Kho báu của nhà Tom và Ngõ nhà Na là hai tập truyện tranh thiếu nhi với sự kết hợp thú vị giữa tác giả Bùi Sao và họa sĩ Vy Rùa. Đây cũng chính là hai tác phẩm đầu tiên nằm trong Tủ sách trái tim dành cho thiếu thi do NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM vừa khởi động trở lại vào dịp cuối năm 2019.
* Họa sĩ Vy Rùa, đến từ hành tinh hoạt hình, yêu các bạn nhỏ xinh và thích vẽ mấy thứ lung linh.
Kho báu của nhà Tom và Ngõ nhà Na sẽ kể cho bé nghe những chuyện thường ngày xảy ra xung quanh chúng ta từ chuyện trong nhà, chuyện ngoài ngõ, chuyện xóm giềng và những người bạn từ thuở nhỏ của bé. Nghe những câu nói, câu hỏi của trẻ con có vẻ ngô nghê nhưng đó là những bước đầu nhận biết và khám phá thế giới của bé đó, ba mẹ ạ!
Ví như, trong truyện Kho báu của nhà Tom thì kho báu của mỗi người là gì?
Ở lớp, những đứa trẻ vẫn thì thầm với nhau:
- Nhà Tom có kho báu đấy!
Mắt bọn trẻ tròn xoe, ngưỡng mộ và ngạc nhiên.
Tại sao các bạn lại nói nhà Tom có kho báu nhỉ?
Chúng mình thử tìm hiểu xem!
Có người nghĩ xa xôi nhưng cũng có người cần một kho báu giản dị gần ngay trước mắt. Theo bạn, kho báu của bé Tom và những người thân trong gia đình sẽ là gì? Đôi khi, trên hành trình tìm kiếm kho báu yêu thương có rất nhiều hiểu lầm, khúc mắc, giận dỗi... Nhưng mỗi chúng ta hãy bao dung và tha thứ cho nhau. Khi ấy, chúng ta lại sở hữu một kho báu khổng lồ vĩ đại!
"Văn học dân gian Tiền Giang được Khoa văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM triển khai sưu tầm trong 2 đợt với tổng số cộng tác viên mà nhóm sưu tầm điền dã tiếp xúc là 1851 người, làm việc tại các địa bàn xã trong thành phố Mỹ Tho, các huyện Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, huyện Châu Thành, Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước.
Kết quả sưu tầm văn học dân gian Tiền Giang cả hai đợt, bao gồm 26371 đơn vị tác phẩm ở nhiều thể loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyền cười, đồng dao, hò, lý,hát ru, đờn ca tài tử, truyện đố...và nhiều thể loại khác.
Sau khi lọc bỏ, tinh chọn, phân loại và chỉnh lý toàn bộ văn bản tác phẩm thô được sưu tầm trong 2 đợt, nhóm sưu tầm điền dã giữ lại được 1.021 câu đố, 903 câu tục ngữ, 108 truyện kể, 1.251 câu ca dao, 49 bài vè.
Cuối phần tác phẩm sưu tầm của mỗi thể loại, nhóm sưu tầm điền dã đều ghi rõ thông tin của những cộng tác viên đã cung cấp cho nhóm những tác phẩm trên"
Có thể nói, đây là một công trình điền dã đồ sộ, chi tiết, tỉ mỉ, nghiêm túc và trung thực...Một tài liệu rất hữu ích cho các bạn sinh viên đặc biệt là sinh viên ngành văn học
"Văn học dân gian Tiền Giang được Khoa văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM triển khai sưu tầm trong 2 đợt với tổng số cộng tác viên mà nhóm sưu tầm điền dã tiếp xúc là 1851 người, làm việc tại các địa bàn xã trong thành phố Mỹ Tho, các huyện Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, huyện Châu Thành, Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước.
Kết quả sưu tầm văn học dân gian Tiền Giang cả hai đợt, bao gồm 26371 đơn vị tác phẩm ở nhiều thể loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyền cười, đồng dao, hò, lý,hát ru, đờn ca tài tử, truyện đố...và nhiều thể loại khác.
Sau khi lọc bỏ, tinh chọn, phân loại và chỉnh lý toàn bộ văn bản tác phẩm thô được sưu tầm trong 2 đợt, nhóm sưu tầm điền dã giữ lại được 1.021 câu đố, 903 câu tục ngữ, 108 truyện kể, 1.251 câu ca dao, 49 bài vè.
Cuối phần tác phẩm sưu tầm của mỗi thể loại, nhóm sưu tầm điền dã đều ghi rõ thông tin của những cộng tác viên đã cung cấp cho nhóm những tác phẩm trên"
Có thể nói, đây là một công trình điền dã đồ sộ, chi tiết, tỉ mỉ, nghiêm túc và trung thực...Một tài liệu rất hữu ích cho các bạn sinh viên đặc biệt là sinh viên ngành văn học
Trong lịch sử, văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng lên nước ta là điều không ai có thể phủ nhận. Có thể nói, các mô hình xã hội, chính trị, văn hóa, thi cử, quan trường… kể cả văn tự trong mấy ngàn năm ông cha ta đều ít nhiều vay mượn của họ. Thế nhưng, trong những khu vực mà chúng ta tiếp cận lại có một bộ môn hầu như khá mơ hồ, sự hiểu biết có giới hạn. Đó là phát triển quân sự - đặc biệt là những suy nghĩ triết học của người Trung Hoa về chiến tranh như thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu cách tổ chức quân đội hay bố phòng nhưng rất khó nắm bắt được những động lực vận hành bộ máy ở đằng sau.
