thành bất tử.

Jésus: Nếu hạt lúa mạch không rơi xuống đất và không chết, nó sẽ cô độc: nhưng nếu nó chết, thì nó sẽ đem lại rất nhiều hạt mạch khác [...] Kẻ nào tìm cách cứu sống cuộc sống của mình thì hắn sẽ mất nó, và người sẽ mất đi cuộc sống của mình thì sẽ tìm lại được nó.

Tối hôm đó, Alice đi nằm mà trí tò mò bị kích thích tột độ.

Hoặc chúa Jésus đã trích rút những ý tưởng của Lão Tử, hoặc những lời răn dạy của họ, vốn đều rất rối rắm đối với cô, chứa đựng một sự thật căn bản hết sức, đến nỗi mà sự thực ấy đã trở thành phổ quát toàn cầu...

Và quả thực như vậy, cô sẵn sàng quyết tâm giải mã điều ấy. ---

--- Tôi sẽ ngộp thở… Nếu tôi chất lên mình tất cả những thứ ấy, người ta thậm chí không thể nhìn thấy tôi được.

Buổi tối, một ly rượu mận trên tay, vỏ chai đã gần rỗng ở bên cạnh, áp lực đã giảm, bà suy ngẫm về ý nghĩa của những cụm từ đã thoát ra từ miệng mình trong thời khắc nóng giận ấy.

Của cải khiến ta xa rời chính bản thân mình.

Ta càng trau chuốt hình ảnh mình thì ta càng bóp ngạt chính con người mình. ---

--- Cô cứ đi nhơn nhởn như thế qua các phòng, các tầng trong cửa hàng, như thể cô đang bay trong không gian và từ trạng thái tồn tại ấy, cô cảm thấy đang dần dần ló ra một cảm giác tự do, một sự tự do nhẹ nhàng và êm ái, một cảm giác miên man tỏa ra từ đáy ruột gan cô, giải thoát cô hoàn toàn khỏi áp lực thường nhật của vẻ bề ngoài. Cô buông thả mình để nhấm nháp cảm giác lạ lùng và mới mẻ này, thưởng thức nó, và bất ngờ cô cảm thấy mình đang sống, sống một cách thực sự. ---

--- Yêu thương, đó đã là tự yêu thương chính bản thân mình rồi. Yêu thương bản thân đem đến một sức mạnh để không bị tổn thương trước những châm chọc mà bản ngã của những người khác phóng ra, và để không cho bản ngã của chính ta khởi động đáp trả lại chúng. Yêu thương, đó là yêu thương người khác trong lúc phân biệt được bản chất con người nấp sau một bản ngã, đôi khi gây khó chịu, và khi ấy ta sẽ thấy bản ngã đó tự tan đi. Yêu thương, đó là tìm thấy sức mạnh để yêu thương cả kẻ thù của mình, và biến họ thành đồng minh. Yêu thương, đó là yêu cuộc sống dẫu có những muộn phiền và khó khăn, và khám phá rằng chúng chỉ là những công cụ cho sự buông bỏ của chúng ta, của sự trưởng thành và tỉnh  thức của chúng ta mà thôi. Tình yêu là chìa khóa cho tất cả. Là bí mật của thế giới. ---

đi như là ở lại (tái bản 2018)

Tìm cách gợi lại những bóng hình của quá khứ, là việc không phải của riêng tôi, kẻ đã thất lạc mình giữa những xa vắng lung linh, mà là nỗ lực của tất cả những ai từng sống trọn vẹn trong dung ảnh xa xưa của một thời nào đó, đến không bao giờ nhoà xoá đi, không bao giờ quên lãng. Những dòng trên đây là cách duy nhất để tìm lại quãng thời gian đã tan chảy ấp chứa trong nó một vùng đất, cuộc sống đồng quê, những mảnh đời , những kỷ niệm lạc mất, những rung cảm chân thật… Tôi cố nuôi tham vọng kiến tạo quá khứ bằng nỗi nhớ, sự dằn vặt đầy thôi thúc từ tiềm thức để kéo lại những phút giây tươi đẹp mỏng mảnh, níu lại cái tính bất định của sự vật vô thường trôi qua trong sự bất lực của kiếp nhân sinh. Không hoài công với vài trang viết, nhưng tôi thất bại vì tất cả đã thực sự trôi qua rồi, cái còn lại đây chỉ là những ảo ảnh tính linh mà tôi đã nhận diện phần nào trong đại dương sâu thẳm lượt trích từ quá khứ.

từ điển - sách công cụ chữ hán của việt nam và trung quốc

Sách sẽ điểm qua hầu như tất cả những bộ tự điển – từ điển Hán Việt đã xuất hiện ở Việt Nam từ khởi thủy cho đến hiện tại, khởi đầu từ những công trình tiên phong có trước cả hai bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (1932) và Hán Việt tự điển của Thiền Chửu (1942); rồi lần lượt giới thiệu sơ lược theo thứ tự thời gian xuất hiện sau đó hầu hết những bộ tự điển – từ điển Hán Việt tiêu biểu đã ghi nhận được, kể từ bộ Từ điển Trung Việt của Văn Tân trở đi.

Mục đích là để giúp cho người đọc có được cái nhìn tổng quan về lịch sử phát triển của tự điển – từ điển Hán Việt tại Việt Nam, đồng thời biết được trong kho tự điển – từ điển Hán Việt đã có được những công trình gì, đặc điểm ra sao, như một cách hướng dẫn để trang bị công cụ học tập, tra cứu chữ Hán khi cần.

để suy nghĩ mà không động não

Quan niệm sai lầm! Có những người nghĩ MindWeb là sự phát triển của Mind Map (Bản Đồ Tư Duy) của Tony Buzan. Câu trả lời là không! Tôi đã phát hiện ra MindWeb vào năm 1979, nhiều năm trước khi Tony Buzan giới thiệu khái niệm MindMap. Tôi đã không biết gì về Mind Map từ năm 1979.

Tôi đã phát hiện ra MindWeb một cách vô tình. Đó là do một số vấn đề mà tôi đã trải nghiệm tại nơi làm việc. Chuyện gì đã xảy ra tại thời điểm đó? Tôi sẽ giải thích khám phá của mình trong chương “Bí mật của MindWeb”.

Vào thời điểm đó, tôi không nghĩ đến việc viết khái niệm này thành sách. Vậy làm thế nào khiến tôi viết MindWeb? Tin hay không tin, mọi thứ đều tuôn ra từ tiềm thức của tôi. Tôi thường chia sẻ khái niệm này với chủ quản và cấp dưới của tôi. Đó là những thứ khiến cho khái niệm này dính trong tâm trí của tôi.

Khi tôi sắp bước sang tuổi 60, tôi chợt nhận ra: “Khi tôi qua đời, phương pháp MindWeb này sẽ hoàn toàn biến mất!”. Thượng đế sẽ gọi tôi bất cứ lúc nào. Tôi bị ám ảnh bởi những suy nghĩ của riêng mình và tôi đã bắt đầu viết những thứ tồn đọng trong trí nhớ từ lâu vào máy tính xách tay.

Trong đầu tôi tồn tại nghi ngờ rằng: “Sau 30 năm, liệu đã có người phát minh ra khái niệm kết nối theo cách MindWeb này chưa”. Tôi tìm kiếm khái niệm này trên Google nhưng không thấy khái niệm tương tự nào như MindWeb. Tôi cảm ơn Thượng Đế! Tôi đã phát hiện ra thuật ngữ MindWeb trong quá trình tìm kiếm, nhưng nó rất khác với khái niệm MindWeb liên kết của tôi. Nếu tôi đã tìm thấy những tác giả khác viết cùng một khái niệm, tôi sẽ không tiếp tục viết nữa.

Phương pháp MindWeb đã giúp tôi cải thiện sự nghiệp chuyên môn của mình, trong suốt quá trình làm việc và khi tôi về hưu. Sau khi nghỉ hưu, tôi tiếp tục nhận được lời mời làm việc ở các công ty khác nhau với những vị trí tốt. “Đã đủ lắm rồi”, tôi quyết định không làm những công việc văn phòng nữa và bắt đầu làm công việc ưa thích của mình - chia sẻ kiến thức với người khác.

Cuốn MindWeb đầu tiên được xuất bản vào năm 2012, theo sau là ấn bản tiếng Anh vào năm 2013. Cuốn sách này đã được trưng bày tại Đức ở Hội chợ sách Frankfurt, một trong những hội chợ lớn nhất thế giới vào ngày 9 tới ngày 15 tháng 10 năm 2013. Buổi trình bày MindWeb vào ngày 12 tháng 10 năm 2013, đã nhận được phản hồi tốt từ khách tham gia. Một trong những giáo sư tại một trường đại học ở Đức đã đánh giá cao khái niệm MindWeb.

Sự phát triển tư duy không nên dừng lại, và vì vậy đây là những gì tôi muốn trao đến cho bạn. Sau MindWeb, tôi viết Để Suy Nghĩ Mà Không Động Não; Phương Pháp MindWeb. Trong tác phẩm này, có rất nhiều trường hợp thực tế và lợi ích của khái niệm MindWeb để bạn có thể áp dụng cho cuộc sống và sự nghiệp cá nhân của mình, theo một cách rất đơn giản và hiệu quả.

Cuốn sách này đơn giản hơn so với tác phẩm MindWeb trước đây; nó đơn giản đến mức bạn không cần có trí tuệ cao để hiểu.

Đường lối của tôi, Phương hướng của bạn, Phương pháp MindWeb!

  Chúc bạn đọc vui vẻ…

bộ chuyện đông chuyện tây - tập 4 (tái bản 2019)

Tôi biết có rất nhiều người, hễ cầm đến số Kiến thức ngày nay mới ra (hay mới mượn được) là tìm đọc ngay mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của An Chi. Dĩ nhiên cũng có những người đọc trước tiên những mục khác, chẳng hạn như những người đang nóng lòng đọc phần tiếp theo của một truyện đăng nhiều kỳ đang đọc dở, nhưng có thể biết chắc rằng sau đó người ấy thế nào cũng tìm đọc “Chuyện Đông chuyện Tây”.

Có một lần tôi đi photocopy một bài mà tôi viết chung với An Chi. Khi nhìn thấy tên tôi đặt cạnh tên An Chi, người thợ đứng máy ngạc nhiên hỏi tôi: “Thế ra chú quen cả đến cụ An Chi?”. Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này.

An Chi (cũng là Huệ Thiên, một bút danh khác do nói lái cái tên thật Thiện Hoa mà thành) chưa phải là một cụ già. Hồi bắt đầu viết cho Kiến thức ngày nay (1990), anh chỉ mới vượt qua tuổi năm mươi. Anh vốn là học sinh trường Chasseloup-Laubat ở Sài-gòn. Khi Hiệp định Genève được ký kết, anh quyết định chọn miền Bắc, và đã kịp mua vé máy bay ra Hải Phòng trước khi chấm dứt thời hạn 300 ngày, trong tay có thư giới thiệu của Đảng ủy Đặc khu (vì anh tham gia đoàn thể học sinh kháng chiến ở Sài Gòn). Nhưng anh không thấy cần tới tờ giấy này, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân chính của những chuyện không may của anh sau này, vì thời ấy còn có những người (tuy ít ỏi) không tin rằng có thể có những thanh niên con nhà khá giả lại đi chọn miền Bắc nếu không có ý đồ đen tối nào đó. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy, Hà Nội), anh đi dạy cấp hai ở Thái Bình. Nhưng chỉ sáu năm sau, vì bị coi là có những tư tưởng lệch lạc, anh bị thải hồi, và vì hoàn toàn không nơi nương tựa, anh phải ở nhờ nhà một bác cấp dưỡng tốt bụng. Sau đó anh xin được làm hợp đồng trong Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên của tỉnh, chuyên mua than củi muối gạo cho trường, cho đến khi được Bộ Nội vụ triệu tập lên Hòa Bình học lớp chính trị của Trường 20-7 “dành cho cán bộ miền Nam vì lý do này hay lý do khác không còn trong biên chế nhà nước”. Sau đó anh trở về Hà Nội học nghề thợ nguội và thợ tiện ở Nhà máy xe đạp Thống Nhất rồi phụ trách bổ túc văn hóa tại nhà máy. Từ năm 1972, anh được chuyển đến Trường Học sinh miền Nam số 8 ở Tam Đảo (Vĩnh Phú). Đến khi miền Nam giải phóng, anh được chuyển vào Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh rồi Phòng Giáo dục Quận 1 làm nhiều công tác khác nhau, rồi đến 1984 anh xin về hưu non để dành hết thì giờ cho việc đọc sách và nghiên cứu những vấn đề mà anh đã quan tâm từ hai mươi năm trước, nghĩa là từ khi anh bị thải hồi.

An Chi bao giờ cũng nuôi một niềm tri ân chân thành và sâu xa đối với những người lãnh đạo đã thải hồi anh vì nhờ đó mà anh được bắt tay vào một việc xưa nay vẫn là ước mơ tha thiết nhất của đời anh: học, học thực sự, học để biết, để trở thành người có ích, chứ không phải để có bằng này, bằng nọ hay danh vị này, danh vị khác. Từ khi được giải phóng ra khỏi công việc giảng dạy ở nhà trường, anh dành tất cả thời gian không phải đi mua than củi hay gạo muối để lao vào học, học cho kỳ được những gì mình vẫn thèm iết mà trước kia vì phải soạn bài, chấm bài và lên lớp giảng nên chưa làm được. Thoạt tiên, anh vớ được một cuốn Thượng của bộ Từ hải và một cuốn từ điển chữ Hán dành cho học sinh của nhóm Phương Nghị. Rồi từ đó trở đi, suốt gần 30 năm anh không ngừng tìm kiếm sách vở để học thêm về các khoa học xã hội và nhân văn, dù là trong khi làm thợ nguội, đi học tập chính trị, hay chạy việc hành chính, anh đều dành hết tâm trí cho việc học. Và cũng như thói thường, càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít, cho nên anh chỉ thấy mình được sống thực sự sau khi đã về hưu non và được ngồi suốt ngày bên bàn viết, giữa mấy ngàn pho sách yêu quý mà anh đã tích lũy được trong bấy nhiêu năm.

Từ khi Ban biên tập Tạp chí Kiến thức ngày nay giao cho An Chi phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, anh đã dành khá nhiều thì giờ để trả lời cho những bạn đọc thấy cần thỏa mãn những mối băn khoăn về chữ nghĩa và tri thức nói chung. Anh thấy đây là một công việc có ích cho nhiều người, mặc dầu công việc này có làm cho anh sao nhãng ít nhiều những vấn đề mà anh chuyên tâm nghiên cứu từ lâu, nhất là những vấn đề về lịch sử tiếng Việt. Và tuy anh biết rất rõ rằng thời nay không có ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết, nhưng những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao.

Dĩ nhiên, tôi không dám nói An Chi bao giờ cũng đúng. Errare humanum est. Không phải anh bao giờ cũng tìm được cách trả lời tối ưu có thể làm hài lòng những chuyên gia khó tính. Nhưng tôi tin chắc rằng một người đọc trung bình như tôi, khi đọc xong một đoạn giải đáp của An Chi, ít nhất cũng thấy mình biết thêm được một cái gì bổ ích, và đó quả thật là một điều tối đa có thể chờ mong ở một tạp chí dành cho quần chúng rộng rãi như Kiến thức ngày nay.

Nói như vậy không có nghĩa là trong những bài trả lời ngắn gọn của An Chi không lóe lên những tia sáng của một tài năng chân chính. Những ý kiến của An Chi về gốc Hán của yếu tố “kẻ” đứng trước những địa danh mà có người tưởng là “nôm” như Kẻ Sặt, Kẻ Noi (do chữ Giới 界: xem Kiến thức ngày nay, số 229); về gốc Hán của chữ chiềng (do chữ Trình 呈?: xem Kiến thức ngày nay, số 225) mà có người cho là dùng để chỉ công xã nông thôn dưới thời Hùng Vương, việc anh cải chính những chỗ sai quan trọng của Từ điển Bách khoa Việt Nam như về quốc hiệu Đại Nam mà Từ điển Bách khoa Việt Nam nói là do Gia Long đặt (Kiến thức ngày nay, số 212); sự sai trái của cách nói “sau Công nguyên” (Kiến thức ngày nay, số 219) và rất nhiều chuyện khác nữa, được anh chứng minh và trình bày đủ sức thuyết phục để ngay các chuyên gia cũng phải tán thành.

Nhiều bài giải đáp của An Chi làm cho người đọc thấy hé mở ra những luận điểm khoa học quan trọng và thú vị, khiến họ phải lấy làm lạ mà tự hỏi tại sao nó không được anh trình bày thành những chuyên luận. Ta hãy yên tâm chờ đợi. Những người như An Chi thường rất khó tính đối với bản thân. Rồi sẽ có ngày những chuyên luận ấy đủ chín muồi để tác giả thấy có thể đem nó ra đóng góp vào nền khoa học nhân văn của đất nước. Nhưng dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức.

Cao Xuân Hạo

ngôi nhà việt

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

Chế Lan Viên

Từng đi lại, sinh sống và làm việc tại nhiều nơi, ở trong lẫn ngoài nước, kiến trúc sư - nhà nghiên cứu Việt Nam học Nguyễn Hữu Thái cũng có cùng cảm nhận như nhà thơ Chế Lan Viên về chốn ở của mình. Thông thường ta không mấy quan tâm hoặc cảm nhận về nơi ở, ngôi nhà của mình, chỉ khi rời xa nó, ta mới quay quắt nhớ về nó, như nhớ về một “tâm hồn” bạn đồng hành.