Một sự thực khá hiển nhiên, Trung Hoa là quốc gia gây hấn với lân bang nhiều nhất nhưng luôn luôn tìm cách giải thích cho những lần động binh, coi như việc chẳng đặng đừng chỉ cốt để vươn dài chính nghĩa chứ không phải vì lợi lộc. Cho nên, học thuật quân sự của họ cũng có hai phần, một phần hình nhi thượng có tính triết học biện minh cho chiến tranh, một phần hình nhi hạ bao gồm những công tác để hiện thực hóa chiến tranh đó. Chúng ta ít nhiều biết mưu lược, thủ đoạn của họ qua Tam Quốc chí, Thủy hử, Đông Chu liệt quốc..., nhưng không biết đến một cách lớp lang, chưa kể nhiều khi có những ấn tượng rất sai lạc trên thực tế.
Không hiếm người cho rằng ra trận chỉ cần một viên tướng khỏe, giỏi võ nghệ phi ngựa ra thách đấu, thắng bại tùy thuộc vào cá nhân chứ không vào tập thể. Cũng có người lại quan tâm đến trận đồ, phù phép và hành quân không khác gì một bàn cờ mà hai bên phải tôn trọng những quy luật đã được định sẵn. Những giới hạn đó không phải không có nguyên nhân. Trước hết nước ta cũng như Trung Hoa có tinh thần trọng văn, khinh võ. Trong xã hội, quan võ luôn luôn bị coi thấp hơn quan văn và nỗi rẻ rúng đó bắt nguồn từ việc võ quan bị đồng hóa với người ít học, vai u thịt bắp.
Những võ quan cũng chỉ được tuyển mộ qua cưỡi ngựa bắn cung, xách tạ, lăn khiên… mà không được học tập một cách bài bản các kỹ thuật và kiến thức bài binh bố trận.
Thứ hai, binh thư vốn là sách cấm, những ai tàng trữ trong nhà hay lén đọc nếu phát giác có thể bị khép vào tội âm mưu phản loạn. Kiến thức quân sự vì thế hầu như chỉ thu lượm qua những bộ tiểu thuyết chương hồi không cung cấp cho con người một sở học đúng đắn. Đến khi hữu sự, việc chỉ huy lại giao cho một nguyên soái gốc là quan văn, quen với thơ phú hơn binh bị.
Trong tài liệu nước ta, sách vở do người mình trước tác về quân sự hầu như rất ít. Chỉ đến gần đây, chúng ta mới biết đến Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn và Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ mà thực chất cũng chỉ là những loại sổ tay (manual) bao gồm một số kiến thức cơ bản dành cho võ quan, dạy cách thức hành quân cấp nhỏ chứ không phải bàn về chiến lược quốc gia.
Ngược lại, Trung Hoa đã hình thành những tác phẩm quân sự từ lâu, nhiều công trình nghiên cứu quy mô đã xuất hiện từ cổ đại nhưng đến nay vẫn còn giá trị. Những tác phẩm đó không những bàn về chiến thuật, chiến lược mà còn hình thành một triết học quân sự gắn liền với văn hóa Trung Hoa, là những đóng góp đáng kể cho văn minh nhân loại.
Để tìm hiểu cũng như đánh giá động thái của một quốc gia to lớn ngay sát bên cạnh chúng ta, chúng tôi xin giới thiệu công trình của một học giả Đài Loan, hiện đang sống ở Canada. Đó là bản dịch cuốn Chinese
Military Theory: Ancient and Modern (Lý thuyết quân sự Trung Hoa xưa và nay) của TS. Chen-Ya Tien (田震亞: Điền Chấn Á) do Nhà xuất bản Mosaic Press, chi nhánh ở Oakville, Ontario, Canada ấn hành năm 1992.
Bản dịch này trước đây đã được Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2004. Trong kỳ tái bản này, chúng tôi có bổ túc thêm nhiều chi tiết chưa đầy đủ như Sách dẫn (Index), Từ khố (Glossary) và Thư mục tham khảo của chính tác giả. Một số chữ dùng cũng được chỉnh lại theo lối gọi chính thức hiện nay. Quốc hiệu của Trung Hoa thay đổi theo từng thời kỳ nhưng để cho giản tiện, thời kỳ trước năm 1949 chúng tôi dịch là Trung Hoa, sau năm 1949, khi Mao Trạch Đông làm chủ Hoa lục, tên chính thức của họ là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chúng tôi dịch gọn lại là Trung Quốc.
Lần tái bản này sẽ không thực hiện được nếu không có sự nỗ lực của TS. Trần Đức Anh Sơn và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Người dịch chân thành cám ơn những người bạn đã dành công sức để một lần nữa giới thiệu với độc giả tác phẩm này.
Tháng 9.2017
Dẫn nhập
Kể từ giữa thập niên 1970, xu hướng chính trị thế giới đã dần dần tách ra khỏi đạo lộ đối cực để đi vào một hệ thống đa phương. Theo nhiều tài liệu khác nhau, những trung tâm quyền lực chính trị mới của thế giới có thể gồm cả Cộng đồng châu Âu, Liên Xô, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc. Trên định nghĩa kinh tế và quân sự, Trung Quốc có lẽ kém xa hai siêu cường kia và cũng chưa mạnh như hai cường lực còn lại trong một tương lai gần. Tuy nhiên, nếu nhìn vào dân số to lớn, tài nguyên dồi dào và một diện tích địa lý vĩ đại thì không ai dám phủ nhận là nếu không có những khủng hoảng xã hội - chính trị nội tại nghiêm trọng, Trung Hoa sẽ tiến lên trở thành siêu cường thứ ba và có một ảnh hưởng mạnh mẽ trên chính trị toàn cầu và an ninh thế giới.
Kể từ thập niên 1950, các học giả phương Tây khi nghiên cứu về quân sự Trung Quốc đã chú trọng đặc biệt tới Quân Giải phóng Nhân dân (People’s Liberation Army - PLA), lý thuyết về chiến tranh nhân dân hay những nguyên tắc quân sự, chủ thuyết và chính sách quốc phòng của Trung Quốc đại lục. Rất ít người nghiên cứu sâu hơn về các hệ thống quân sự cận đại hay lịch sử phát triển các tư tưởng quân sự.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của các tư tưởng quân sự Trung Hoa không chỉ liên quan đến việc hoạch định chính sách mà còn quan trọng trong việc hiểu biết Trung Hoa cận đại và các hệ thống quân sự của họ vì hệ thống hiện đại nào cũng bắt nguồn từ lịch sử. Ðó là lý do tại sao nghiên cứu này bàn cả tới một phần triết học quân sự Trung Hoa thời cổ để tìm hiểu sự liên tục và ảnh hưởng tới việc phát triển tư tưởng quân sự Trung Quốc ngày nay.
Trích dẫn nhập NGHIÊN CỨU LIÊN NGÀNH NHƯ MỘT XU HƯỚNG CỦA VĂN HỌC SO SÁNH HIỆN ĐẠI - Trần Thị Phương Phương
Với mong muốn mở rộng phạm vi quan tâm, hội nhập với bối cảnh nghiên cứu trên thế giới đầu thế kỷ XXI, công trình về văn học so sánh của tập thể các nhà nghiên cứu Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, sau cuốn thứ nhất với nhan đề Những cuộc hội ngộ văn chương thế giới - Văn học so sánh: nghiên cứu và dịch thuật tập trung vào các vấn đề lý thuyết và thực hành nghiên cứu nội văn học, được tiếp nối với cuốn thứ hai, tức cuốn sách này Vượt qua những ranh giới của văn chương – Văn học so sánh và hướng nghiên cứu liên ngành.
Các bài viết trong sách cũng đã phần nào chạm tới những vấn đề tiêu biểu nhất mà các nhà văn học so sánh nói riêng, cũng như những người chú ý đến khoa học nhân văn hiện đại quan tâm. Đó là những nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với các loại hình nghệ thuật, đặc biệt là những nghệ thuật sử dụng ngôn từ, thông qua khảo sát những vấn đề lý thuyết kịch có từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, quá trình tiếp biến, cải biên từ các tác phẩm văn học đến những sân khấu truyền thống như hát bội của Việt Nam, khon của Thái Lan, hay việc chuyển thể văn học thành các tác phẩm văn học thời hiện đại. Đó cũng là những hướng tiếp cận nhân học văn học đối với hành động học trong lý thuyết tiếp nhận văn học của của Wolfgang Iser, nhân học văn hóa đối với một số hiện tượng văn học nữ. Những hiện tượng văn hóa đại chúng, dù có từ thời cổ xưa như trò Bói bài Tarot hay chỉ xuất hiện ở đầu thế kỷ này như mạng xã hội nhưng đều tác động không nhỏ đến đời sống cá nhân và xã hội, đã được các tác giả của sách quan tâm khảo sát. Vai trò của báo chí, của chữ viết ở đầu thế kỷ XXI như toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, nữ quyền, sinh thái đều được soi chiếu trong tương quan với văn học.
Trích VĂN HỌC VIỆT NAM ĐỐI MẶT VỚI TOÀN CẦU HÓA - Huỳnh Như Phương
Trong thế giới đang biến đổi với không ít hiểm họa đó, văn học có thể làm gì để bảo vệ dân tộc, bảo vệ con người và bảo vệ chính mình? Văn học chủ lưu của dân tộc cần thu hút phù sa và dưỡng khí từ đất trời của Tổ quốc. Tuy rất kính trọng nhà văn hóa Phạm Quỳnh, và cũng như mọi người Việt Nam, rất yêu tiếng Việt và Truyện Kiều, nhưng từ lâu tôi không tin rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn; có gì mà lo, có gì mà sợ…”. Không, sự còn mất của đất nước không phải chỉ liên quan đến địa hạt ngôn ngữ hay văn học, dù đây là những giá trị vô cùng quan trọng; mà còn là, và chủ yếu là, ở cương vực, lãnh thổ, ở chủ quyền dân tộc, những nền tảng hiện thực cho văn hóa phát triển. Nói “mất văn hóa mới là mất tất cả” có thể gieo rắc ảo tưởng rằng mất chủ quyền, mất lãnh thổ chưa phải là điều đáng sợ. Văn hóa suy đồi chắc chắn sẽ làm suy nhược tinh thần dân tộc, làm rã rời sức mạnh bảo vệ đất nước. Nhưng chủ quyền dân tộc, cương vực, lãnh thổ của Tổ quốc là giá trị vĩnh cửu, là thực thể bất khả nhượng; trong khi văn hóa thì vận động và biến đổi.