Tuy đã giảng dạy lâu năm về kiến trúc, nhưng khi được yêu cầu trình bày về ngôi nhà của thường dân người Việt, kiến trúc sư Thái thú nhận bản thân mình cũng lúng túng do chưa am hiểu thấu đáo về sự xuất hiện, tồn tại và biến chuyển của ngôi nhà. Chỉ gần đây, do yêu cầu viết một biên khảo về nếp ở của người Việt, anh mới tập trung nghiên cứu lại vấn đề một cách căn cơ hơn. Chia sẻ những ý tưởng đó với bạn bè và học trò của mình, họ đều đề nghị anh nên tập hợp các nghiên cứu về “Ngôi nhà Việt” đó trong một tập sách chuyên đề.

Nhà xuất bản chúng tôi cũng đề xuất anh hoàn chỉnh công trình nghiên cứu đó của anh và trình bày vấn đề này cho rộng rãi bạn đọc.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Ngôi nhà Việt anh vừa mới hoàn thành và mong rằng các ghi chép tản mạn này sẽ giúp bạn đọc có được một cái nhìn tổng quan về nơi ở của người Việt lẫn cái “hồn cốt” rất riêng của nó.

Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

bộ chuyện đông chuyện tây - tập 2 (tái bản 2019)

Tôi biết có rất nhiều người, hễ cầm đến số Kiến thức ngày nay mới ra (hay mới mượn được) là tìm đọc ngay mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của An Chi. Dĩ nhiên cũng có những người đọc trước tiên những mục khác, chẳng hạn như những người đang nóng lòng đọc phần tiếp theo của một truyện đăng nhiều kỳ đang đọc dở, nhưng có thể biết chắc rằng sau đó người ấy thế nào cũng tìm đọc “Chuyện Đông chuyện Tây”.

Có một lần tôi đi photocopy một bài mà tôi viết chung với An Chi. Khi nhìn thấy tên tôi đặt cạnh tên An Chi, người thợ đứng máy ngạc nhiên hỏi tôi: “Thế ra chú quen cả đến cụ An Chi?”. Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này.

An Chi (cũng là Huệ Thiên, một bút danh khác do nói lái cái tên thật Thiện Hoa mà thành) chưa phải là một cụ già. Hồi bắt đầu viết cho Kiến thức ngày nay (1990), anh chỉ mới vượt qua tuổi năm mươi. Anh vốn là học sinh trường Chasseloup-Laubat ở Sài-gòn. Khi Hiệp định Genève được ký kết, anh quyết định chọn miền Bắc, và đã kịp mua vé máy bay ra Hải Phòng trước khi chấm dứt thời hạn 300 ngày, trong tay có thư giới thiệu của Đảng ủy Đặc khu (vì anh tham gia đoàn thể học sinh kháng chiến ở Sài Gòn). Nhưng anh không thấy cần tới tờ giấy này, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân chính của những chuyện không may của anh sau này, vì thời ấy còn có những người (tuy ít ỏi) không tin rằng có thể có những thanh niên con nhà khá giả lại đi chọn miền Bắc nếu không có ý đồ đen tối nào đó. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy, Hà Nội), anh đi dạy cấp hai ở Thái Bình. Nhưng chỉ sáu năm sau, vì bị coi là có những tư tưởng lệch lạc, anh bị thải hồi, và vì hoàn toàn không nơi nương tựa, anh phải ở nhờ nhà một bác cấp dưỡng tốt bụng. Sau đó anh xin được làm hợp đồng trong Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên của tỉnh, chuyên mua than củi muối gạo cho trường, cho đến khi được Bộ Nội vụ triệu tập lên Hòa Bình học lớp chính trị của Trường 20-7 “dành cho cán bộ miền Nam vì lý do này hay lý do khác không còn trong biên chế nhà nước”. Sau đó anh trở về Hà Nội học nghề thợ nguội và thợ tiện ở Nhà máy xe đạp Thống Nhất rồi phụ trách bổ túc văn hóa tại nhà máy. Từ năm 1972, anh được chuyển đến Trường Học sinh miền Nam số 8 ở Tam Đảo (Vĩnh Phú). Đến khi miền Nam giải phóng, anh được chuyển vào Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh rồi Phòng Giáo dục Quận 1 làm nhiều công tác khác nhau, rồi đến 1984 anh xin về hưu non để dành hết thì giờ cho việc đọc sách và nghiên cứu những vấn đề mà anh đã quan tâm từ hai mươi năm trước, nghĩa là từ khi anh bị thải hồi.

An Chi bao giờ cũng nuôi một niềm tri ân chân thành và sâu xa đối với những người lãnh đạo đã thải hồi anh vì nhờ đó mà anh được bắt tay vào một việc xưa nay vẫn là ước mơ tha thiết nhất của đời anh: học, học thực sự, học để biết, để trở thành người có ích, chứ không phải để có bằng này, bằng nọ hay danh vị này, danh vị khác. Từ khi được giải phóng ra khỏi công việc giảng dạy ở nhà trường, anh dành tất cả thời gian không phải đi mua than củi hay gạo muối để lao vào học, học cho kỳ được những gì mình vẫn thèm iết mà trước kia vì phải soạn bài, chấm bài và lên lớp giảng nên chưa làm được. Thoạt tiên, anh vớ được một cuốn Thượng của bộ Từ hải và một cuốn từ điển chữ Hán dành cho học sinh của nhóm Phương Nghị. Rồi từ đó trở đi, suốt gần 30 năm anh không ngừng tìm kiếm sách vở để học thêm về các khoa học xã hội và nhân văn, dù là trong khi làm thợ nguội, đi học tập chính trị, hay chạy việc hành chính, anh đều dành hết tâm trí cho việc học. Và cũng như thói thường, càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít, cho nên anh chỉ thấy mình được sống thực sự sau khi đã về hưu non và được ngồi suốt ngày bên bàn viết, giữa mấy ngàn pho sách yêu quý mà anh đã tích lũy được trong bấy nhiêu năm.

Từ khi Ban biên tập Tạp chí Kiến thức ngày nay giao cho An Chi phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, anh đã dành khá nhiều thì giờ để trả lời cho những bạn đọc thấy cần thỏa mãn những mối băn khoăn về chữ nghĩa và tri thức nói chung. Anh thấy đây là một công việc có ích cho nhiều người, mặc dầu công việc này có làm cho anh sao nhãng ít nhiều những vấn đề mà anh chuyên tâm nghiên cứu từ lâu, nhất là những vấn đề về lịch sử tiếng Việt. Và tuy anh biết rất rõ rằng thời nay không có ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết, nhưng những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao.

Dĩ nhiên, tôi không dám nói An Chi bao giờ cũng đúng. Errare humanum est. Không phải anh bao giờ cũng tìm được cách trả lời tối ưu có thể làm hài lòng những chuyên gia khó tính. Nhưng tôi tin chắc rằng một người đọc trung bình như tôi, khi đọc xong một đoạn giải đáp của An Chi, ít nhất cũng thấy mình biết thêm được một cái gì bổ ích, và đó quả thật là một điều tối đa có thể chờ mong ở một tạp chí dành cho quần chúng rộng rãi như Kiến thức ngày nay.

Nói như vậy không có nghĩa là trong những bài trả lời ngắn gọn của An Chi không lóe lên những tia sáng của một tài năng chân chính. Những ý kiến của An Chi về gốc Hán của yếu tố “kẻ” đứng trước những địa danh mà có người tưởng là “nôm” như Kẻ Sặt, Kẻ Noi (do chữ Giới 界: xem Kiến thức ngày nay, số 229); về gốc Hán của chữ chiềng (do chữ Trình 呈?: xem Kiến thức ngày nay, số 225) mà có người cho là dùng để chỉ công xã nông thôn dưới thời Hùng Vương, việc anh cải chính những chỗ sai quan trọng của Từ điển Bách khoa Việt Nam như về quốc hiệu Đại Nam mà Từ điển Bách khoa Việt Nam nói là do Gia Long đặt (Kiến thức ngày nay, số 212); sự sai trái của cách nói “sau Công nguyên” (Kiến thức ngày nay, số 219) và rất nhiều chuyện khác nữa, được anh chứng minh và trình bày đủ sức thuyết phục để ngay các chuyên gia cũng phải tán thành.

Nhiều bài giải đáp của An Chi làm cho người đọc thấy hé mở ra những luận điểm khoa học quan trọng và thú vị, khiến họ phải lấy làm lạ mà tự hỏi tại sao nó không được anh trình bày thành những chuyên luận. Ta hãy yên tâm chờ đợi. Những người như An Chi thường rất khó tính đối với bản thân. Rồi sẽ có ngày những chuyên luận ấy đủ chín muồi để tác giả thấy có thể đem nó ra đóng góp vào nền khoa học nhân văn của đất nước. Nhưng dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức.

Cao Xuân Hạo

bộ chuyện đông chuyện tây - tập 3 (tái bản 2019)

Tôi biết có rất nhiều người, hễ cầm đến số Kiến thức ngày nay mới ra (hay mới mượn được) là tìm đọc ngay mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của An Chi. Dĩ nhiên cũng có những người đọc trước tiên những mục khác, chẳng hạn như những người đang nóng lòng đọc phần tiếp theo của một truyện đăng nhiều kỳ đang đọc dở, nhưng có thể biết chắc rằng sau đó người ấy thế nào cũng tìm đọc “Chuyện Đông chuyện Tây”.

Có một lần tôi đi photocopy một bài mà tôi viết chung với An Chi. Khi nhìn thấy tên tôi đặt cạnh tên An Chi, người thợ đứng máy ngạc nhiên hỏi tôi: “Thế ra chú quen cả đến cụ An Chi?”. Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này.

An Chi (cũng là Huệ Thiên, một bút danh khác do nói lái cái tên thật Thiện Hoa mà thành) chưa phải là một cụ già. Hồi bắt đầu viết cho Kiến thức ngày nay (1990), anh chỉ mới vượt qua tuổi năm mươi. Anh vốn là học sinh trường Chasseloup-Laubat ở Sài-gòn. Khi Hiệp định Genève được ký kết, anh quyết định chọn miền Bắc, và đã kịp mua vé máy bay ra Hải Phòng trước khi chấm dứt thời hạn 300 ngày, trong tay có thư giới thiệu của Đảng ủy Đặc khu (vì anh tham gia đoàn thể học sinh kháng chiến ở Sài Gòn). Nhưng anh không thấy cần tới tờ giấy này, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân chính của những chuyện không may của anh sau này, vì thời ấy còn có những người (tuy ít ỏi) không tin rằng có thể có những thanh niên con nhà khá giả lại đi chọn miền Bắc nếu không có ý đồ đen tối nào đó. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy, Hà Nội), anh đi dạy cấp hai ở Thái Bình. Nhưng chỉ sáu năm sau, vì bị coi là có những tư tưởng lệch lạc, anh bị thải hồi, và vì hoàn toàn không nơi nương tựa, anh phải ở nhờ nhà một bác cấp dưỡng tốt bụng. Sau đó anh xin được làm hợp đồng trong Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên của tỉnh, chuyên mua than củi muối gạo cho trường, cho đến khi được Bộ Nội vụ triệu tập lên Hòa Bình học lớp chính trị của Trường 20-7 “dành cho cán bộ miền Nam vì lý do này hay lý do khác không còn trong biên chế nhà nước”. Sau đó anh trở về Hà Nội học nghề thợ nguội và thợ tiện ở Nhà máy xe đạp Thống Nhất rồi phụ trách bổ túc văn hóa tại nhà máy. Từ năm 1972, anh được chuyển đến Trường Học sinh miền Nam số 8 ở Tam Đảo (Vĩnh Phú). Đến khi miền Nam giải phóng, anh được chuyển vào Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh rồi Phòng Giáo dục Quận 1 làm nhiều công tác khác nhau, rồi đến 1984 anh xin về hưu non để dành hết thì giờ cho việc đọc sách và nghiên cứu những vấn đề mà anh đã quan tâm từ hai mươi năm trước, nghĩa là từ khi anh bị thải hồi.

An Chi bao giờ cũng nuôi một niềm tri ân chân thành và sâu xa đối với những người lãnh đạo đã thải hồi anh vì nhờ đó mà anh được bắt tay vào một việc xưa nay vẫn là ước mơ tha thiết nhất của đời anh: học, học thực sự, học để biết, để trở thành người có ích, chứ không phải để có bằng này, bằng nọ hay danh vị này, danh vị khác. Từ khi được giải phóng ra khỏi công việc giảng dạy ở nhà trường, anh dành tất cả thời gian không phải đi mua than củi hay gạo muối để lao vào học, học cho kỳ được những gì mình vẫn thèm iết mà trước kia vì phải soạn bài, chấm bài và lên lớp giảng nên chưa làm được. Thoạt tiên, anh vớ được một cuốn Thượng của bộ Từ hải và một cuốn từ điển chữ Hán dành cho học sinh của nhóm Phương Nghị. Rồi từ đó trở đi, suốt gần 30 năm anh không ngừng tìm kiếm sách vở để học thêm về các khoa học xã hội và nhân văn, dù là trong khi làm thợ nguội, đi học tập chính trị, hay chạy việc hành chính, anh đều dành hết tâm trí cho việc học. Và cũng như thói thường, càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít, cho nên anh chỉ thấy mình được sống thực sự sau khi đã về hưu non và được ngồi suốt ngày bên bàn viết, giữa mấy ngàn pho sách yêu quý mà anh đã tích lũy được trong bấy nhiêu năm.

Từ khi Ban biên tập Tạp chí Kiến thức ngày nay giao cho An Chi phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, anh đã dành khá nhiều thì giờ để trả lời cho những bạn đọc thấy cần thỏa mãn những mối băn khoăn về chữ nghĩa và tri thức nói chung. Anh thấy đây là một công việc có ích cho nhiều người, mặc dầu công việc này có làm cho anh sao nhãng ít nhiều những vấn đề mà anh chuyên tâm nghiên cứu từ lâu, nhất là những vấn đề về lịch sử tiếng Việt. Và tuy anh biết rất rõ rằng thời nay không có ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết, nhưng những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao.

Dĩ nhiên, tôi không dám nói An Chi bao giờ cũng đúng. Errare humanum est. Không phải anh bao giờ cũng tìm được cách trả lời tối ưu có thể làm hài lòng những chuyên gia khó tính. Nhưng tôi tin chắc rằng một người đọc trung bình như tôi, khi đọc xong một đoạn giải đáp của An Chi, ít nhất cũng thấy mình biết thêm được một cái gì bổ ích, và đó quả thật là một điều tối đa có thể chờ mong ở một tạp chí dành cho quần chúng rộng rãi như Kiến thức ngày nay.

Nói như vậy không có nghĩa là trong những bài trả lời ngắn gọn của An Chi không lóe lên những tia sáng của một tài năng chân chính. Những ý kiến của An Chi về gốc Hán của yếu tố “kẻ” đứng trước những địa danh mà có người tưởng là “nôm” như Kẻ Sặt, Kẻ Noi (do chữ Giới 界: xem Kiến thức ngày nay, số 229); về gốc Hán của chữ chiềng (do chữ Trình 呈?: xem Kiến thức ngày nay, số 225) mà có người cho là dùng để chỉ công xã nông thôn dưới thời Hùng Vương, việc anh cải chính những chỗ sai quan trọng của Từ điển Bách khoa Việt Nam như về quốc hiệu Đại Nam mà Từ điển Bách khoa Việt Nam nói là do Gia Long đặt (Kiến thức ngày nay, số 212); sự sai trái của cách nói “sau Công nguyên” (Kiến thức ngày nay, số 219) và rất nhiều chuyện khác nữa, được anh chứng minh và trình bày đủ sức thuyết phục để ngay các chuyên gia cũng phải tán thành.

Nhiều bài giải đáp của An Chi làm cho người đọc thấy hé mở ra những luận điểm khoa học quan trọng và thú vị, khiến họ phải lấy làm lạ mà tự hỏi tại sao nó không được anh trình bày thành những chuyên luận. Ta hãy yên tâm chờ đợi. Những người như An Chi thường rất khó tính đối với bản thân. Rồi sẽ có ngày những chuyên luận ấy đủ chín muồi để tác giả thấy có thể đem nó ra đóng góp vào nền khoa học nhân văn của đất nước. Nhưng dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức.