Ngày trước ông bà chúng ta đã từng lo âu, thậm chí hoảng hốt trước làn sóng hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Người thiếu nữ trong thơ Nguyễn Bính chỉ mới ra tỉnh có một ngày, mang về một chút đổi thay, đã khiến người trai làng khổ tâm, hờn dỗi. Ngày nay bao nhiêu người con gái bỏ làng đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc… và mang về những đứa con hai dòng máu trước con mắt ngỡ ngàng của các chàng trai hàng ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Họ đã “mất bao nhiêu người tình” trong cuộc “toàn cầu hóa” dị thường này.
Tác động của toàn cầu hóa đối với gia đình Việt Nam không chỉ xuất hiện trên bề mặt như thế mà thôi. Trong âm thầm, một bộ phận tuổi trẻ đang bứt ra khỏi sợi dây liên kết về tinh thần và nới dần khoảng cách với các thế hệ trước không phải chỉ vì họ đi xa tìm kế mưu sinh, mà vì họ có blog, có facebook để kết nối với một thế giới khác do những quy luật giá trị khác điều chỉnh. Toàn cầu hóa đang biến không ít người trẻ trở thành những “người xa lạ”, theo nghĩa hoàn toàn trung tính - nghĩa là chưa định giá là tích cực hay tiêu cực, ngay trên quê hương mình. Không phải quá lời, khi có người nói một cách hình ảnh rằng toàn cầu hóa đang đi vào phòng riêng của từng gia đình.
…
Như người ta thường nói, khi tham gia một cuộc chơi lớn, hoặc ta phải chấp nhận luật chơi của nó, hoặc ta áp đặt luật chơi của ta. Với lực và thế của nước ta, khả năng thứ hai chỉ là chuyện viển vông. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta chấp nhận vô điều kiện luật chơi của người khác. Bởi văn học mãi mãi vẫn là tiếng nói phản ứng của lương tri trước mọi lạm dụng và cưỡng ép. José Saramago, nhà văn Bồ Đào Nha được giải thưởng Nobel năm 1998, là người phản đối, đôi khi hơi cực đoan, những định chế của toàn cầu hóa gò ép nhân loại vào những khuôn khổ. Điều thú vị là chính nhờ toàn cầu hóa, trong đó giải Nobel cũng là một định chế, mà tác phẩm của ông, “mới gọi được cánh cửa trái tim của những người cùng thời” như ông từng ao ước.
“Trong khi phác họa quỹ đạo phía trước của văn học so sánh, một cách để xác định vị trí của chúng ta là nhìn về lại quá khứ”. Nhà văn học so sánh Hoa Kỳ David Damrosch đã viết như vậy khi nói về lịch sử gần hai thế kỷ của văn học so sánh trên thế giới.
Ở Việt Nam, văn học so sánh đến khá muộn, phải vào đầu thập niên 1970 mới có những bài viết đầu tiên giới thiệu về xu hướng này trong khoa nghiên cứu văn học, và đến thập niên cuối của thế kỷ XX - thập niên đầu thế kỷ XXI thì sự quan tâm tới văn học so sánh ở Việt Nam, nhất là trong các viện nghiên cứu và các trường đại học mới thực sự khởi sắc. Khoa Văn học - khi đó có tên là Khoa Ngữ văn, rồi Khoa Ngữ văn và Báo chí thuộc Trường Đại học Tổng hợp, sau thành Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị sớm đưa môn Văn học so sánh vào chương trình giảng dạy đại học và sau đại học, với người khởi đầu là giáo sư Trần Thanh Đạm lúc đó là Trưởng Bộ môn Văn học nước ngoài. Cuốn tài liệu mỏng Dẫn nhập Văn học so sánhđược giáo sư biên soạn và Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 1995 đã trở thành một tài liệu học tập cho nhiều thế hệ sinh viên. Năm 2002, một hội thảo khoa học với đề tài Văn học so sánh: Nghiên cứu và dịch thuậtđược tổ chức, kết quả của nó đã được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội in thành sách với cùng tên gọi vào năm 2003 - đó là cuốn sách mở đầu cho Tủ sách Những vấn đề Ngữ văndo Khoa Ngữ văn và Báo chí chủ trì. Từ đó cho đến nay đã 16 năm trôi qua, Khoa Ngữ văn và Báo chí đổi tên thành Khoa Văn học và Ngôn ngữ rồi thành Khoa Văn học, Bộ môn Văn học nước ngoài từ năm 2008 đổi tên thành Bộ môn Văn học nước ngoài và Văn học so sánh thể hiện định hướng của Khoa, đưa văn học so sánh trở thành một trong những trọng tâm nghiên cứu và giảng dạy. Các hội thảo quốc tế và hội thảo quốc gia liên quan đến những vấn đề văn học so sánh được tổ chức, các tập sách lớn như Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh, Văn học Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh Đông Á do PGS.TS. Đoàn Lê Giang chủ trì phần nào là những kết quả mà Khoa đã có được trong những năm qua, bên cạnh những công trình cá nhân của các giảng viên của Khoa và hàng loạt các luận văn, luận án về đề tài văn học so sánh đã được thực hiện.