Cao Xuân Hạo

việt án lần theo trang sử cũ (tái bản 2019)

Với cuốn sách các bạn đang cầm trên tay, kể ra, ban đầu tác giả cũng không dự định viết nên. Mà,có thể xem đó là một cơ duyên vậy. Số là tháng 5 năm 2015, báo Pháp luật Việt Nam của Bộ Tư pháp ra một tuần báo riêng mang tên Pháp luật 4 phương. Tình cờ và cũng hữu duyên làm sao, từ cầu nối qua nhà báo Lương Chí Công, chủ biên tuần báo này, mà tôi nhận lời đảm nhận một chuyên mục mình đề xuất mang tên “Án xưa tích lạ”, với mục đích tìm trong sử cũ, gom góp những án xưa, viết lại hầu bạn đọc, cốt sao nói xưa ngẫm nay mà thôi chứ không có gì gọi là to tát. Thế rồi, kể từ số báo đầu tiên ra ngày 11 tháng 5 năm 2015, đều đặn hàng tuần, bên cạnh công việc chính, tôi lại cặm cụi nhặt nhạnh trong sử sách nước nhà xem có những án nào hay, đặc biệt để viết. Càng tìm, càng thấy nhiều. Đâu chỉ những vụ án lâu nay ta đã quen như án Lệ Chi viên, án Thái sư Lê Văn Thịnh… Có nhiều, nhiều lắm những vụ án, những cách xử án có một không hai trong sử ta cứ dần dần hiện ra sau khi lần giở bao trang sách. Còn đó việc Bùi Cầm Hổ xử vụ án bát canh lươn; vẫn chưa mờ phai vụ án Thái tử Lê Duy Vỹ bị vu cáo mà phải chết oan ức; bài học Quốc lão Phạm Công Trứ vì vô tình ăn món chả chim đút lót mà phải thay đổi việc định tội danh cho phạm nhân… và biết bao nhiêu vụ án khác nữa kể sao cho hết.

Nay, dù chưa dám gọi là nhiều, nhưng cũng xin mạn phép mà lọc ra những bài viết trên mục “Án xưa tích lạ”, chỉnh sửa cho hợp với văn phong của một xuất bản phẩm để tạo thành cuốn sách mang tên Việt án lần theo trang sử cũ với giới hạn quãng thời gian từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX (có một số vụ án liên quan đến dạo thực dân Pháp xâm lược nửa cuối thế kỷ XIX và thời Pháp thuộc sau đó đến năm 1945, chúng tôi xin phép thuật lại trong một cuốn khác khi có điều kiện), những mong bạn đọc muốn tìm hiểu về những vụ án xưa trong sử nước nhà mà chưa có điều kiện tra cứu sách vở, thì có thể tìm thấy ở đây đôi điều mình muốn. Hoặc giả sử có bạn đọc yêu báo Pháp luật 4 phương, muốn lưu giữ một ấn tượng, kỷ niệm về báo, thì cũng tìm thấy được một mảnh nhỏ từ sách này.

Đọc qua Việt án lần theo trang sử cũ, độc giả có thể cảm được rằng, không phải vụ án nào cũng được xét xử dựa theo luật pháp, mà ngoài ra, tính công bình của những Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ… còn phụ thuộc vào tài năng, cách xử lý của người nắm giữ cán cân pháp luật. Lại cũng qua đây, nhiều vụ án được khám phá thông qua những cách thức phá án hết sức sáng tạo, tài tình của quan xử án, chứng tỏ cha ông ta xưa kia khi phương tiện điều tra, xét hỏi còn hạn chế, đã rất linh hoạt vận dụng tài tình nhiều cách phá án, xử án khác nhau. Mục đích cuối cùng, đa phần những mong pháp  luật được thực thi, xử đúng người, đúng tội, và cũng để đảm bảo tính nhân văn của luật pháp nước Việt.

Dĩ nhiên, bên cạnh những điểm sáng, vẫn còn đó những góc tối của một số vụ án bị cong vênh bởi việc tham ô, nhũng nhiễu, bởi sự cảm tính của người đại diện cho cán cân pháp luật, bởi mục đích đen tối của những cá nhân, tập thể vì mưu đồ chính trị… Và qua đây, ta thấy không thiếu những vụ án oan khiên được tạo nên bởi quyền lực mà đẩy người ta vào vòng lao lý, thậm chí là phải lụy thân.

Qua các vụ án, chúng ta thấy người bị tội có nhiều thành phần khác nhau, từ dân đen cho đến đội ngũ quan viên, thậm chí là hoàng thân quốc thích của vua chúa. Cũng xin lưu ý thêm với bạn đọc rằng có những vụ án, tính xác thực còn chưa được minh định rõ ràng, tỉ như vụ án vua Lê Thánh Tông nhờ Quận Gió mà phát hiện quan tham ô, hoặc có vụ án không ghi rõ tên tuổi nhân vật như vụ án ở Từ Sơn… chúng tôi vẫn mạn phép chép ra đây, để bạn đọc biết thêm vậy.

Với các vụ án được trình bày trong sách này, chúng tôi cũng chỉ là làm công việc góp nhặt những ghi chép của tiền nhân mà tạm hợp thành những vụ án cho bạn đọc dễ theo dõi, chứ chưa dám đặt mục đích gì cao siêu như phân tích hay đánh giá. Chỉ ở một đôi chỗ, có chăng là mạo muội bàn thêm như về thân thế quan họ Phan thời Lê Trung hưng trong vụ án mất trộm trứng gà, hay về sự thực vụ án của vị quan Trịnh Đường thời Nguyễn, góp nhặt tư liệu mà hình thành sơ thảo ban đầu về Tri phủ Nguyễn Bá Thịnh thời Nguyễn cùng vụ án liên quan… Bấy nhiêu, đã thấy mình bạo gan quá lắm.

Những vụ án được sắp xếp theo tiến trình thời gian để bạn đọc dễ theo dõi. Ở đây, cũng xin lưu ý bạn đọc rằng một số vụ án đã nhiều người biết tới như vụ Lệ Chi viên, vụ Thái sư Lê Văn Thịnh… sách vở, báo chí viết đã nhiều, nên tác giả không

đưa vào khi chưa có được sự tìm hiểu, kiến giải mới. Và hẳn còn nhiều vụ án nữa đã từng được ghi lại mà với thời gian và tầm kiến thức hạn hẹp, chúng tôi chưa tìm hiểu cho hết được.

Lại thêm một điều nữa, là để bạn đọc tiện đối chiếu khi cần, nên phần tài liệu tham khảo ở từng bài viết dành cho từng vụ án cụ thể, chúng tôi ghi rõ nguồn tham khảo với tên tác giả, hoặc người dịch, tên tác phẩm, đơn vị xuất bản, năm xuất bản cũng như số trang. Có thể cùng một tài liệu như Đại Việt sử ký toàn thư, hay Đại Việt thông sử, Vũ trung tùy bút… lại có nhiều bản dịch, nhiều đơn vị xuất bản, thời điểm xuất bản khác nhau. Mà trong quá trình viết bài, thì vì thư viện gia đình có nhiều bản in khác nhau, nên tiện lấy bản nào tham khảo cho bài viết thì dùng, chứ lòng không nghĩ xa đến việc tập hợp thành sách như bây giờ. Thành thử nay lại là điều bất tiện. Bởi vậy, bài viết tham khảo bản in nào chúng tôi ghi rõ để bạn đọc khỏi lầm nếu muốn tìm hiểu, đối chiếu.

Dẫu có cố gắng chăm chút câu chữ, gạn lọc tư liệu đi chăng nữa, nhưng vẫn biết rằng, trí tuệ, khả năng của cá nhân là hữu hạn. Có thể vẫn còn những thiếu sót mà trong quá trình viết, tác giả chưa phát hiện ra, hay thiếu tư liệu mà tác giả chưa có dịp bổ túc. Bản thân xin được nhận trước sự hạn chế chủ quan này với độc giả với tinh thần cầu thị chân thành.

  Dù biết có nói bao nhiêu, câu chữ cũng không thể gửi gắm hết được những điều gan ruột tới quý độc giả. Thôi thì cũng xin có đôi lời thưa trước vậy với quý độc giả!

Sài Gòn, ngày 08 tháng 7 năm 2018

Tác giả

bộ sài gòn đất lành chim đậu 02 (tái bản 2019)

So với nhiều thành phố lớn khác ở trong và ngoài nước có lịch sử hàng ngàn năm thì Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đô thị trẻ, nhưng nhờ có vị thế quan trọng nên sớm trở thành điểm giao thoa của nhiều nền văn hoá trên thế giới từ Đông sang Tây, với dấu ấn để lại sâu đậm trong những công trình văn học nghệ thuật, ngôn ngữ, tôn giáo, kiến trúc, phong tục tập quán trong đời sống xã hội thường nhật. Tất nhiên, con số hơn 300 năm chỉ là chỉ dấu về mặt hành chính, còn tầng tầng văn hoá dưới lòng đất vẫn là những bí ẩn có sức quyến rũ không chỉ đối với những nhà khảo cổ học mà cho cả những cây bút giàu sức liên tưởng sáng tạo nên những tác phẩm có tầm vóc cho thành phố này.

Trong tập 1 của Sài Gòn đất lành chim đậu, tôi đã tái hiện một phần chân dung các nhân vật tiêu biểu như bác sĩ anh hùng Phạm Ngọc Thạch, danh tướng Trần Văn Trà, nhà văn hoá Sơn Nam, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, học giả An Chi, thi sĩ Kiên Giang, hoạ sĩ Choé, nhà văn Nguyên Hùng, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Mỹ Chi, doanh nhân Lâm Xuân Thi,… và được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ở tập II này tôi tiếp tục giới thiệu đến bạn đọc chân dung 12 nhân vật tiêu biểu khác trên nhiều lĩnh vực: nhà cách mạng, nhà sử học Trần Văn Giàu, “vua” vũ khí Trần Đại Nghĩa, bác sĩ anh hùng Nguyễn Văn Hưởng, “vua” dược liệu học Đỗ Tất Lợi, nhà vật lý Nguyễn Chung Tú, nhà soạn nhạc Nguyễn Văn Thương, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ, nhà giáo nghiên cứu văn hoá Nguyễn Khuê, hoạ sĩ Nguyễn Thị Tâm và các danh tướng Hoàng Cầm, Nam Long, Hoàng Thế Thiện.

Mỗi nhân vật có cuộc đời và sự nghiệp khác nhau đã cống hiến xứng đáng, hết mình cho nhân dân, đất nước và lý tưởng mà họ theo đuổi.

Tôi cũng mong đón nhận sự góp ý chân tình về những thiếu sót để các tập sách được hoàn thiện hơn khi có dịp tái bản.

PHAN HOÀNG

anh ngữ thiền học (tái bản 2019)

Trong  thế giới công nghệ thông tin hiện nay, mặc dù khoảng cách không gian thu hẹp lại, con người vẫn xa cách.

Liên kết với nhau siêu nhanh trong một giây, bằng một tin nhắn không có nghĩa là sự thấu hiểu trở nên sâu xa hơn, mà đỉnh cao của sự cảm nhận chỉ có thể đạt được, khi con người và thế giới xung quanh không có sự phân biệt, chia cắt, như lời Đức Phật Thích Ca đã dạy, “The conscious of Zen is only achieved when your mind is free from the assumption that the distinct between oneself and other things is real.”

Đây không đơn thuần là quyển sách dạy tiếng Anh, mà qua công cụ ấy chúng ta nghiền ngẫm những bài học về Zen. Sự thú vị không chỉ diễn ra trong ý tưởng, mà có lẽ người đọc sẽ ngạc nhiên thấy mình có thể hiểu những điều vừa đơn giản vừa sâu xa qua một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình. Đỉnh cao của tiếng Anh như một nhu cầu giao tiếp quốc tế hiện nay nằm ở chỗ đó, nghĩa là không phải để phân biệt con người qua ngôn ngữ hay văn hóa, mà làm mờ nhạt ranh giới để giúp chúng ta hiểu mình hơn, hiểu nhau hơn.

Quyển sách này mang tên English in the Way of Zen, ý muốn nói rằng chúng ta không chỉ học tiếng Anh để biết ngôn ngữ, mà qua đó để rèn luyện tâm tính, học sống Thiền (the Zen way of life). Thông qua những câu chuyện và giai thoại Thiền trong sách này, bạn có thể dùng nó để nghiền ngẫm những điều đơn giản trong cuộc sống mà lâu nay ta quên nghĩ đến. Nếu bạn làm được điều đó một cách đơn giản, bằng tiếng Anh, với chính mình hoặc trò chuyện với một người bạn, thì đó là thành công của người biên soạn sách.

Quyển Anh ngữ Thiền học (English in the Way of Zen) được biên soạn dựa trên quyển Zen Flesh, Zen Bones: A Collection of Zen and Pre-Zen Writings (Paul Reps & Nyogen Senzaki), One Hand Clapping - Zen Stories For All Ages (Rafe Martin & Manuela Soares) và Zen Speaks- Shouts of Nothingness (Tsai Chih Chung).

Sách được chia làm hai phần: Zen Dialogues (Thiền thoại) và Zen Anecdotes (Giai thoại Thiền). Nhằm giúp người học dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ, những cấu trúc câu phức tạp được đơn giản hóa, và từ vựng khó được thay thế bằng từ vựng đơn giản hơn. Người học có thể đọc một đoạn Thiền thoại, tham khảo phần từ vựng, tự mình dịch sang tiếng Việt và đối chiếu với phần dịch tham khảo.

Tiếng Anh suy cho cùng chỉ là công cụ, và nội dung truyền đạt chính xác và dễ hiểu mới là điều quan trọng. Cuốn sách này mong đóng góp một phần nhỏ vào việc giảng dạy và học tập Anh ngữ Phật học hiện nay.

NGUYỄN MẠNH THẢO

Thạc sĩ - Giảng viên Anh ngữ

màu sắc theo phong thuỷ đông tây

Năm tôi 16 tuổi, tại một buổi hội thảo về những ngành thiết kế ở Toronto, một diễn giả nữ đồng thời cũng là một nhà thiết kế xe hơi đã kêu chúng tôi nhắm mắt lại; sau 20 giây im lặng, cô ấy đã yêu cầu chúng tôi mở mắt ra và nói cho cô ta biết chúng tôi đã thấy được những gì? Ai cũng háo hức giơ tay đoán già đoán non, nhưng cuối cùng, những đứa thiếu niên với những ước mơ và hoài bão trở thành một nhà thiết kế trong tương lai đã đồng loạt thất bại khi cô ấy nói rằng “Các em hãy nhìn ra cửa sổ, các em có thấy những tòa nhà trọc trời, có thấy mẹ thiên nhiên và những màu sắc của động thực vật, các em có thấy bên trong tòa nhà này có những chiếc bàn cái ghế, ánh đèn và không gian, các em có thấy những bộ trang phục và phụ kiện mình khoác lên người không? Đó là thế giới của những bàn tay thiết kế, của những kẻ sáng tạo, thực tế lẫn xa hoa. Ai cũng biết ơn bác sĩ kỹ sư, biết rơi lệ với các tác phẩm phim ảnh và trầm trồ trước những bức tranh của những họa sĩ; có mấy ai biết cảm ơn những bàn tay nghệ nhân đằng sau cái ly chiếc gối. Ngành mỹ thuật đã hiếm được đề cao trong xã hội, ngành mỹ thuật thực dụng càng hiếm hơn.” Năm tôi 16 tuổi, tôi đã bị chấn động bởi lời nói đó, và cuối cùng tôi cũng mon men rẽ hướng cuộc đời mình sang cái công việc sáng tạo bằng tay chân và nước bọt này.

Năm 27 tuổi tôi đã gặp một thầy phong thủy nổi tiếng tại Sài Gòn, ông ta cho tôi biết lá số của tôi mang thiên mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, sao Cự Môn chủ mệnh, hợp làm công việc tay chân sáng tạo cho thẩm mỹ lẫn mang nghiệp nói nhiều mà tha hương cầu thực. Tôi lại nhớ đến lá số tử vi phương Tây của bà sư tỷ phù thủy đồng môn chấm vào năm tôi 18 tuổi cũng đề cập những điều tương tự. Tôi rất muốn biết liệu trong vũ trụ này, trong cái thế giới nhân sinh quan của tôi, những yếu tố khoa học tâm linh và cuộc sống thực tế vốn có những tương quan gì? Sau bao năm trăn trở, tôi muốn chia sẻ với các bạn góc nhìn về thời trang, phong thủy, và Cung Hoàng Đạo của một đứa con ở giữa hai nền văn hóa Đông Tây, mong các bạn đọc nó trong hân hoan với một tư duy cởi mở.

Phong và thủy, gió và nước; hai thứ luôn di chuyển để tạo ra chân khí lưu thông vì nếu chúng bị tù đọng sẽ dẫn tới sự cản trở của năng lượng xấu. Các bạn có thể hình dung ra vòng tuần hoàn của nước trong môi trường từ mây thành mưa, thành sông ngòi rồi đổ về biển cả. Nếu như nước bị tù thì nó sẽ tích tụ sự ô uế đúng không? Cũng giống như chúng ta ở trong một căn nhà thông thoáng với những làn gió nhẹ và ánh dương ấm áp sẽ luôn khiến mình sảng khoái hơn; chúng ta sẽ ra sao nếu ở trong một căn phòng không thoáng khí? Con người vốn là một phần tử trong môi trường tự nhiên của vũ trụ, dĩ nhiên chúng ta cũng phải chịu sự ảnh hưởng của vũ trụ vì bản thân chúng ta cũng là một tiểu vũ trụ thu nhỏ có sự lưu thông của hơi thở và máu huyết. Phong thủy theo khía cạnh dễ hiểu nhất là sự lưu thông và là vòng tuần hoàn của khí: khí trời, khí đất, và nhân khí.