Cuốn sách này là sự kế thừa một phần nội dung đã có trong cuốn Văn học so sánh: Nghiên cứu và dịch thuậtnăm 2003, đồng thời bổ sung những bản dịch và những nghiên cứu mới, được thực hiện bởi các giảng viên và những nhà khoa học đã hoặc đang học tập và làm việc tại Khoa.
Phần đầu của sách là những bài viết và bài dịch giới thiệu các vấn đề chung của văn học so sánh, từ những khái niệm cơ bản đã được nói đến từ rất lâu như văn học so sánh, văn học thế giới, văn học tổng quát, các vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, đến những vấn đề của thời hiện tại như chủ nghĩa xuyên quốc gia, phiên dịch học, tiếp nhận văn học như những hướng nghiên cứu được các nhà văn học so sánh đương đại quan tâm.
Hai nội dung tiếp theo là những nghiên cứu cụ thể các hiện tượng văn học của thế giới trong mối quan hệ giao lưu ảnh hưởng và quan hệ song song, loại hình. Các bài viết về văn học Việt Nam cổ điển và hiện đại cũng được trình bày trong tương quan so sánh với văn học khu vực, văn học thế giới.
Và cuối cùng, chúng tôi dành những trang kết của sách cho bài viết của cố giáo sư Trần Thanh Đạm như một sự tưởng nhớ và tri ân đối với người đã mở đầu cho hướng nghiên cứu và giảng dạy văn học so sánh của Khoa Văn học. Dù đã được viết cách đây gần 20 năm, nhưng cho đến nay, bài viết vẫn mang tính thời sự, cho thấy những cơ hội, những thách thức và những triển vọng đối với văn học so sánh nói chung cũng như đối với hướng phát triển của Khoa Văn học như một trung tâm của nghiên cứu văn học so sánh ở Việt Nam nói riêng.
Trích VĂN HỌC SO SÁNH VỚI CHÚNG TA - Trần Thanh Đạm
Then chốt trong sinh mệnh và sức sống của văn học so sánh là ở chỗ: từ lúc ra đời cho đến nay, nó đặt mục tiêu nghiên cứu văn học như một lĩnh vực giao lưu văn hóa và nghệ thuật của con người trong các cộng đồng và giữa các cộng đồng qua các thời đại với sự sử dụng ngôn ngữ và văn tự, hai công cụ của sự giao tiếp sâu rộng giữa người và người, để phát triển các cá nhân và các cộng đồng người ngày một trở nên “người” hơn, ngày càng tiến lên các đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn, những giá trị nhân văn xứng đáng với danh hiệu con người và đạo lý làm người.
“Văn học so sánh là sự nghiên cứu văn chương bên ngoài giới hạn xứ sở của một dân tộc, và là sự nghiên cứu những mối quan hệ giữa một bên là văn chương với bên khác là các lĩnh vực tri thức và tín ngưỡng khác nhau như nghệ thuật (hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc,…), triết học, lịch sử, các khoa học xã hội (chính trị học, kinh tế học, xã hội học,…), các khoa học, tôn giáo,… Tóm lại, đây là sự so sánh một nền văn chương với một hay một số nền văn chương khác và sự so sánh văn chương với các lĩnh vực khác của sự diễn tả con người.”
(Henry H.H. Remak, “Comparative Literature, Its Definition and Function”, 1961)
Bộc lộ hứa hẹn sẽ là một thể nghiệm hướng viết mới mẻ hơn trên con đường nghệ thuật của tác giả trẻ Thiên Phong, tác phẩm sẽ tập trung vào việc khai thác nội tâm cũng như cảm xúc ẩn giấu bên trong của các nhân vật một cách sâu sắc nhất. Để đến khi kết thúc câu chuyện, có lẽ bạn sẽ vỡ lẽ ra: “À, hình như cũng có hình bóng mình ở đâu đó”.
Truyện ngắn Bộc Lộ gồm 20 câu chuyện với những đề tựa bắt nguồn từ những cảm xúc của bản thân một cách tự nhiên nhất. Mỗi mẫu chuyện tưởng chừng như biệt lập, riêng rẽ theo từng đề tựa nhưng tổng quan, những mẫu chuyện ấy lại là hợp nhất lại giúp người đọc có thể tìm được lại chính những xúc cảm cá nhân như: Xin lỗi, Kẻ xấu và người hùng, Cơ hội, Người cũ còn thương, Trưởng thành là một loại rượu mang tên quyết định, Cảm ơn vì đã nói câu từ chối, Cho và nhận, Vì sợ cô đơn nên em mặc kệ đúng sai…
Anh giữ trong tim hàng ngàn bí mật
Không ai có thể biết đâu là sự thật
Như một tảng băng ngàn năm chôn sâu trong vạn vật
Anh cố gồng mình không được yếu đuối
Bên em bên em anh chỉ muốn em vui
Nhưng em ơi em ơi anh nhớ em khôn nguôi
Một bức tường thành anh đã dựng nên
Ngăn lại cảm xúc không thể gọi tên
Xin em xin em đừng thử thách sức bền
Chẳng lẽ em muốn anh phải gào lên
Bỏ lại mạnh mẽ anh đã dựng nên
Lời giới thiệu:
Trước tiên phải gửi lời cảm ơn đến những người thương đã một lần nữa lựa chọn cuốn sách của Thiên Phong để làm bạn đồng hành trong những chiều cà phê rỗi rảnh.
Đứa con lần này sẽ lại là một lần nữa khám phá bản thân qua những mẫu truyện ngắn có thật và không thật. Nhưng vô hình trung đều chỉ muốn hướng đến một nỗi khao khát đến tột cùng là Bộc Lộ bản thân.
Mỗi ngày trước khi đi ngủ chúng ta nhìn lại những lựa chọn đã qua và hối tiếc. Mỗi buổi sáng thức dậy chúng ta tự hỏi sẽ có những điều gì sẽ đến và mong chờ. Nhưng cuộc sống của bạn nằm ở hiện tại. Không có đúng hoặc sai. Chỉ có đâu đó ở giữa lằn ranh những số phận sống vật vạ và mập mờ đến đáng thương.
Tôi là một trong số những con người đã từng như thế. Tôi cũng có những người bạn đồng hành cùng mang nhiều trăn trở. Và chúng tôi tụ họp lại quanh cái quầy bar của quán rượu quen và chia sẻ cùng nhau. Thương nhau mà sống, dìu nhau mà bước qua những cơn giông tố của cuộc đời.
Những câu chuyện dưới đây có thể được đọc riêng rẽ mà không cần theo thứ tự trước sau bởi bản chất nó đều mang riêng trên lưng nó những bài học chung mà có khi bạn lại nghĩ khác tôi. Hy sinh, đam mê, tha thứ hay hối tiếc đều chỉ là cảm xúc nhất thời. Duy thứ để lại cho nhau là những khoảnh khắc mãi mãi khó mà xóa mờ.
Cảm ơn những người bạn đã đồng hành cùng với tôi trên một quãng của cuộc đời này. Xin phép lưu lại những cái tên trong miền nhớ tôi bằng những nhân vật trong Bộc Lộ.
Thiên Phong
Thay lời mở đầu
Đường xưa Thuận Quảng
Tiên kiết nhân tâm thuận.
Hậu thị đức hóa chiêu.
Đó là hai câu đầu trong bài ngũ ngôn của vị tham mưu trình chúa Sãi khi đề cử hai hổ tướng Thuận Nghĩa hầu và Chiêu Võ hầu lãnh đạo một chiến dịch an dân.
Khởi nghiệp từ Thuận Hóa, sách lược của chúa Tiên ban đầu là Thuận và Hóa, từ đó củng cố thế lực trên nền tảng Quảng Đức và phát triển theo chiều hướng Quảng Nam. Với quyết tâm tạo lập cõi Nam Hà thành một giang sơn vạn đại, các chúa kế nghiệp giữ đúng đường lối: thu phục nhân tâm, giáo hóa dân trí và mở mang bờ cõi.
“Đất Thuận Quảng này phía bắc có Hoành Sơn và Linh Giang hiểm trở, phía nam có Hải Vân Sơn và Thạch Bi Sơn bền vững, núi sẵn vàng sắt, biển nhiều cá muối, thật là một nơi trời để dành cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để gây dựng cơ nghiệp muôn đời”. Lời chúa Tiên dặn dò chúa Sãi trước lúc lâm chung đã thể hiện rõ ý chí ấy. Hiểm trở là lợi thế để phòng ngự, bền vững là nền tảng để xây dựng. Vàng sắt dành cho công nghiệp và quốc phòng, cá muối cung cấp cho đời sống dân chúng.
Trên đường thiên lý Thuận Hóa - Quảng Nam, các đoàn lưu dân người Việt phải vượt qua nhiều chướng ngại thiên nhiên. Mỗi khi “dừng chân đứng lại” trên đỉnh cao trông vời họ lại thấy mở ra trước mắt một khung cảnh “trời-non-nước” bao la. Tiếng gọi của gió lành nắng ấm phương Nam đầy màu sắc rực rỡ và cuốn hút như nam châm.
Những vùng đất màu mỡ dần dần được thuần thục. Những con sông bốn mùa đầy nước ngọt, tấp nập thuyền bè xuôi ngược. Những vũng vịnh, cửa biển thật thuận tiện cho việc xây dựng các ngư trường và giao dịch với bên ngoài. Thế hệ sau nối tiếp công trình của thế hệ trước. Ước vọng của chúa Tiên: một cõi Nam Hà với cột mốc Thạch Bi Sơn đã thực hiện được. Vùng đất này đã hoàn thành nhiệm vụ Quảng Nam được định danh Phú Yên. Chặng tiếp theo, bên kia đỉnh Đại Lãnh ngất trời là Thái Khang (Bình Hòa) rồi Bình Thuận, là công huân của chúa Sãi và các hậu chúa nối ngôi...