Người phương Đông có hư vô, lưỡng nghi âm dương, tứ tượng ngũ hành; phù thủy phương Tây cũng có ngũ hành theo hình tượng ngôi sao biểu trưng cho con người với phần đầu và tứ chi mang ý nghĩa “đất, lửa, gió, nước, và linh hồn”. Khoa học hiện đại cũng có đề cập đến Định Luật Bảo Toàn Năng Lượng – năng lượng vốn dĩ không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi; năng lượng chỉ chuyển giao hoặc thay đổi từ dạng này sang dạng khác hoặc truyền từ vật này sang vật khác. Năng lượng cũng như là một khía cạnh khác của khí lực; từ Đông sang Tây, cổ đại cho tới hiện đại, con người trong vũ trụ này không thoát khỏi sự tuần hoàn khí lực của thiên, địa, và nhân. Bởi vậy, tôi cho rằng khi có đủ sự hội tụ của thiên thời, địa lợi, nhân hòa, đó là lúc thời cơ đến, lúc này là lúc chúng ta nên biết mà nắm lấy.

bộ chuyện đông chuyện tây - tập 1 (tái bản 2019)

Tôi biết có rất nhiều người, hễ cầm đến số Kiến thức ngày nay mới ra (hay mới mượn được) là tìm đọc ngay mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của An Chi. Dĩ nhiên cũng có những người đọc trước tiên những mục khác, chẳng hạn như những người đang nóng lòng đọc phần tiếp theo của một truyện đăng nhiều kỳ đang đọc dở, nhưng có thể biết chắc rằng sau đó người ấy thế nào cũng tìm đọc “Chuyện Đông chuyện Tây”.

Có một lần tôi đi photocopy một bài mà tôi viết chung với An Chi. Khi nhìn thấy tên tôi đặt cạnh tên An Chi, người thợ đứng máy ngạc nhiên hỏi tôi: “Thế ra chú quen cả đến cụ An Chi?”. Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này.

An Chi (cũng là Huệ Thiên, một bút danh khác do nói lái cái tên thật Thiện Hoa mà thành) chưa phải là một cụ già. Hồi bắt đầu viết cho Kiến thức ngày nay (1990), anh chỉ mới vượt qua tuổi năm mươi. Anh vốn là học sinh trường Chasseloup-Laubat ở Sài-gòn. Khi Hiệp định Genève được ký kết, anh quyết định chọn miền Bắc, và đã kịp mua vé máy bay ra Hải Phòng trước khi chấm dứt thời hạn 300 ngày, trong tay có thư giới thiệu của Đảng ủy Đặc khu (vì anh tham gia đoàn thể học sinh kháng chiến ở Sài Gòn). Nhưng anh không thấy cần tới tờ giấy này, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân chính của những chuyện không may của anh sau này, vì thời ấy còn có những người (tuy ít ỏi) không tin rằng có thể có những thanh niên con nhà khá giả lại đi chọn miền Bắc nếu không có ý đồ đen tối nào đó. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy, Hà Nội), anh đi dạy cấp hai ở Thái Bình. Nhưng chỉ sáu năm sau, vì bị coi là có những tư tưởng lệch lạc, anh bị thải hồi, và vì hoàn toàn không nơi nương tựa, anh phải ở nhờ nhà một bác cấp dưỡng tốt bụng. Sau đó anh xin được làm hợp đồng trong Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên của tỉnh, chuyên mua than củi muối gạo cho trường, cho đến khi được Bộ Nội vụ triệu tập lên Hòa Bình học lớp chính trị của Trường 20-7 “dành cho cán bộ miền Nam vì lý do này hay lý do khác không còn trong biên chế nhà nước”. Sau đó anh trở về Hà Nội học nghề thợ nguội và thợ tiện ở Nhà máy xe đạp Thống Nhất rồi phụ trách bổ túc văn hóa tại nhà máy. Từ năm 1972, anh được chuyển đến Trường Học sinh miền Nam số 8 ở Tam Đảo (Vĩnh Phú). Đến khi miền Nam giải phóng, anh được chuyển vào Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh rồi Phòng Giáo dục Quận 1 làm nhiều công tác khác nhau, rồi đến 1984 anh xin về hưu non để dành hết thì giờ cho việc đọc sách và nghiên cứu những vấn đề mà anh đã quan tâm từ hai mươi năm trước, nghĩa là từ khi anh bị thải hồi.

An Chi bao giờ cũng nuôi một niềm tri ân chân thành và sâu xa đối với những người lãnh đạo đã thải hồi anh vì nhờ đó mà anh được bắt tay vào một việc xưa nay vẫn là ước mơ tha thiết nhất của đời anh: học, học thực sự, học để biết, để trở thành người có ích, chứ không phải để có bằng này, bằng nọ hay danh vị này, danh vị khác. Từ khi được giải phóng ra khỏi công việc giảng dạy ở nhà trường, anh dành tất cả thời gian không phải đi mua than củi hay gạo muối để lao vào học, học cho kỳ được những gì mình vẫn thèm iết mà trước kia vì phải soạn bài, chấm bài và lên lớp giảng nên chưa làm được. Thoạt tiên, anh vớ được một cuốn Thượng của bộ Từ hải và một cuốn từ điển chữ Hán dành cho học sinh của nhóm Phương Nghị. Rồi từ đó trở đi, suốt gần 30 năm anh không ngừng tìm kiếm sách vở để học thêm về các khoa học xã hội và nhân văn, dù là trong khi làm thợ nguội, đi học tập chính trị, hay chạy việc hành chính, anh đều dành hết tâm trí cho việc học. Và cũng như thói thường, càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít, cho nên anh chỉ thấy mình được sống thực sự sau khi đã về hưu non và được ngồi suốt ngày bên bàn viết, giữa mấy ngàn pho sách yêu quý mà anh đã tích lũy được trong bấy nhiêu năm.

Từ khi Ban biên tập Tạp chí Kiến thức ngày nay giao cho An Chi phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, anh đã dành khá nhiều thì giờ để trả lời cho những bạn đọc thấy cần thỏa mãn những mối băn khoăn về chữ nghĩa và tri thức nói chung. Anh thấy đây là một công việc có ích cho nhiều người, mặc dầu công việc này có làm cho anh sao nhãng ít nhiều những vấn đề mà anh chuyên tâm nghiên cứu từ lâu, nhất là những vấn đề về lịch sử tiếng Việt. Và tuy anh biết rất rõ rằng thời nay không có ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết, nhưng những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao.

Dĩ nhiên, tôi không dám nói An Chi bao giờ cũng đúng. Errare humanum est. Không phải anh bao giờ cũng tìm được cách trả lời tối ưu có thể làm hài lòng những chuyên gia khó tính. Nhưng tôi tin chắc rằng một người đọc trung bình như tôi, khi đọc xong một đoạn giải đáp của An Chi, ít nhất cũng thấy mình biết thêm được một cái gì bổ ích, và đó quả thật là một điều tối đa có thể chờ mong ở một tạp chí dành cho quần chúng rộng rãi như Kiến thức ngày nay.

Nói như vậy không có nghĩa là trong những bài trả lời ngắn gọn của An Chi không lóe lên những tia sáng của một tài năng chân chính. Những ý kiến của An Chi về gốc Hán của yếu tố “kẻ” đứng trước những địa danh mà có người tưởng là “nôm” như Kẻ Sặt, Kẻ Noi (do chữ Giới 界: xem Kiến thức ngày nay, số 229); về gốc Hán của chữ chiềng (do chữ Trình 呈?: xem Kiến thức ngày nay, số 225) mà có người cho là dùng để chỉ công xã nông thôn dưới thời Hùng Vương, việc anh cải chính những chỗ sai quan trọng của Từ điển Bách khoa Việt Nam như về quốc hiệu Đại Nam mà Từ điển Bách khoa Việt Nam nói là do Gia Long đặt (Kiến thức ngày nay, số 212); sự sai trái của cách nói “sau Công nguyên” (Kiến thức ngày nay, số 219) và rất nhiều chuyện khác nữa, được anh chứng minh và trình bày đủ sức thuyết phục để ngay các chuyên gia cũng phải tán thành.

Nhiều bài giải đáp của An Chi làm cho người đọc thấy hé mở ra những luận điểm khoa học quan trọng và thú vị, khiến họ phải lấy làm lạ mà tự hỏi tại sao nó không được anh trình bày thành những chuyên luận. Ta hãy yên tâm chờ đợi. Những người như An Chi thường rất khó tính đối với bản thân. Rồi sẽ có ngày những chuyên luận ấy đủ chín muồi để tác giả thấy có thể đem nó ra đóng góp vào nền khoa học nhân văn của đất nước. Nhưng dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức.

Cao Xuân Hạo

bộ sài gòn đất lành chim đậu - tập 1 (tái bản 2019)

Từ thuở nhỏ hai tiếng Sài Gòn đã cuốn hút tôi lạ lùng. Thi thoảng tôi được nghe mẹ kể ông kia bà nọ đã từng đi Sài Gòn, vào tham quan dinh Thống Nhất ngồi ghế tổng thống, chơi ở công viên Tao Đàn, coi thú nhảy múa trong Thảo Cầm Viên, dạo chợ Bến Thành, ăn kem Bạch Đằng, uống cà phê hồ Con Rùa, xem cải lương rạp Trần Hưng Đạo, lên tận Chợ Lớn mua hàng,… Tôi tưởng tượng Sài Gòn như vùng đất chỉ có trong những câu chuyện cổ tích và luôn mơ ước sẽ vào đó coi cho biết. Chẳng những tôi mà dường như bất cứ đứa trẻ nào ở xứ sở nắng lửa mưa dầu gió cát miền Trung quê tôi cũng đều ước mơ được một lần vào tận Sài Gòn. Sau này lớn lên tôi còn được biết có những người nông dân suốt đời quanh quẩn ruộng đồng sau luỹ tre làng, ước mong một ngày thấy được thị xã hay thành phố, hai tiếng Sài Gòn đối với họ như thiên đường mà cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về đất mẹ vĩnh hằng thì Sài Gòn vẫn chỉ là niềm mơ ước. Và đâu chỉ người miền Trung mà tôi tin bất cứ người Việt Nam nào ở trong và ngoài nước, tất nhiên ngoại trừ những người sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, đều mong muốn một lần đến với thành phố từng được mệnh danh Hòn Ngọc Viễn Đông.

Dẫu biết đất nước ta ở đâu cũng đẹp, cũng thiêng liêng, cũng quyến rũ, nhưng Sài Gòn mang vẻ đẹp riêng, có sức sống riêng, sức hấp dẫn riêng của một không gian địa lý, văn hoá và lịch sử độc đáo mà không nơi nào có được. Nhiều người đã dày công nghiên cứu, đưa ra những kiến giải khác nhau về sự ưu việt của vùng đất và con người trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển từ Sài Gòn đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, những nghiên cứu, biên khảo, trước tác ấy chưa phải đã hoàn toàn thấu đáo, đặc biệt đâu là sức hấp dẫn thực sự khác biệt của thành phố này so với những nơi khác, để rồi từ đây xuất hiện nhiều sự kiện trọng đại và nhiều nhân vật mang tính tiên phong, có tầm ảnh hưởng, đóng góp những giá trị khác nhau cho sự nghiệp cứu nước và xây dựng đất nước. Trong số những kiến giải về Sài Gòn, tôi thích góc nhìn của nhà Nam Bộ học Sơn Nam khi ông nhận định một cách giản dị mà sâu sắc: “Người Sài Gòn nào phải tự trên trời rơi xuống, thình lình! Đất Sài Gòn hơn 300 năm trước nào phải bỗng dưng trở thành xương thịt của Tổ quốc Việt Nam. Theo tôi, Sài Gòn là vùng đồng bằng mang đậm nét đặc trưng về địa lý, về lịch sử; là một cảng biển, cảng sông, cảng đường bộ, là không cảng với vị trí đặc thù ở Đông Nam châu Á. Đây là nơi nhạy cảm, đón nhận các vùng văn hoá Đông - Tây, đặc biệt là sớm tiếp cận với vùng Đông Nam châu Á (mà nay ta gọi là khối ASEAN), tiếp cận từ hơn 300 năm. Vùng đất thuận lợi để giao thương về kinh tế thương mãi, đem lợi ích cho nhiều nước trong vùng và cho thế giới. Sống ở cảng biển, với dịch vụ, người Việt phải sớm hoà nhập cho bằng được. Những nét đặc trưng của người Việt được dịp phát triển, phơi bày rõ nét ở Sài Gòn hơn địa phương khác. Hiếu khách, luôn luôn lạc quan, yêu lao động, yêu Tổ quốc, chống ngoại xâm là điều mà dân tộc nào cũng có. Nhưng ở Sài Gòn, những nét nói trên được tập trung đến cao độ, khi gặp thử thách gay gắt. Bọn xâm lược đã lầm to khi nhìn thấy dân Sài Gòn thích cái lạ đưa từ nước ngoài vào, sớm mặc đầm, vui chơi suốt đêm, nhưng họ đâu ngờ rằng Sài Gòn còn mặt chìm, còn lượn sóng ngầm từ cả nước tập trung về” (Lời giới thiệu bộ sách Phỏng vấn Người Sài Gòn nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 1698 - 1998).

Có những thời điểm, sự kiện quan trọng mang tính bước ngoặt, cả nước đã hướng về Sài Gòn và Sài Gòn trở thành biểu tượng sức mạnh của cả nước, mà trong lịch sử hiện đại thì Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940, Nam Bộ kháng chiến năm 1945 cho đến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 hoặc công cuộc Đổi mới chính thức bắt đầu năm 1986 sau này là những minh chứng xác thực. Và “lượn sóng ngầm” mà nhà văn Sơn Nam nói chính là tinh hoa, tài năng, trí tuệ, ý chí, nghị lực, sức mạnh tinh thần lẫn vật chất thể hiện qua những con người cụ thể từ khắp cả nước hội tụ về trong hoàn cảnh và điều kiện tốt của thành phố này để góp phần làm nên chiến công, dựng nên thành tựu, tạo nên hào khí Sài Gòn.

Trong chiến tranh cứu nước, Sài Gòn là đất dữ. Trong hoà bình xây dựng, Sài Gòn là đất lành. Và bất kỳ trong hoàn cảnh nào mảnh đất này cũng gắn liền với những nhân cách và tài năng đáng kính, đáng quý. Chưa kể những nhân vật như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt, Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức,… từ thời khẩn hoang, bình định lập làng lập ấp, chỉ riêng từ đầu thế kỷ XX về sau, rất nhiều con người tài năng đã được sinh trưởng hoặc hội tụ về Sài Gòn, mà sự nghiệp của họ đã và đang để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực khác nhau của thành phố. Với nghiệp cầm bút, tôi may mắn đã gặp, trò chuyện với nhiều nhân vật của Sài Gòn và họ đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu đậm gắn liền với vùng đất lành này. Một danh tướng Trần Văn Trà văn võ song toàn. Một giáo sư sử học, triết học Trần Văn Giàu từng là nhà lãnh đạo cách mạng tiền phong và quyết đoán. Một “ông vua vũ khí” Trần Đại Nghĩa bác học xuất chúng. Một nhà cách mạng lão thành Hà Huy Giáp giản dị mà uyên thâm. Một bậc thầy Cao Xuân Hạo gây chấn động giới ngữ học quốc tế. Một “hùm xám” Tô Ký dũng cảm và nghĩa hiệp của Mười tám thôn Vườn trầu. Một bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng song hành với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch minh triết và giàu lòng nhân ái. Một nhà điêu khắc Diệp Minh Châu tài hoa, đào hoa và có nguồn cảm hứng vô tận về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Một danh tướng Hoàng Cầm gắn liền với những trận đánh lớn. Một nhà văn hoá Sơn Nam say đắm lưu giữ “bụi vàng” ký ức Nam Bộ. Một giáo sư Hoàng Như Mai nghệ sĩ, cuốn hút. Một thuỷ tướng Đồng Văn Cống tung hoành miền sông rạch. Một nghệ sĩ Võ Anh Ninh dày công chép sử bằng nhiếp ảnh. Một vị tướng đa năng Trần Văn Danh giỏi chỉ huy tình báo, đánh trận và cả trong xây dựng kinh tế. Một nhà văn Nguyễn Quang Sáng ham chơi và bất ngờ như mùa gió chướng. Một võ sư Minh Cảnh từng “vô đối” ở Đông Dương. Một thi sĩ - soạn giả Kiên Giang lãng tử và đa tình. Một chiến tướng mê viết văn Bùi Cát Vũ lớn lên trong gió bụi Sài Gòn. Một nhạc sĩ Lê Thương lãng mạn và bi tráng với ba bản Hòn vọng phu. Một nhà văn Lý Văn Sâm nghĩa khí và mê mải chuyện đường rừng. Một vị tướng Phan Khắc Hy luôn ám ảnh nỗi đau của nữ chiến sĩ Trường Sơn. Một Dã Lan ngược xuôi tiên phong nghiên cứu gia phả học. Một học giả An Chi thầm lặng mà bất ngờ và uyên bác. Một hoạ sĩ Choé độc đáo với những bức tranh biếm hí hoạ hàng đầu thế giới. Rồi những Phùng Há, Viễn Châu, Út Trà Ôn làm dậy sóng nghệ thuật tài tử vọng cổ, cải lương Nam Bộ. Và nhiều con người tài năng khác trên nhiều lĩnh vực, càng về sau càng đông đảo như Chim Trắng, Lê Văn Thảo, Văn Lê, Trần Văn Tuấn, Phạm Sỹ Sáu, Triệu Từ Truyền, Bùi Chí Vinh, Lâm Xuân Thi, Nguyễn Tài My, Hoàng Quốc Tuấn, Vũ Việt Dũng, Mỹ Chi, Thanh Thanh Tâm, Thoại Mỹ,… Tất nhiên còn nhiều tài năng đáng trân trọng khác mà tôi đã hoặc chưa được gặp. Môi trường tốt của đất lành đã tạo nên những con người hào phóng, nghĩa tình đã tận tâm, tận lực, tận tuỵ và thầm lặng góp phần làm nên diện mạo không gian văn hoá riêng đáng tự hào cho Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Bằng sự cuốn hút của hai tiếng Sài Gòn từ thuở ấu thơ và bằng tình yêu đối với thành phố mà bản thân được học tập, sinh sống, làm việc từ năm chưa tròn hai mươi tuổi, tôi lần lượt ghi chép lại những hiểu biết của mình qua cuộc đời và sự nghiệp những nhân vật cụ thể trong bộ sách nhiều tập Sài Gòn đất lành chim đậu, với ước muốn tri ân vùng đất đã cưu mang mình và cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích có thể. Tôi xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo động lực cho tôi hoàn thành và được xuất bản bộ sách. Trong quá trình biên soạn không thể nào tránh được sai sót, nhất là đối với những nhân vật lịch sử quan trọng, tôi cũng mong đón nhận sự chia sẻ, góp ý chân thành của những người liên quan và bạn đọc tri âm.

    PHAN HOÀNG

mưa ngâu tháng bảy (tái bản 2019)

Mưa Ngâu Tháng Bảy (Tái Bản 2019)

hội an trong tôi

Nằm trong dòng sách artbook (sách nghệ thuật), một trào lưu sáng tác mới của các họa sĩ trẻ, Hội An trong tôi giới thiệu những điểm tham quan nổi tiếng của phố cổ Hội An như Chùa Cầu, Hội quán Phúc kiến, Hội quán Quảng Đông…, những món ngon như mì Quảng, Cao Lầu, cơm gà Phố Hội…, những quán cà phê mang bầu không gian tĩnh lặng của phố cổ… 

Điều đặc biệt là cuốn sách được tác giả thực hiện một cách công phu, tinh tế và sáng tạo, 100% hình ảnh trong tác phẩm đều đượcTrần Hoàng Đức vẽ tay - rất đẹp mắt... đáp ứng cả nhu cầu đọc lẫn nhu cầu xem của bạn đọc.

dắt dìu về thuở ấu thơ (tái bản 2019)

Quyển sách Dắt dìu về thuở ấu thơ mang cùng tên bài viết về giải Nobel Sinh lý hoặc Y học 2012. Hai nhà nghiên cứu một già một trẻ để đưa được tếbào trưởng thành trở về thuở ấu thơ là tế bào gốc non trẻ.

Chúng ta sẽ hưởng thật nhiều từ kỳ tích này. Qua quyển sách nhỏ này, tác giả mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc quý mến đôi điều góp nhặt. Bao nhiêu là chuyện thời sự nóng bỏng Dang Ebola đổ vào con sông cái Congo. Con virút tàn độc lại mang tên Ebola, vô hình vô ảnh không có cánh mà bay được khắp địa cầu. Cả loài người đang xính vính.

Đúng là cuộc rượt đuổi sinh học giữa virút và con người. Kỳ thị màu da đen trắng vẫn luôn là vết thương nhức nhối của nước Mỹ, dẫu cho đang có tổng thống mang một phần dòng máu châu Phi. Tổ tiên con người đều có màu da sậm đen cả mà.

Thật nóng bỏng hai giải Nobel. Ngày 6.10.2014, John O’Keefe, May-Britt Moser và Edvard Moser đoạt giải Nobel Sinh l. hoặc Y học. Họ chứng minh chức năng nhận thức của nó là do các tế bào thần kinh thực hiện.

Ngày 8.10.2014 ba nhà khoa học đoạt giải Nobel Hóa học v. đ. phát minh ra kính nanô, đúng là mắt thần thấy được virút và phân tử đơn lẻ. Gẫm chuyện thể thao thắng thua, được mất Olympic Luân Đôn . Thú vị quá. Ngồi nhà được xem tivi và lên mạng theo d.i Olympic 2012, ngày hội sức khỏe lớn nhất của loài người. Cuộc gặp gỡ toàn cầu, thắng bại được mất, đầy màu sắc, nhiều tình người, vài toan tính.Dilma Rousseff người phụ nữ đằng sau World Cup. Trị lành bệnh ung thư, trở thành nữ tổng thống đầu tiên nước Braxin năm 2011. Đầu tư thật lớn lao cho World Cup 2014 mà chịu nhiều búa rìu và đắng cay. Thông cảm, thương mến và nể phục.

Cậu bé Messi có năng khiếu bóng đá đặc biệt nhưng chiều cao dừng ở 1,40m. Có ông thần đèn bay đến tận Nam Mỹ đem cậu về Tây Ban Nha. Lại được thuốc tiên làm cao lên tới cỡ để thành cầu thủ số một hành tinh. Chuyện thần tiên đời nay. Simona Halep, tay vợt tennis nữ thu nhỏ ngực từ 34DD còn 34C, người nhẹ như tiên, lên hạng như diều. Năm 2014 có lúc xếp hạng hai thế giới. Nhớ chuyện xưa bàn chuyện nayVào thời cổ Hi lạp, Rắn quấn cây gậy của Asclepius là biểu tượng của Y học. Rắn với gậy tượng trưng cho sự hứng khởi và các hiểm nguy của việc chữa bệnh. Các lôgô rắn hiện đại, dấu vết của văn hóa xưa, nhắc nhở chúng ta cuộc giằng co luôn tiếp diễn.

Chuyện đời nay. Mang gen BRCA1 đột biến, minh tinh Angelina Jolie đ. mạnh dạn chấp nhận cuộc mổ đoạn nhũhai bên ph.ng ngừa ung thư vú. Vẫn c.n trăm mối tơ v.. Nghệ nhân Hugo Chavez. Cuối năm 2011, Hugo Chavez, Tổng thống Venezuela trao tặng Cristina de Kirchner Tổng thống Argentina, một bức tranh vẽ ông ta và Nestor Kirchner chồng quá cố của bà, nguyên Tổng thống Argentina. “Người ta không nghĩ là tôi đã vẽ bức tranh này”. Biết góc nghệ sĩ sâu thẳm trong Chavez, tôi thấy thật yêu mến ông. C.n nhiều chuyện nữa: Vui chuyện đôi g., Người xưa dặn dò, L.o Bush nhảy dù...

Các giải Nobel kết tụ tinh hoa

 Dắt dìu về thuở ấu thơ . Năm 1962, Gurdon chứngminh sự biệt hóa của các tế bào thì đảo ngược được. Năm2006, chỉ cần bốn gen Yamanaka có thể dẫn dắt các tế bào trưởng thành trở về trạng thái các tế bào gốc đa năng.Một giải Nobel hai cống hiến. Năm 1990, bác sĩ Donnall E. Thomas cha đẻ của ghép tủy xương nhận giải Nobel Y học cùng với bác sĩ Joseph E. Murray, người khơidựng ghép tạng. Bác sĩ Thomas đã mở ra một kỷ nguyên mới: ghép tủy xương trở thành cách điều trị ung thư máu và các loại bệnh máu khác. Từ cuộc ghép thận đầu tiên thành công của bác sĩ Murray, đã có hàng trăm ngàn cuộc ghép tạng nhiều loại được thực hiện trên toàn thế giới.

Sáng mới một vì sao. Một mình hai giải Nobel Hóa học chuyện chưa từng có, Fred Sanger là cha đẻ của giải vốn gen người. Ông vừa từ biệt chúng ta năm 2013, dòng  chảy sinh học cuồn cuộn.

Bầu trời đầy sao sáng. Năm 2013 đ. sang trang. Nhiều vị đoạt giải Nobel đã qua đời. Xin kể các chuyện có thể bạn chưa nghe về những con người có lẽ bạn chưa biết được  ảnh hưởng đời sống chúng ta theo cách bạn không ngờ.Các dòng sông ra biển. Rontgen nhận giải Nobel Vật lý đầu tiên năm 1901 và tìm ra tia X. Sau đó người ta dung chùm tia thần kỳ này để nh.n thấu suốt vật chất. Có 28 giải Nobel, gồm cả Vật lý, Hóa học và Sinh lý hoặc Y học. Không thể kể hết sự đóng góp lớn lao của khoảng 45 nhà khoa học. Đúng là “Kết tụ tinh hoa của bốn phương”.

Cảm ơn các bạn nhà văn, nhà báo, thầy thuốc đôn đốc thúc và góp. chân tình cho người viết. Rất cảm mến Linh Trân giúp soạn thảo bài vở. Người bạn đời Trần Kim Liên và các con của tác giả lo chăm chút bản thảo. Chân thành cảm tạ Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện để tác phẩm được ra mắt bạn đọc.

Người viết vui được trải lòng. Tha thiết mong các bạn đọc quý mến chỉ giúp những thiếu sót.

Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày 22 tháng 10 năm 2014

Nguyễn Chấn Hùng

franz kafka - người tẩy não nhân loại (tái bản 2019)

Cuốn sách này được in vào năm 2006, cách đây 12 năm bài, . Và cũng cách 2006, 11 năm trước, tôi đã dạy bài học đầu tiên về Kafka cho sinh viên Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế. Mùa hè năm 2005, khi đang dạy tại chức cho sinh viên Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội tại Nghệ An, tôi viết những dòng cuối cùng của cuốn sách. Đó là một ngày hè nóng, cái nóng của miền Trung càng làm tăng thêm bầu không khí ngột ngạt nhưng diệu kỳ mà dư vị Kafka để lại.

Phải nói đây là cuốn sách được tôi viết trong mạch cảm hứng dồi dào, tập trung bậc nhất. Ngoại trừ một ít bài viết lẻ tẻ đăng trên các tạp chí, phần nội dung chính của cuốn sách được viết liền một mạch trong độ ba tháng. Bây giờ, nhớ lại cảm xúc lúc đó, trong tôi vẫn nguyên cảm giác xao xuyến khi viết lên trang giấy những dòng suy ngẫm về Kafka. Sở dĩ nói là “viết lên” vì hồi đó tôi chưa có thói quen làm việc trên máy tính, chỉ viết trên giấy A4 rồi thuê người đánh máy. Cái lối tư duy theo ngòi bút đó quả cũng có những thuận lợi nhất định so với đánh máy. Mỗi chữ về Kafka đều được cân nhắc kỹ, từ từ xuất hiện trên trang giấy như một phép màu của tuổi hoa niên mà nay, vĩnh viễn tôi chẳng thể nào có được.

Tôi yêu quý và ngưỡng mộ Kafka ngay từ lần đầu tiếp xúc với sách của ông. Phải nói, lúc đó nếu chưa đọc bài nghiên cứu về Kafka từ trước của Đặng Anh Đào thì rất khó có thể hiểu ông. Và ngay cả khi được trang bị kiến thức về ông thì việc hiểu đó cũng đâu có dễ. Phải mất hơn nửa đời người, may ra tôi chỉ mới nhận ra được đôi điều về ông. Cái con người văn chương bí hiểm và uyên thâm bậc nhất nhân loại thế kỷ XX ấy đã tạo nên một ma lực ngôn từ, ám ảnh người đọc lâu dài.

Đành rằng đây là một trong những cuốn hay nhất trong sự nghiệp nghiên cứu của tôi, đành rằng (có ảo tưởng chăng) đây là cuốn chuyên luận không chỉ là duy nhất mà còn là công phu nhất được viết về Kafka ở Việt Nam tính đến thời điểm này, nhưng sự đón đọc của công chúng quả là rất hạn hẹp. Xem ra thì, cái “món” Kafka này quả rất khó nhằn đối với độc giả Việt Nam.

Tôi luôn muốn in lại cuốn sách này, vì hai lý do: Thứ nhất, tôi muốn quảng bá Kafka với tư cách là một thiên tài văn chương, người không thể thiếu trong đời sống tinh thần Việt; hai là, để bày tỏ lòng yêu mến của tôi đến Kafka, một người mà, những gì ông nói thì luôn đúng trong tuyệt đại đa số hoàn cảnh, nhất là những trớ trêu nhân sinh trong thời cách mạng 4.0. Vì lẽ đó, lãng quên Kafka là tội lỗi khó có thể dung thứ.

(Trích Lời nói đầu)

tủ sách túi khôn nhân loại - chú sư tử bị thương

Ngày qua ngày, một cô gái nghèo đều bắt đầu gặp một chú sư tử đang cần cô giúp đỡ. Lạ thay, việc cô chăm sóc chú sư tử đang cần sự giúp đỡ ấy và ước mơ muốn có một  cuộc sống tốt đẹp hơn của cô lại kết hợp với nhau một cách rất lạ thường. Chú Sư Tử Bị Thương là câu chuyện dân gian Tây Ban Nha về tính nhẫn nại và lòng cảm thông.

tủ sách túi khôn nhân loại - điều ước cuối cùng

Một công chúa biết được một bí mật khủng khiếp về người cô yêu nhưng cô vẫn chấp nhận tất để cưới chàng. Lòng hiến dâng và kiên định của cô đã được tưởng thưởng bằng một điều ước và cô đã khôn khéo sử dụng điều ước của mình. Có nguồn gốc từ Ấn Độ, truyện cổ Điều Ước Cuối Cùng ca ngợi sức mạnh của tình yêu, lòng hiến dâng và tính kiên định của con người.

hồi ký căn cứ kháng chiến khu sài gòn - chợ lớn - gia định (1945-1975) - tập 2

Tiếp theo cuốn sách Hồi ký căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trên địa bàn TPHCM (1945 - 1975), Ban Thường vụ Thành ủy TPHCM đã chỉ đạo tiếp tục tổ chức biên soạn tập 2 cuốn sách Hồi ký nhằm ghi lại những ký ức thiêng liêng về cuộc sống, chiến đấu, học tập, rèn luyện, những tâm tư, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở các căn cứ nằm ngoài địa bàn TPHCM…

Sau gần 1 năm thực hiện, cuốn Hồi ký tập 2 đã hoàn thành và ra mắt ngay trong dịp TPHCM kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chuẩn bị các hoạt động kỷ niệm 40 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuốn Hồi ký căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (1945 - 1975) tập 2 bao gồm 85 bài viết của các tác giả cũng đồng thời là những người từng trực tiếp tham gia các cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp viết ra. Đây được xem là thiên hồi ký tái hiện những căn cứ địa và hậu phương cách mạng vững mạnh trong kháng chiến bao gồm các lõm chính trị trong nội thành, các căn cứ ven đô, hậu phương trực tiếp trên những hướng chiến lược trọng yếu và cả căn cứ trên địa bàn các tỉnh. Địa thế, lòng dân và chiến thuật bố trí phòng thủ hợp lý đã làm cho các căn cứ trở thành “mái nhà an toàn” cho các lực lượng kháng chiến. Những bài viết trong cuốn sách phản ánh thêm một phần nhỏ về những năm tháng sống, công tác, chiến đấu ở các căn cứ kháng chiến đóng trên địa bàn các tỉnh bạn; về tình yêu thương bao la, sự đùm bọc, chở che của đồng bào, đồng chí, đồng đội các địa phương.

Trải qua hai cuộc kháng chiến, căn cứ Khu ủy (Thành ủy) luôn là mục tiêu triệt phá, là nỗi nhức nhối của kẻ thù. Nhiều lần phải di chuyển căn cứ do địch đánh phá ác liệt nhưng từ miền Đông đến miền Tây Nam bộ và cả trên đất Campuchia, bất kỳ nơi đâu, Khu ủy cũng đều nhận được sự đùm bọc, chở che của nhân dân địa phương. Cuộc sống, chiến đấu, học tập, lao động, rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong vùng căn cứ cực kỳ anh dũng, oanh liệt với sự hi sinh to lớn nhưng vẫn đầy ắp tình yêu thương của đồng bào, đồng chí, đồng đội.

Trong bài viết của mình, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định Mai Chí Thọ ghi lại những tình cảm, sự sẻ chia, đùm bọc đầy ắp ân tình này: “Thời gian này, chúng tôi đi đến đâu, bà con cũng như anh em du kích địa phương đều hết lòng chia lửa với chúng tôi, có gia đình hi sinh gần hết vì bom đạn của Mỹ - ngụy. Mặc dù phải chịu đau đựng nhiều tổn thất nhưng họ vẫn rất tín nhiệm và thương yêu chúng tôi. Rất nhiều thanh niên địa phương bày tỏ mong muốn được gia nhập đơn vị Khu ủy để chiến đấu và công tác, số lượng này vượt quá yêu cầu nên chúng tôi không thể nào thu nạp hết được. Khi chúng tôi dời về Vĩnh Trà (Vĩnh Long, Trà Vinh nhập lại) chưa kịp đưa Đội bảo vệ về căn cứ mới thì đồng chí Bí thư Tỉnh ủy - anh Năm Trung, đã dành cho chúng tôi những địa điểm tốt nhất và chia cho một nửa lực lượng bảo vệ của Tỉnh ủy. Các Tỉnh ủy Bến Tre, Mỹ Tho đều có hành động tương tự khi căn cứ của các đồng chí ngày càng bị thu hẹp lại…”.

Có thể nói, các căn cứ kháng chiến của Khu ủy (Thành ủy) đã tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân; là chỗ dựa về mặt chính trị, nơi hướng về, hi vọng và khích lệ đồng bào khắp nơi kháng chiến.