Hơn nửa thế kỷ sau khi Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh tiến vào Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn... Hùng Lộc hầu có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa tiến xa hơn thi hành sứ mệnh lịch sử Thuận Thành. Đồng Nai chỉ còn là gang tấc. Nối tiếp truyền thống phụ thân, Nguyễn Hữu Cảnh - con của Chiêu Võ hầu - mở đất Sài Gòn:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về...
Tầm mắt người dân “Thừa tuyên Quảng Nam” bây giờ rộng mở với một cõi Nam Hà không phải chỉ giới hạn từ Hoành Sơn đến Thạch Bi Sơn mà:
Rồng chầu ngoài Huế. Ngựa tế Đồng Nai...
Cùng với cả cõi Nam Hà, cả Xứ Đàng Trong... những người dân từng trải bao mùa mưa nắng trên đường xưa Thuận Quảng từ đây góp nhiều công sức, cả máu đào, tâm trí, mồ hôi cho đại cuộc của Tổ quốc từ Nam Quan tới Hà Tiên...
(2000)
Trích đoạn:
Trở về Hồ Gươm uống tách trà đậm, nghe nhiều chuyện đời thường. Tôi tự nghĩ bây giờ chắc Hà Nội không còn những đứa trẻ nhặt lá bang. Nhưng phần tôi, phải cố nhặt cho được, càng nhiều càng tốt những lá bang trên mọi nẻo đường quê hương để sưởi ấm những trang viết của mình. - Nhặt lá bàng –
Ôi cái hồn của Xứ Sở, cái ý nhị thâm trầm của một Vùng Đất… càng làm cho ta yêu quý hơn khi nơi đó có một Con Người, có một Tấm Lòng thông cảm cùng ta. Và mỗi ngày ở, mỗi đêm nằm ta sẽ nhận biết thêm một chút để hiểu hơn về chính ta cái thời thanh xuân thuở ấy… - Cảnh và người thuở ấy –
Tôi đã từ giã tuổi thơ trong một chiều thu mưa nhỏ, cho nên mỗi lần tái ngộ cơn mưa nhỏ chiều thu không khỏi nhớ mãi, xa xăm về quá khứ.
Cái hạnh phúc lớn nhất của thời trai trẻ là luôn luôn có cái đích trước mắt để hướng tới. Mùa xuân mở ra những dự định, mùa thu nhìn lại ngày tháng đã qua, điều chỉnh, thay đổi để mùa đông mang về thành tựu. Mỗi năm, một năm mới, mỗi ngày, một ngày mới. Bao giờ cũng là những hy vọng dâng tràn, tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua bao ngăn trở, thử thách để đạt điều mong muốn.
Tuổi già như đi vào ngõ cụt. Biết rằng mình đã ở cuối đường. Chẳng bao nhiêu bước nữa là vực sâu, là hố thẳm, là biển cả dữ dội sóng gào. Chúng ta phải dừng lại, buông tay, bất lực. Những tính toán muộn màng đành dang dở cả. Ai mà không hoảng sợ trên nhịp cầu sông Nại Hà, nơi thử thách xem ta đã tích tụ dành dụm được bao nhiêu âm đức!
Tuổi già vì vậy thường nhìn lại dĩ vãng. Có kẻ tô hồng quá khứ, bằng lòng trong sự nuối tiếc, hãnh diện, ôm ấp cái quá khứ ấy trong ngày tháng thong dong. Được vậy cũng là quý. Có người, như tôi, đếm lại thời gian đi qua trong sự tự phán xét và rất buồn khi hiểu rằng cuộc đời mình chồng chất liên tiếp những sai lầm.
Cỡ ngày này, tháng này... hồi mười mấy tuổi, rồi hai mươi mấy tuổi, băm mấy tuổi, bốn mấy, năm mấy chẳng hạn... Sự việc như vậy, như vậy... dẫn tới kết quả như vậy, như vậy... lẽ ra mình biết nhường nhịn hơn, chừng mực hơn, hay cương quyết hơn, thẳng thắn hơn, nói chung là biết ứng xử đúng hơn thì kết quả đã khác. Mình đã thành công hơn, toại nguyện hơn, là đứa con đứa em biết hiếu đễ, không mất người bạn này, không làm phiền lòng người kia, không để xảy ra điều đáng tiếc ấy, không có nỗi ân hận kéo dài, mỗi lần nhớ lại vẫn chưa thấy lạt phai.
Chữ thu và chữ tâm ghép lại thành chữ sầu. Người xưa đặt ra chữ này đã thấu hiểu nỗi lòng mùa thu chăng?
Những chiều mưa nhỏ đi qua áo...
Hình ảnh ấy đẹp nhưng vốn sẵn nỗi buồn giấu kín bên trong! Nếu không gay gắt chói chang như nắng mùa hè thì thà là như gió bão cuồng nộ mùa đông. Sao lại sầu? Nhưng yếu tính của nghệ thuật là nỗi buồn, chính vì vậy mùa thu đã đi vào thi ca nhiều hơn cả. Thi sĩ Tản Đà Cảm Thu. Tiễn Thu, thi sĩ Lưu Trọng Lư nghe cả Tiếng Thu. Đã có hàng trăm bài thơ thu buồn, tuy rằng tương đương cũng có hàng trăm buổi chiều mưa nhỏ đôi bạn yêu nhau tay trong tay đi bên nhau...