Ban cố vấn biên soạn cuốn sách là đồng chí Phan Văn Khải (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ), đồng chí Trần Hữu Phước (nguyên Phó trưởng ban thường trực, Ban Chỉ đạo Xây dựng Khu Di tích lịch sử Cách mạng miền Nam). Ban thường vụ Thành ủy chỉ đạo biên soạn với Trưởng ban là Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM Võ Văn Thưởng.

Hồng Hiệp

như mặt trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu (tái bản 2018)

 Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là sự kiện lịch sử và chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Đó là một cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để, xưa nay chưa từng có vì nó mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người: thời đại đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Diễn ra trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ nhằm giải phóng công nhân, nông dân và người lao động làm thuê khỏi sự bóc lột của chủ, mà còn chỉ ra con đường đưa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc thoát khỏi ách thống trị áp bức của các nước thực dân.

Vì vậy, Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng to lớn đến công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân ta, khi Việt Nam còn là một thuộc địa và đang lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, đến sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay.

Nhân kỷ niệm lần thứ 100 Cách mạng tháng Mười Nga (1917 - 2017), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu tới quí độc giả tuyển tập Như mặt trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu.

Tuyển tập do hai nhà nghiên cứu Phan Duy Việt, Phan Khả Minh thực hiện, bao gồm bài viết của các nhà yêu nước tiền bối,lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, các đồng chí lãnh đạo Đảng, bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà thơ… về diễn biến, ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười Nga và những ảnh hưởng to lớn tới phong trào cách mạng ở Việt Nam.

Chúng tôi xin được tri ân và trân trọng cảm ơn những tác giả đã có bài viết tham gia tuyển tập Như mặt trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu nhằm thiết thực hướng tới kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Chúng tôi cũng xin cảm ơn hai nhà nghiên cứu Phan Duy Việt và Phan Khả Minh đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong việc sưu tầm và biên soạn tuyển tập này.

Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được ý kiến đóng góp của quí độc giả.

Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

gương chí sĩ phan tây hồ lịch sử toàn biên (tái bản 2018)

Cuốn sách Phan Tây Hồ lịch sử toàn biên được in cách nay đã 89 năm (1927). Từ đó đến nay (2016),  cuốn sách vẫn chưa được in  lại. Cuốn sách ghi  lại  tiểu sử,  những bài  diễn thuyết của  cụ Phan Tây Hồ sau khi về nước và quý  hơn cả là phần ghi lại quá trình diễn ra đám tang của  chí sĩ Phan Châu Trinh trên cả  ba  miền Bắc - Trung - Nam. Chính vì những lẽ đó,  Nhà  xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh tái bản lại cuốn sách với  mong muốn góp  phần tôn  vinh và  làm sống dậy  tinh thần “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của  nhà tư tưởng Phan Châu Trinh.

Về  việc  tái  bản cuốn sách, chúng tôi  giữ  lại nguyên văn văn bản in lần đầu, chỉ biên tập những lỗi  chính tả như sai  dấu hỏi  ngã…  Riêng   phần những chữ đại tự, câu  đối trong đám tang Cụ Phan Châu Trinh chúng tôi có nhờ nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh hiệu đính và  bổ  sung thêm phần Hán văn cho  rõ  nghĩa. Về phần ảnh, ngoài những tấm ảnh về  đám  tang Cụ Phan  Châu Trinh  năm  1926, chúng tôi có bổ sung thêm một số ảnh chụp phần mộ và Nhà lưu niệm của Cụ (số 9 đường Phan Thúc Duyện, Phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh) do bạn đọc Đỗ Minh Tiến  cung cấp.

Dù đã  cố gắng nhưng do  cuốn sách đã  in  cách nay gần  100 năm nên có nhiều từ, nhiều nội  dung khó lòng mà hoàn chỉnh một cách chu toàn. Chúng tôi  rất mong bạn đọc  gần  xa  lượng thứ nếu có gì sai  sót và xin  góp  ý chân thành để lần  tái  bản sau cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.

Chúng tôi xin  gửi  lời cảm ơn và cáo  lỗi với  tác giả Nguyễn Kim Đính, vì chưa liên  hệ được với tác giả để xin  tái  bản cuốn sách; nếu tác  giả hay thân nhân tác giả biết tin này, vui lòng đến Nhà xuất bản Tổng  hợp Thành phố Hồ Chí Minh (theo địa  chỉ  ở cuối  sách) để nhận sách biếu. Nhân đây  chúng tôi xin  gửi  lời  cảm ơn nhà thơ  Lê Minh Quốc  (hiện công  tác tại báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh), là người đã nhiệt tâm giới thiệu và cho  mượn bản in lần  đầu để  chúng tôi có dữ  liệu  xuất bản lại cuốn sách; xin  cảm ơn nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh đã hiệu đính và tu bổ cho  phần Hán văn.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

dáng hồn đô thị (tái bản 2019)

Có lẽ độc giả sẽ thắc mắc khi kiến trúc sư viết tùy bút thì sao nhỉ?

Vẫn hay, vẫn hấp dẫn, vẫn đầy chất thơ và chất nhạc đấy, chứ không chỉ là những hình khối, những số liệu khô khan đâu thưa quý độc giả. Cứ xem qua tùy bút Dáng hồn đô thị của kiến trúc sư Lưu Trọng Hải, bạn đọc hẳn thấy điều đó. Thừa hưởng tâm hồn thi sĩ từ người cha, nhà thơ Lưu Trọng Lư, giọng văn của kiến trúc sư Lưu Trọng Hải không trau chuốt nhưng vẫn mượt mà, dễ đọc, dễ cảm.

Từng kinh qua công tác quy hoạch kiến trúc đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, đau đáu với những đổi thay tích cực và cả những hạn chế của vùng đất nơi ông sống, làm việc, kiến trúc sư Lưu Trọng Hải đã có những trăn trở, trải lòng qua từng trang viết nơi tập tùy bút Dáng hồn đô thị. Và chắc hẳn, khi lướt qua những câu chữ trong tùy bút này, bạn đọc sẽ dễ gần gũi, đồng cảm với tác giả bởi những tâm tư ấy có thể gặp ở bất cứ ai có tấm lòng với vùng đất không chỉ đơn thuần là để ở, mà còn ở đó ta gửi gắm mảnh hồn mình.

Đúng như lời bộc bạch của tác giả, tùy bút Dáng hồn đô thị chính là nơi chứa đựng “Một vài mảng hồi ký; Dăm ba câu chuyện đời thường ở Thành phố; Mấy góc nhìn và bàn luận về đô thị”. Đâu đó trong tập sách, ta bắt gặp những việc vĩ mô về quy hoạch Thành phố qua bài “Những năm tháng ở cơ quan quản lý Quy hoạch kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh”, “Để Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố trung tâm của khu vực Đông Nam Á”… rồi cùng bước qua những câu chuyện nhẹ nhàng về kiến trúc xưa và nay với “Kiến trúc tâm linh nốt lặng của đô thị hiện đại”, “Nét đẹp kiến trúc cảnh quan Thành phố Hồ Chí Minh và du lịch”…

Bên cạnh đó, rất đỗi dung dị và thân thuộc còn là những tâm sự về văn hóa đô thị, về đời sống thị dân như “Tổ trưởng dân phố”, “Chuyển nhà vào hẻm”… Tưởng chừng nhỏ đấy, nhưng thiếu nó là thiếu hẳn một phần hồn của lối sống đô thị bởi dù mang đầy dáng dấp hiện đại, đô thị vẫn không thể thiếu hay mất đi những giá trị truyền thống tưởng chừng như xưa cũ.

Làm sao để vẫn giữ được những kiến trúc, nét văn hóa truyền thống, cái hồn xưa cũ nơi đô thị, mà không ngăn trở sự đi lên của kiến trúc, văn hóa hiện đại? Làm sao để những kiến trúc cao tầng như Metropolitan hay Diamond Plaza vẫn tồn tại được bên cạnh những hồn xưa bóng cũ là Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố ở ngay sát bên cạnh? Làm sao để tình làng nghĩa xóm không bị phai nhạt đi giữa bộn bề tấp nập của nhịp sống thị dân… Đó là những câu hỏi lớn không chỉ của giới hữu trách, mà còn của mọi thị dân đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.

Và cũng bởi là tùy bút, nên độc giả đừng ngạc nhiên nếu tác giả dù có “ưu ái” dành phần lớn dung lượng cho Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng có lúc lại thả hồn về miền ký ức với những ấn tượng còn đọng lại trong tâm tưởng nơi đất Hội An, hay về Huế… Tưởng chừng ra khỏi ranh giới của Dáng hồn đô thị đấy, nhưng không, ẩn trong đó vẫn có sự đồng điệu ở những nội dung được đề cập tới. Và ta cũng dễ dàng mà nở nụ cười, bởi, đó là hồi ức, là chuyện đời, chuyện phố, chuyện của những cư dân đô thị.

Việc còn lại, xin mời độc giả lần giở từng trang sách Dáng hồn đô thị, mà tự khám phá, tự cảm nhận hồn của sách vậy!

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 

cẩm nang tư duy đọc (tái bản 2019)

"Apprendre  à  apprendre” (“học  cách  học”)  là một khẩu hiệu nổi tiếng trong tiếng Pháp và không dễ… dịch, vì động từ “apprendre” trong tiếng Pháp dường như có cả hai nghĩa trong tiếng Anh: “to teach” và “to learn”! Không có sự tách bạch giữa “dạy” và “học”, vì vị trí của chúng đôi khi có thể thay thế cho nhau, hay nói ngắn, giữa chúng có một sự “vận động”. Sự vận động ấy chính là phương pháp.

Từ khi René Descartes viết quyển “Các quy tắc hướng dẫn tư duy” (Règles pour la direction de l’esprit) năm 1628 và “Luận văn về Phương pháp” (Discours de la Méthode) năm 1637, khoa học và tư duy khoa học thật sự bước vào thời hiện đại, tức, ta không còn có thể suy nghĩ và làm việc như thể không có… Descartes được nữa! Gần bốn thế kỷ đã trôi qua với biết bao sự cải tiến và tinh vi hóa về phương pháp trên mọi lĩnh vực, nhưng mục tiêu của nó không thay đổi, đúng như Kant đã nói: “Ta không thể học triết học, mà chỉ có thể học cách triết lý” hay như lời của Albert Einstein: “Giá trị của một nền giáo dục (…) không phải là dạy và học được nhiều sự kiện mà là đào luyện cho tinh thần biết tư duy…”.

Bộ sách CẨM NANG TƯ DUY này dành cho mọi độc giả, từ học sinh, sinh viên đến các giảng viên, các nhà nghiên cứu, doanh nhân, người đã đi làm cũng như quý phụ huynh… muốn nâng cao năng lực tư duy của mình. Học sinh, sinh viên có thể đọc cẩm nang như tài liệu tham khảo để học tốt các bộ môn; quý phụ huynh có thể sử dụng cẩm nang để vừa nâng cao năng lực tư duy của mình vừa giúp con em mình phát triển các kỹ năng tư duy cần thiết để học tốt; các giảng viên, nhà nghiên cứu có thể sử dụng cẩm nang để xây dựng tốt các chủ đề của mình; người đã đi làm, doanh nhân… có thể áp dụng các kỹ năng, ý tưởng của cẩm nang vào công việc và cuộc sống.

(Bù Văn Nam Sơn)

bến chờ

“Sáng thức dậy tôi đã thấy mấy trái ổi chín cây thơm lừng cùng với cuốn truyện tranh mới tinh. Má nói của anh Hai “đền” cho tôi. Anh Hai với ba về nội phụ cất nhà mồ cho ông bà nội. Suốt mấy ngày thiếu vắng anh Hai, tôi bị đám trẻ xóm trên ăn hiếp, vào ra lủi thủi một mình, tự nhiên lúc đó tôi thấy nhớ anh Hai kỳ cục. Ngó thấy gương mặt rầu rầu của tôi, hình như má cầm lòng không đặng.

- Thấy nhớ anh Hai thì chút má gởi xe đò cho về nội chơi.

- Con mà thèm nhớ ảnh hả? Ảnh đi con phẻ quá trời. Con... con nhớ ba thôi.

Má nhìn tôi cười. Xe đò chạy chuyến buổi trưa ghé ngay trước ngõ, má dặn chú lơ xe đủ thứ chuyện trên đời. Má cho tôi năm ngàn tiền dằn túi và dặn đi dặn lại câu hát “Ba chờ sẵn ở quán cây me. Người lạ hỏi đừng có trả lời nghen”. Ngồi trên chiếc xe lắc lư với những tiếng ồn ào của động cơ, tiếng trẻ quấy khóc, mùi dầu gió hanh nồng, tôi chỉ muốn xe chạy thật nhanh đến nhà nội để nói với anh Hai câu nói mà nhiều ngày qua tôi vẫn còn ấm ức.

- Anh nghĩ có mấy trái ổi với cuốn truyện tranh là em chấp nhận lời xin lỗi của anh sao. Mơ đi. Anh còn nợ em dài dài...”

--- Đoạn trích anh Hai ---

nghe thầy kể chuyện - giáo sư trần văn giàu

Nghe Thầy Kể Chuyện - Giáo Sư Trần Văn Giàu

sài gòn chợ lớn đời sống xã hội và chính trị qua tư liệu báo chí (1925-1945)

"Cuốn sách này có mục đích phác họa một hình ảnh về xã hội và chính trị ở Sài Gòn và Nam Kỳ từ năm 1925 đến năm 1945 phần lớn dựa trên những sự kiện, tư liệu, tin tức báo chí thời bấy giờ.

- Tư liệu lịch sử qua các tờ báo vào nửa đầu thế kỷ XX cho thấy chỉ trong vòng 20 năm (1925 - 1945), xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển to lớn về nhận thức, tư tưởng chính trị và quyền lợi người Việt dưới thời thuộc địa Pháp.

- Sống kinh tế trong thập niên 1930 hết sức khó khăn ở Sài Gòn , Nam Kỳ nói riêng, toàn Đông Dương và thế giới nói chung.

- Nhiều doanh nghiệp kéo nhau phá sản, hàng hóa ứ đọng, giá xuống thấp vì cung lớn hơn cầu và thất nghiệp lên cao độ.

- Xã hội có những thay đổi đáng kể về nhận thức trong điều kiện kinh tế biến chuyển nhiều bất trắc cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa và các trào lưu tư tưởng từ phương Tây"

đô thị sài gòn - thành phố hồ chí minh - khảo cổ học và bảo tồn di sản (tái bản 2019)

"Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh có quỹ di sản cảnh quan và kiến trúc đô thị đặc sắc, đã dạng và phong phú. Lịch sử của mỗi đô thị cũng như chuỗi vòng xoắn ADN kéo dài vô tận mà trong đó sự "phát triển" kinh tế là sức sống mới từ những tế bào nhân đôi, nhưng "bảo tồn" di sản văn hóa lại giữ vai trò cấu trúc ổn định của chuỗi vòng xoắn.

Khi cấu trúc này bị phá vỡ, đô thị không còn bản sắc riêng. Một đô thị không có bản sắc riêng thì nó sẽ biến mất trong nhận thức và ký ức cộng đồng, sớm hay muộn mà thôi"

Làm thế nào để phát triển đô thị nhưng không làm phá hủy di sản văn hóa, xây dựng một thành phố văn minh, hiện đại nhưng không mâu thuẫn với việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa của đô thị? Đây vừa là suy nghĩ, trăn trở của tác giả, một người vừa làm công tác khảo cổ học và bảo tồn, vừa làm công tác nghiên cứu phát triển của TPHCM. Lần tái bản này, tác giả đã chỉnh sửa một số sai sót, bổ sung thêm những hoạt động về bảo tồn di sản đô thị ở trong và ngoài nước qua khảo sát của tác giả năm 2017 – 2018, nhằm tăng cường tính thực tiễn của công trình. Tuy vậy chắc chắn công trình cũng chưa thật sự hoàn thiện. Tác giả chân thành cám ơn ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu và quý độc giả.

hạnh phúc của người việt nam

Ở Việt Nam, khoa học nghiên cứu về hạnh phúc cho đến nay hầu như vẫn đang còn bỏ trống. Chúng ta còn chưa biết rõ quan niệm về hạnh phúc và hạnh phúc trong đời thực của người dân hiện nay như thế nào. Điều gì làm cho họ hạnh phúc hoặc bất hạnh? Nhóm xã hội nào hạnh phúc hơn, nhóm xã hội nào kém hạnh phúc hơn, vì sao? Bằng cách nào để đo lường hạnh phúc? Chỉ số hạnh phúc của người Việt Nam hiện nay là cao hay thấp? Những đặc trưng văn hóa trong quan niệm và thụ hưởng hạnh phúc của người Việt Nam là gì?

Cuốn Hạnh phúc của người Việt Nam - Khái niệm, cách tiếp cận & chỉ số đánh giá là một nỗ lực nhằm trả lời những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong nghiên cứu hạnh phúc ở nước ta hiện nay - Lê Ngọc Văn -

21 năm nối lại đôi bờ

Đây là câu chuyện bi tráng từng một thời xảy ra trên đất nước thân yêu của chúng ta, nhưng từ sau ngày hòa bình cho đến nay ít thấy sự hiện diện các tác phẩm nói về đề tài này, có chăng cũng chỉ là những câu chuyện được kể lại một cách ngẫu nhiên, rời rạc. E rằng đến một lúc nào đó những câu chuyện thật có liên quan đến lịch sử của cả một thời đất nước bị chia đôi sẽ dần rơi rớt mai một, và cũng không loại trừ bị xuyên tạc, rất thiệt thòi cho thế hệ trẻ trong việc tìm hiểu để nhận chân một giai đoạn lịch sử của dân tộc ta.

Qua tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận được chặng đường 21 năm với miên man những sự kiện, với biết bao tên người, tên đất, tên sông… trải dài trên mảnh đất hình chữ S này, bắt đầu từ làng quê Cao Lãnh thân thương ngày ấy. Và, từ làng quê ở miền Nam hay thôn xóm ở miền Bắc, đâu đâu tác giả và bao người kháng chiến khác cũng đều được chở che, nuôi dưỡng bởi những người dân đôn hậu, bình dị, đầy lòng yêu nước.

Đâu có cuộc chiến nào chỉ có chiến thắng vẹn toàn mà không có đau thương mất mát! Biết bao con người đã vĩnh viễn nằm xuống, biết bao con người trở về mà cơ thể không còn lành lặn!... Nhưng rồi niềm vui chung của dân tộc đã xóa dần khoảng cách, để lòng người kết nối với lòng người, tình thân kết nối với tình thân… Rồi mọi vết thương cũng sẽ lành và thật sự nhiều vết thương đã lành. Giờ là lúc tất cả cùng nhìn về phía trước, sống, học tập, làm việc, cống hiến sao cho xứng đáng với cộng đồng thương yêu, đoàn kết đang sống quanh ta.

lịch sử các chế độ báo chí ở việt nam

Lịch Sử Các Chế Độ Báo Chí Ở Việt Nam

năm 2062 thời đại của trí thông minh nhân tạo

Năm 2062 Thời Đại Của Trí Thông Minh Nhân Tạo

bộ sài gòn một thuở chưa xa - tập 3 - thầy ơi thương lấy dân nghèo

Cùng bạn đọc quý mến!

Những gì tôi viết đều như là món nợ mà tôi thấy mình cần trả lại cho đời. Có thể, trong tập sách này, có những trang đọc được và cũng có những trang độc giả chưa thật sự hài lòng; nhưng với tôi, từng chữ tôi viết ra đều là thật, đều được viết ra từ những rung cảm nơi thẳm sâu của trái tim.

Sài Gòn, vùng đất tôi lớn lên từ tuổi lên mười, khi phải chia xa quê hương Quảng Nam thời đất nước còn chìm trong lửa đạn. Tôi tận mắt thấy, tai nghe mọi điều của một Sài Gòn từ ngày xa xưa đến tận bây giờ. Tôi nhớ từng góc phố, từng ngọn đèn đường ngày xưa vào những tối nhọc nhằn kiếm sống; để bây giờ mỗi lần ngang qua đều ngẩn ngơ, bồi hồi tiếc nuối khi hình ảnh cũ không còn. Sài Gòn thay da đổi thịt từng ngày, cố xứng tầm với tên gọi một thời “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Sài Gòn có những người “sang” và cũng không ít những người “hèn”. Tôi chỉ nhắc lại câu nói ấy và xin phép được để trong ngoặc kép hai chữ “sang, hèn”. Nghề báo tạo điều kiện để tôi hàng ngày nhiều lần đi qua những con đường Sài Gòn và bao giờ cũng vậy, tôi thấy trái tim mình rộn ràng, mỗi khi gặp những người “hèn” - những em bé đánh giày, những người già cầm tập vé số trên tay, những phụ nữ oằn mình dưới gánh hàng rong, những cô gái tự đánh mất mình trong chốn lầu xanh tội nghiệp… Cũng như bao nhiêu người khác, làm sao tôi có thể không quan tâm đến những thân phận ấy. Và tôi đã dừng lại bên họ.

Sài Gòn vẫn đang cùng đất nước, thế giới xoay trong vũ trụ bao la - “sang” và “hèn” vẫn còn đó…

Một số hiện tượng, sự việc mà quý vị đọc thấy trong tập sách này, rất có thể đã trở nên xa lạ với Sài Gòn hiện tại. Thật vui, nếu đó là những “điểm đen”, “mảng xám”… đã từng tồn tại một thời. Song, cũng là điều dễ hiểu và đáng trân quý biết bao khi mà từ xưa đến nay, hay mãi về sau “những điều tốt đẹp” vẫn hiện diện trên mảnh đất Sài Gòn đáng yêu này!

Hơn 50 bài phóng sự trong 3 tập sách này (chọn lọc từ hơn 300 bài báo cùng thể loại) được tôi thực hiện trong khoảng 10 năm cuối của thế kỷ XX (khoảng 1988 - 1999) và tất cả đã được đăng tải trên báo Phụ nữ Sài Gòn (sau đổi tên thành báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh).

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.

Sài Gòn, đầu mùa Hạ 2019

BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN

bộ sài gòn một thuở chưa xa - tập 2 - ai đã quên lời thề hippocrate?

Cùng bạn đọc quý mến!

Những gì tôi viết đều như là món nợ mà tôi thấy mình cần trả lại cho đời. Có thể, trong tập sách này, có những trang đọc được và cũng có những trang độc giả chưa thật sự hài lòng; nhưng với tôi, từng chữ tôi viết ra đều là thật, đều được viết ra từ những rung cảm nơi thẳm sâu của trái tim.

Sài Gòn, vùng đất tôi lớn lên từ tuổi lên mười, khi phải chia xa quê hương Quảng Nam thời đất nước còn chìm trong lửa đạn. Tôi tận mắt thấy, tai nghe mọi điều của một Sài Gòn từ ngày xa xưa đến tận bây giờ. Tôi nhớ từng góc phố, từng ngọn đèn đường ngày xưa vào những tối nhọc nhằn kiếm sống; để bây giờ mỗi lần ngang qua đều ngẩn ngơ, bồi hồi tiếc nuối khi hình ảnh cũ không còn. Sài Gòn thay da đổi thịt từng ngày, cố xứng tầm với tên gọi một thời “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Sài Gòn có những người “sang” và cũng không ít những người “hèn”. Tôi chỉ nhắc lại câu nói ấy và xin phép được để trong ngoặc kép hai chữ “sang, hèn”. Nghề báo tạo điều kiện để tôi hàng ngày nhiều lần đi qua những con đường Sài Gòn và bao giờ cũng vậy, tôi thấy trái tim mình rộn ràng, mỗi khi gặp những người “hèn” - những em bé đánh giày, những người già cầm tập vé số trên tay, những phụ nữ oằn mình dưới gánh hàng rong, những cô gái tự đánh mất mình trong chốn lầu xanh tội nghiệp… Cũng như bao nhiêu người khác, làm sao tôi có thể không quan tâm đến những thân phận ấy. Và tôi đã dừng lại bên họ.

Sài Gòn vẫn đang cùng đất nước, thế giới xoay trong vũ trụ bao la - “sang” và “hèn” vẫn còn đó…

Một số hiện tượng, sự việc mà quý vị đọc thấy trong tập sách này, rất có thể đã trở nên xa lạ với Sài Gòn hiện tại. Thật vui, nếu đó là những “điểm đen”, “mảng xám”… đã từng tồn tại một thời. Song, cũng là điều dễ hiểu và đáng trân quý biết bao khi mà từ xưa đến nay, hay mãi về sau “những điều tốt đẹp” vẫn hiện diện trên mảnh đất Sài Gòn đáng yêu này!

Hơn 50 bài phóng sự trong 3 tập sách này (chọn lọc từ hơn 300 bài báo cùng thể loại) được tôi thực hiện trong khoảng 10 năm cuối của thế kỷ XX (khoảng 1988 - 1999) và tất cả đã được đăng tải trên báo Phụ nữ Sài Gòn (sau đổi tên thành báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh).

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.

Sài Gòn, đầu mùa Hạ 2019

BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN

giáo sư trần văn khê những câu chuyện để lại

Giáo Sư Trần Văn Khê Những Câu Chuyện Để Lại

chú chó bảo mẫu

Quý phụ huynh và các em thiếu nhi thân mến!

Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình là cái tên không còn xa lạ trong giới văn chương. Viết văn từ thời còn học phổ thông, có một số giải thưởng, nhưng chị chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành nhà văn. Chị dành mọi thời gian rảnh để viết, và đặc biệt chỉ viết cho thiếu nhi. Có thể nói, chị đến với văn chương như một cách để tìm đến những mềm mại trong trẻo; để tìm về lại với tuổi thơ của mình.

Văn chương của Nguyễn Thị Thanh Bình tràn ngập màu sắc của đồng quê với đồng ruộng, rạ rơm, châu chấu, cào cào, ăm ắp hồn nhiên, sinh động và đẹp đẽ trên mỗi trang giấy.

Cuốn truyện thiếu nhi Chú chó bảo mẫu này cũng vậy. Lấy đề tài về một chú chó buồn, không có việc để làm, không có mục đích sống, tác giả dẫn dắt người đọc đến với những tình huống kịch tính khi chú chó bị rơi vào tay kẻ trộm chó, hay sự hài hước khi chú chó trở thành bảo mẫu bất đắc dĩ của một con chó con mất mẹ và một con mèo hay càu nhàu…

Với ngôn từ trong sáng, dễ thương, được sử dụng linh hoạt, sống động,... tác giả sẽ đưa độc giả nhỏ tuổi đến với thế giới của các loài vật nuôi, cùng chú chó bảo mẫu trải qua các tình huống căng thẳng, hiểm nghèo khi phải đối diện giữa sự sống và cái chết; được chứng kiến sự dũng cảm, gan dạ và tốt bụng của chú chó. Rồi cả sự vụng về của một con chó thành niên khi lần đầu đảm nhận vai trò bảo mẫu chăm sóc cho một chú chó con vừa mới lọt lòng đã mất mẹ… Và còn rất nhiều tình huống hài hước, kịch tính khác, hứa hẹn sẽ mang đến cho các bé những khoảnh khắc thú vị qua từng trang sách. Qua đó phần nào giúp bé yêu thích việc đọc sách hơn.

Qua câu chuyện này, người đọc có thể cảm nhận được thông điệp sâu sắc mà tác giả dành cho các độc giả nhỏ tuổi nói riêng và tất cả chúng ta nói chung: Hãy dành tình yêu thương và bảo vệ cho những vật nuôi thân thiết - người bạn hết sức dễ thương, trung thành và quả cảm của chúng ta.

Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trân trọng gửi tới quý phụ huynh và các em thiếu nhi cuốn sách Chú chó bảo mẫu.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/4/2019

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

người trẻ thời 4.0

Nhiều tác giả

Hồ Ngọc Đoan Khương, Trần Lê Hoa Tranh, Phương Dung, Diễm Trang, Thanh Vy, Hạnh Jiu, Kim Loan, Phương Thúy, Ngọc Huyền, Nguyễn Hồng Anh, Đoàn Khuyên, Hoàng Mai, Vũ Thị Thanh Tâm, Hạ Nguyên, Ngô Phương Từ.

Người “suýt” trẻ nghĩ về người trẻ

Mà người trẻ là ai vậy?

Là những ai nhỏ hơn các đấng bậc trung niên và đã qua tuổi thanh thiếu niên.

Là những ai đang tự hào đoan chắc mình là nhân vật chính trong mấy câu triết lý nhan nhản trên mạng kiểu “Tuổi thanh xuân giống như một cơn mưa rào, dù cho bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa thì bạn vẫn muốn được đắm mình trong cơn mưa ấy lần nữa” hay “Không điên cuồng sao gọi là thanh xuân?”.

Là những ai sáng vẫn ngủ nướng ngon lành nếu không phải đến lớp hoặc chỗ làm, trưa thèm bánh tráng trộn, trà sữa, tối thở dài vì thảm trạng FA (forever alone) và tối hôm sau lại khóc ướt gối vì thất tình hoặc vì được nhiều người vây bủa quá.

Là những ai kè kè chiếc điện thoại dù thượng vàng hạ cám gì thì nhất định không được ngốc xít mà phải thông minh và vô Facebook được.

Là những ai hừng hực khí thế xông pha vào tất thảy mọi sự trên đời.

Và, là những ai nghĩ mình trẻ

(như tôi chẳng hạn, ha ha!).

Hay là thử phác thảo chân dung người trẻ thời 4.0 bằng một tập sách?... Để chúng tôi hình dung, mô tả, nhận xét… về người trẻ Việt trong thời đại ăm ắp công nghệ và những biến động toàn cầu này liệu có khách quan không, có đầy đủ không? Chắc chắn là không. Nhưng tin rằng bức tranh người trẻ do chúng tôi họa nên có một dấu ấn riêng, trước hết vì nó được khởi nguồn từ chất liệu rất thật: tuổi trẻ của chính chúng tôi, say sưa kể câu chuyện của mình, lấy chính bản ngã của mình - từ chuyện ăn-đọc-họclàm-chơi đến chuyện ý thức, sức khỏe, đức tin, yêu đương, sai lầm... - để đong đếm, đánh giá về người trẻ đương đại.

Sài Gòn, 28/03/2019

Diễm Trang 

- Người trẻ cứ sai vì cuộc đời cho phép, cứ trả giá vì ngã rồi tự khắc lớn khôn thêm.

- Nếu chúng ta quan niệm văn hóa dân gian như một không gian văn hóa truyền thống, phi chính thống, linh hoạt và tương thích với từng thời đại, thì sẽ không có gì là xộc xệch nếu chúng ta xếp mạng xã hội hay môi trường internet đương đại vào khung văn hóa dân gian cả

- Đoạn tuyệt với lịch sử, với truyền thống sẽ tạo nên những công dân bơ vơ, mất ý thức về bản sắc - điều tạo nên căn cước của mỗi chúng ta trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa

- Các độc giả hãy tận hưởng một kỷ nguyên thông tin đa sắc màu, hòa mình vào thế giới sống động ấy một cách khôn ngoan, không tự biến mình thành “con trâu” để bị xỏ mũi.

- Đã xưa rồi cái thời muốn đi ăn, đi uống cà phê phải hỏi dò tìm quán, đi mua quần áo phải tới tận tiệm để thử đồ, đi chơi phải lên kế hoạch hàng mấy tháng trời hay có khi từ… năm trước. Bây giờ, chỉ cần một chiếc smartphone có kết nối mạng, bạn muốn gì cũng có và đi đâu cũng tới chỉ trong vòng một nốt nhạc.

- Mỗi nơi các bạn đến, những trải nghiệm, những kiến thức và kinh nghiệm mà các bạn có được, thông qua mạng xã hội đã giúp cho mọi người gần nhau hơn, có thêm nhiều chọn lựa hơn cho những dự định và những mơ ước của chính mình.

- Nylon và câu chuyện môi trường muôn thưở. Dẫu biết rằng muốn làm nên sự khác biệt có lúc cần phải quyết liệt và cực đoan, nhưng mình không phải là nhà hoạt động môi trường, mà chỉ lựa chọn điều chỉnh hành vi của bản thân sao cho thân thiện hơn với môi trường qua từng ngày.

- Chúng ta có nhiều cách trưởng thành, du học là một trong những cách trưởng thành. Du học là chuyến đi lớn của cuộc đời, là cơ hội để các em trải nghiệm, vấp ngã, bước ra khỏi vùng an toàn và trưởng thành.

- Trước đây, khi giáo dục còn mang tính ao làng, cái lớn nhất người du học đạt được là kiến thức. Nhưng bây giờ, cái quý nhất của một du học sinh là học được cách để làm mọi việc tốt nhất.

Để mở cánh cửa này, người trẻ cần hai chìa khóa là ngoại ngữ và khả năng tự học tốt

- Hãy tận dụng triệt để mọi cơ hội và phát huy nội lực của mình. Khi đó, ngoại cảnh lý tưởng sẽ mở ra trước mắt.

Cơ hội dành cho tất cả, hãy chắc chắn là mình muốn và xách ba lô lên thôi!

- Thực lòng, tôi thích phép thử và sai đó, hơn là bất kỳ sự lửng lơ nào. Dù sao thì khi ta sai, ta sẽ biết cách đối xử với tương lai bằng điều đúng đắn hơn.

Đau khổ ư? Thì có gì đáng sợ? Ta chẳng phải đang có tuổi trẻ để chống đỡ lại rồi đó sao?

- Tính dục là chuyện tự nhiên của con người từ khi đến tuổi dậy thì. Tôi đã đọc ở đâu đó sự xếp hạng các hành vi tính dục. Các nhà khoa học nói nhu cầu về tình dục trong con người cũng tự nhiên và cần thiết giống như các nhu cầu ăn, uống, ngủ nghỉ… Bởi vì nó tự nhiên, nó cần được diễn ra một cách tự nhiên giữa những người đã có ý thức đầy đủ về cơ thể, về nhu cầu, về tâm lý.

- Những cô độc, hoang mang, khổ nhục của nạn nhân một vụ quấy rối tình dục hay lạm dụng tình dục hệt như một hố sâu thăm thẳm chực chờ nuốt chửng nạn nhân.

- Ở thời đại mà cách mạng công nghiệp đã bước sang 4.0, con cái không làm theo lời cha mẹ - như chuyện hôn nhân - chưa hẳn đã là bất hiếu.

- Hạnh phúc thật sự chỉ đến từ cảm giác an bình và hài lòng, tạo ra bởi nuôi dưỡng lòng vị tha, bình yên, từ tâm, xóa bỏ ngu muội, ích kỷ và tham lam.

- Yêu thương con cái không có nghĩa là áp đặt cho chúng một đích đến mà chúng không mong muốn.

Hãy để cho con cái của mình được quyền lựa chọn và biết chịu trách nhiệm với những lựa chọn ấy.

- Để trở thành một người thực sự trưởng thành, người ta phải va đập với bao sóng gió bão bùng của cuộc đời.

- Có người nhận ra, có người không nhận ra, rằng chúng ta mặc cảm ít nhiều với chính gương mặt mình đã được chỉnh sửa. Cái đẹp đó là ảnh ảo, cái tôi đó chỉ trưng ra được trong thế giới ảo. Còn ta? Ta vẫn là cái đứa “đẹp vừa” này thôi mà…

 - Tôi thà sống cuộc đời mưa nắng hơn những êm đềm mà thiếu vắng cảm xúc cho nhau..

- Phải luôn cảnh giác làm rõ tư duy chính mình, phân tích, đánh giá, lắng nghe những ý kiến khác, xem xét lại chính kiến... bởi nhận định của ta không phải lúc nào cũng đúng.

- Trong môi trường giáo dục hiện nay, học sinh Việt Nam gần như không có cơ hội để luyện tập thói quen tư duy phản biện.

soi gương bằng người

SOI GƯƠNG BẰNG NGƯỜI

Bạn thân mến,

Cuốn sách bạn cầm trên tay, lần này là tuyển hợp những bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí Đẹp, Tuổi Trẻ, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Phụ nữ, Thế giới tiếp thị... từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2019. Một vài tính thời sự trong đây có thể thay đổi nhưng ý nghĩa nhân văn, thế sự vẫn nguyên vẹn. Vẫn là cách xếp đặt ngẫu nhiên theo thứ tự chữ cái như các cuốn in trước, chỉ khác bên dưới mỗi bài viết lần này, tác giả không ghi tên báo, ngày tháng đã đăng; như một tiết chế tính thông tấn cho những câu chuyện, câu chữ, xét cho cùng chỉ để đeo mang chút nhân tình... 

VIỆT LINH

SOI GƯƠNG BẰNG CHỊ

Tôi đọc bản thảo Soi gương bằng người của chị Việt Linh trong những ngày sương mùa xuân còn chưa tan ở Hà Nội. Tôi nghĩ rằng, bạn đọc chỉ cần đọc tên cuốn sách thôi, cũng có thể hình dung ra phần nào tinh thần của nó. Soi gương bằng người, nhìn người để soi mình, lặng yên nhìn cuộc đời để nhận ra những chân giá trị giản dị mà nhân văn nhất. Tôi rất thích cái tinh thần ấy. Có lẽ là, đến một thời điểm nhất định, sau những năm tháng quẫy đạp để trồi lên khỏi cái bề mặt cuộc sống, nhằm đạt tới những cái đích nào đó, nhằm ghi danh mình vào đâu đó, người ta sẽ muốn dừng lại.

Dừng lại và điềm tĩnh nhìn cái cuộc sống đang diễn ra, đang trôi đi ngay bên cạnh mình. Nếu không dừng lại mà cứ lao đi với tốc độ không thể kìm hãm thì có lẽ cho đến tận lúc nhìn thấy cái chết, cũng không kịp nhận ra mình đã đi qua cuộc đời như thế nào, không thể nào phác họa nổi chân dung cuộc đời. Và khi đọc cuốn sách này, có lẽ, rất nhiều người sẽ muốn dừng lại để nhìn, để lắng nghe, để cảm nhận những gì đang lay động xung quanh. Nhưng để có thể điềm tĩnh như thế, có thể nhìn mọi điều diễn ra xung quanh bằng con mắt bao dung, độ lượng; nghĩ thong thả và sâu sắc, thì phải có không ít những năm tháng sống hết mình, thậm chí có lúc đày đọa mình trong khổ ải của lao động, của tư duy, thậm chí cũng phải đau đớn nhìn những mất mát. Tôi tin vậy.Chị Việt Linh, tôi thích gọi chị là chị Linh, một cách ấm áp, luôn có cách đặt vấn đề bất ngờ và thú vị. Một điều mà chị thường làm, là nghĩ ra tên bài viết trước khi viết. Tôi thấy khá là thú vị. Có những bài viết chị nghĩ ra cái tên từ... ba năm trước khi thực sự viết vào nội dung. Tôi thường viết xong mới nghĩ cái tên, chị thì ngược lại. Nó cho thấy một lối tư duy chủ động. Tôi cứ nghĩ rằng lối tư duy ấy sẽ bó buộc cảm xúc của chị, nhưng hóa ra không phải. Chỉ trong vài trăm chữ, vẫn thấy nó phóng khoáng vô cùng. Nó có thể mở ra từ rất nhiều hướng. Nó đủ gây bất ngờ đối với người đọc. Tôi gọi đây là bản lĩnh tư duy. Bản lĩnh này khó có thể đến từ những người trẻ tuổi.

Chị Linh, trong cuốn này, vẫn cái giọng điềm tĩnh, thư thả, có cảm giác như chị rủ rỉ tự nói cho mình nghe trước khi viết cho bạn đọc thấy - như là khi chị viết những bài trong cuốn 5 phút với ga xép, in cách đây chưa lâu. Tôi đặc biệt mê cái cách quan sát và chiêm nghiệm của chị. Bất kể chuyện gì, dù lặt vặt nhỏ bé đến đâu, qua sự quan sát của chị, đều mang tới một đúc kết, một triết lý vừa giản dị, vừa sâu sắc. Chị kể chuyện con gái thích ăn món thận, nhưng ở Pháp không có ai lọc phần hạch hôi bên trong giúp chị như các chợ ở Việt Nam, vì vậy, chị rất khó chịu khi phải làm việc đó. Và có lần chị nghĩ ra “Cứ lọc cắt phần thịt tốt xung quanh, cho tới khi đụng nang giữa thì ngưng lại, bỏ qua! Từ khi thực hiện phương pháp “bỏ qua” đó chị không ngán làm thận nữa, hơn vậy, còn nhận ra một suy ngẫm lý thú. Rằng nếu ta chỉ nâng niu những điều tốt đẹp, không để tâm cái xấu thì mọi thứ sẽ trở nên trôi chảy, nhẹ nhàng”. Vâng, bớt để tâm đến cái xấu thì mọi thứ sẽ trở nên trôi chảy, nhẹ nhàng. Lối tư duy này khiến cho mỗi ngày trôi qua của con người ta giữa cộng đồng, với đầy những nhếch nhác nhem nhuốc sẽ trở nên nhẹ nhõm bao nhiêu. Và nó như một quan điểm uyển chuyển nhưng bất biến trong mọi vấn đề mà chị gặp phải trong đời sống. Chị có nhiều năm sống ở nước ngoài, nhưng như chị viết, chị luôn nhớ Sài Gòn, luôn dành dụm tiền để liên tục trở về. Một Sài Gòn thân thương vô cùng trong cảm xúc của chị. Tôi thấy rõ sự yêu mến quê hương của chị. Quê hương còn nghèo khó, lạc hậu, thói hư tật xấu thì vô vàn trong cuộc sống thường nhật, nhưng cho dù là từ nước Pháp nhìn về hay khi đang ở quê nhà, cái nhìn của chị luôn thấm đẫm thương mến, tha thiết, độ lượng. Chấp nhận cả hay lẫn dở, như là một lẽ tất nhiên. Càng đi xa càng thấy mình bé nhỏ, đi xa để biết mình là ai, để ngẫm nghĩ về nơi đã sinh ra, dung dưỡng mình và luôn đón đợi mình quay về. Điều này khiến tôi xúc động vô cùng. Và tôi nghĩ, phải là người có tầm vóc về trí tuệ, văn hoá thì mới có thể yêu thương tận đáy lòng cái nghèo khó, thiếu thốn, thiếu sót, hạn hẹp mà càng ngẫm càng thấy rõ ấy. Tôi thích sự duy mỹ trong nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống của chị. Đôi khi, tôi cảm nhận được sự lấn bấn giữa việc đòi hỏi mọi thứ phải “đẹp” thì sẽ chấp nhận bằng cách nào những thứ chưa “đẹp”? Chị đi ăn cỗ cưới, đám cưới ở khách sạn 5 sao. Tuy nhiên, kết thúc bữa cỗ khá là hoàn hảo ấy, lại là món tráng miệng thạch rau câu để trong hộp nhựa với những cái thìa tí xíu, thường thấy ở các hàng ăn vặt, giá rẻ. Việc kết thúc bữa tiệc bằng món thạch rau câu trong hộp nhựa đã gần như “xoá sổ” bao nhiêu công phu trước đó của những người tổ chức. Hay là bàn đến chiếc áo dài. Áo dài muốn đẹp thì phải được mặc trên người đẹp, vậy những người mà vóc dáng không đẹp nhưng vẫn muốn mặc áo dài thì phải làm sao? Bảo họ đừng mặc áo dài vì làm xấu áo dài đi hay sao?

Chị đã cứ thong thả đi giữa ồn ào này bằng cái tâm thế lặng yên quan sát, ngẫm nghĩ. Để có thể lặng yên, điềm tĩnh và khiêm nhường khi nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng như thế, tôi vẫn cho rằng phải là người đã đi qua được hết chính những ồn ào ấy. Sự khiêm nhường trong từng câu chữ khiến tôi kính trọng chị. Trong đời sống này, dễ thấy càng biết ít càng nói nhiều, và càng biết nhiều thì càng nói ít. Nói ít, nhưng từng câu từng chữ đều nặng trĩu, đầy ẩn ý, nhiều tầng nghĩa. “Mỗi sáng, đứng bâng khuâng giữa các mảng xanh, chị lại lan man ý nghĩ đời cây rốt cuộc cũng mang máng đời người: Cứ chịu khó “ngắt” bớt ưu phiền, “tỉa” bớt quan hệ héo úa thì cuộc sống sẽ bớt u xám, nhàu nhĩ - nếu ta vốn tin nó u xám, nhàu nhĩ” - Tôi sẽ rất nhớ đoạn trích này trong cuốn sách của chị. Tôi vốn không tin cuộc sống u xám, nhàu nhĩ, nhưng quả thực đôi khi tôi thấy mệt mỏi, kiệt sức, đôi khi thấy sao mà ông trời lại thử thách mình quá thế? Đấy là những lúc yếu đuối, và bất lực. Có lẽ là ai cũng sẽ có ít nhiều lần phải đối diện với những khoảnh khắc như vậy. Vậy thì, hãy tỉa bỏ nó đi, như là khi chị Linh tỉa bỏ những cái lá úa vàng trên sân thượng, để những cái cây - đời trở lại xanh tươi.

Tôi viết những dòng này, không biết rồi chị sẽ đặt vào đâu trong cuốn sách. Nhưng tôi muốn nói với chị rằng, chưa khi nào viết về một cuốn sách mà tôi lại viết trong tâm thế này. Tôi thấy ấm áp khi đọc hơn sáu mươi hai nghìn chữ, tôi thấy chị gần gũi và thân thiết, tôi thấy chị chạm hơi thở của chị vào trái tim và tâm hồn mình, thấy chị chạm những ngón tay gầy vào vài sợi tóc mai đã lác đác ngả màu của mình.

Cảm ơn chị vì đã cho em soi gương bằng chị, khi đọc Soi gương bằng người. 

Đỗ Bích Thúy

MÃI MÃI KHÔNG HIỂU ĐƯỢC

Khi những tờ báo giấy dần thưa vắng trên các sạp báo; khi những trang tạp văn, dù vẫn được post lên trang báo mạng, nhưng đã nhường chỗ cho những tin tức “hot trend”, thì một người viết tạp văn như Việt Linh chắc phải có đủ sự nhẫn nại, hay phải mang một thứ tình yêu gần như “bất chấp”, thì mới có thể tỉa trồng tiếp tục những trang văn. Nói như vậy, không có nghĩa Việt Linh “một người một ngựa”, mà so với những cây bút tạp văn từng “tưng bừng” một thời, như Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Trương Quý...; thì Việt Linh vẫn giữ sự sôi nổi và nét duyên ngầm.

Tôi nghĩ, sở dĩ Việt Linh giữ được sức bền của đường trường ấy, vì chị ít bị tác động bởi ngoại cảnh, kiểu “lời ong tiếng ve”. Việt Linh, một mặt chăm chú vào nội tâm mình, mặc khác là người xê dịch và lắng nghe bao chuyện đời chuyện người, mà lúc nào cũng có cảm giác biết ơn. Lấy cái tôi làm một chỗ dựa vừa đủ để vân du qua cõi người. Chính vì cái lẽ cận nhân tình như vậy, mà những câu chuyện nhân gian của Việt Linh chưa bao giờ cạn, mặc dù đôi khi căn thể hao hụt và chênh vênh, như một điều không tránh khỏi của nghề nghiệp lẫn tuổi tác. Cho nên, đọc tạp văn của Việt Linh cũng là để biết những câu chuyện đời. Vui có. Buồn có. Thú vị có. Phẫn nộ có. Chính trường có. Ái tình có. Như đủ hết các loại món ăn, từ Đông sang Tây; với đủ hết các kiểu gia vị. Tạp bút của Việt Linh, vô tình là chất liệu sống hay là nguyên liệu viết cho những nhà văn, nhà làm phim; nếu chẳng may... bí đề tài.

Đọc tạp văn của Việt Linh, tôi thích cái cách chị nhận ra những người bình thường tử tế giữa mênh mông biển người. Cũng như cái cách chị đọc trong cả rừng tin tức Đông Tây, vẫn lẩy ra những câu chuyện nhỏ, nhưng đầy ấm áp tình người. Và, như vậy, đó không phải là cách viết mà chính là cách sống, cách chơi. Không biết do “quy hoạch” trang báo, hay do chủ ý cách viết, mà càng về sau này, những bài tạp văn của Việt Linh trở nên ngắn gọn, súc tích hơn. Tính tâm lý chủ quan cũng ít hơn, thay vào đó là “tính chủ quan ngoại cuộc” (subjectivité hors situation) được sử dụng nhiều. Có nghĩa là tác giả vẫn để cái tôi dự phần vào, nhưng ít phán xét, thậm chí không bình luận. Như tạp văn Cao hứng bên sông, Chỉ biết mình yêu thôi; là hai tạp văn ngắn gọn, hai phong cách khác nhau, nhưng đều cung cấp những dữ liệu thú vị để người đọc tham gia vào, dĩ nhiên là theo cái cách của từng người. Như cái cách của mình thì tôi thích tạp văn Chỉ biết mình yêu thôi, hơn là Cao hứng bên sông. Tôi thích nghe một câu chuyện nhân gian hơn là sự giáo huấn về lịch sử, hay bài học về văn hóa ứng xử.

Tôi cũng thích tạp văn Chuột và người hơn là Cảm ơn tai nạn. Câu chuyện bà già bán trái cây, mỗi khi thấy cô gái bán bánh cuốn bưng nồi nước sôi trút xuống miệng cống thì giật mình, bai bải kêu lên: “Nước sôi... nước sôi”, thật ấn tượng. Cái ấn tượng, kỳ thực không phải từ câu chuyện, mà từ chính nhân vật: bà già bán trái cây. Thế mới biết, trên đời này, có những người mang Phật tính dù không là phật tử hay siêng năng cúng dường chùa chiền. Mặc dù không cần biết chuột có hiểu tiếng người không, nhưng vẫn cứ la lên để đánh động, để không còn thấy cảnh những con chuột bị nước sôi dội xuống lột da trắng hếu.

Nhưng, câu chuyện này sẽ trở thành một câu chuyện khác, khi bà già bán trái cây không còn ở đó nữa. Cho nên, xét cho cùng, chẳng có bài học nào là tồn tại, nếu chúng ta không chịu “soi gương bằng người”. Người đấy. Cứ lấy người ra mà soi gương. Mỗi người là một tấm gương. Chúng ta soi vào nhau để sống cho tử tế hơn, thanh thản hơn. Cuộc sống có những điều mãi mãi chúng ta không hiểu được. Nhưng khi ngộ ra được điều này thì chúng ta hiểu cuộc sống thật sự thú vị. Như trong tạp văn Cuộc sống luôn bất ngờ của Việt Linh, đám thanh niên người Pháp mãi mãi không hiểu được vì sao một “bà già” Việt Nam lại có thể chụp những bức hình “đỉnh” đến như vậy. Anh chàng đi cái xe đạp xẹp lốp cũng mãi mãi không hiểu được, vì sao “ông già” kia lại thành thạo cái máy bơm hơi đến thế. Và, thật hài hước khi “con ma châu Á” le lưỡi “nhát ma” cô đầm Tây, mà cô đầm chắc mãi mãi cũng không hiểu được.

Chúng ta làm sao hiểu hết cuộc đời này? Vẻ bề ngoài. Những lớp vỏ ngôn từ. Đều là những giới hạn. Kể cả những câu chuyện cũng không bao giờ được kể hết. Cũng chính câu chuyện đó nhưng lại có những phiên bản kết thúc khác nhau. Mãi mãi chúng ta không hiểu được, nhưng đó mới chính là cuộc sống.

Cuộc sống thì luôn bất ngờ. Tạp văn của Việt Linh cũng vậy. 

Sài Gòn IV/2019

Trần Nhã Thụy

13
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

  • Giới Thiệu
  • Chính Sách Bảo Mật
  • Liên Hệ
  • Email: Taisachebook@gmail.com