Lẽ ra phải có hàng trăm bài thơ thu vui.
(2010) - Những chiều mưa nhỏ -
Beautiful And Real: Anoral History Of Cải Lương
Tác phẩm do giáo sư, nhà nghiên cứu lịch sử truyền khẩu Hugo Frey, nhà văn - giảng viên môn viết sáng tạo Suzy Joinson (Đại học Chichester, Vương quốc Anh) biên soạn. Nhà văn - đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc phụ trách biên tập tiếng Việt. Sách in song ngữ Anh - Việt, do Hội đồng Anh và Nhà xuất bản Tổng Hợp phối hợp ấn hành.
Sách thuộc dự án Di sản Kết nối do Hội đồng Anh tại Việt Nam thực hiện từ tháng 4 đến tháng 11. Các soạn giả gặp và phỏng vấn trực tiếp 24 nghệ sĩ trong làng cải lương và nhà sản xuất phim.
Cuốn sách làm sáng rõ quá trình xây dựng, đặc điểm tổ chức, hoạt động và vai trò của cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn được phân công phụ trách.
Ngoài ra, cuốn sách tập trung nghiên cứu quá trình xác lập, biến đổi về cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhân sự chủ chốt; hoạt động lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam trên các phương diện: phát động và điều hành phong trào kháng chiến, lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, Mặt trận Dân tộc Thống nhất, chính quyền, tổ chức nền kinh tế và văn hóa kháng chiến, chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng Đảng và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ phong trào kháng chiến của nhân dân Campuchia. Đồng thời, khái quát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam trong xây dựng tổ chức và chỉ đạo thực tiễn.…
Nhiều tác giả - Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên)
Sưu tầm và biên soạn: Nguyễn Thanh Lợi, Lê Hải Đăng, Lê Hồng Hải, Trần Đức Anh Sơn, Trần Tuấn Anh, Nguyễn Thế Sang
Đồng dao và trò chơi truyền thống
Từ thuở xa xưa, trò chơi dân gian có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta. Những trò chơi truyền thống gắn bó sinh động với đời sống thường nhật, lao động sản xuất, phong tục tập quán…, của người dân Việt Nam từ miền núi cao đến miền đồng bằng, duyên hải…
Phần lớn các trò chơi đều có mặt trong hầu hết các môi trường sinh hoạt, kể cả một số lễ hội. Những trò chơi dân gian chính là vòng tròn văn hóa vô hình gắn kết cộng đồng, thu hút rất đông người già - trẻ, nam - nữ tham gia và cổ vũ. Bên cạnh những trò chơi mang dấu ấn riêng của từng dân tộc, rất nhiều trò chơi mang tính phổ biến hoặc có đôi chút biến tấu để phù hợp với đặc trưng vùng miền. Trò chơi dân gian không đơn thuần là những trò vui tiêu khiển mà nó chứa đựng những giá trị văn hóa. Chính sự đa dạng phong phú, ý nghĩa thẩm mỹ - nghệ thuật, và tính kết nối cộng đồng của nó đã tạo nên những nét đẹp trong bản sắc văn hóa từng vùng miền nói riêng, của dân tộc nói chung.
Trò chơi dân gian dành cho trẻ em thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một loại văn vần tự do, ngắn hay dài tùy theo đặc điểm yêu cầu của trò chơi hoặc lặp đi lặp lại không dứt. Mỗi bài đồng dao đề cập nhiều thứ, có vẻ như ngô nghê, không gom vào một chủ đề nào và cũng chẳng biểu ý khen chê sự việc nào cả. Chúng mang sự hồn nhiên và tinh thần rất vô tư của trẻ con, những bài đồng dao cuốn hút những đứa trẻ cùng hát, cùng cố gắng chơi hết mình. Điều chủ yếu không phải là thắng mà là được chơi, được tham gia. Những bài đồng dao ấy đã hấp dẫn bao thế hệ trẻ thơ và đi vào ký ức của biết bao người dân Việt.
Trong tập sách này chủ yếu giới thiệu đến:
- CHƠI & TRÒ CHƠI VÀ PHONG HÓA
- SƯU TẬP TRÒ CHƠI
- TRÒ CHƠI VĨNH PHÚ
- TRÒ CHƠI HÀ BẮC
- TRÒ CHƠI HÀ NỘI
- TRÒ CHƠI BẮC GIANG
- TRÒ CHƠI HẢI PHÒNG
- TRÒ CHƠI NGHỆ TĨNH
- TRÒ CHƠI THỪA THIÊN - HUẾ
- TRÒ CHƠI PHÚ YÊN - KHÁNH HÒA
- TRÒ CHƠI NAM BỘ
Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước trong chủ trương khai thác thế mạnh du lịch, đã chú ý khôi phục lại các lễ hội truyền thống, tổ chức nhiều trò chơi dân gian. Nhiều trường học đã chọn đưa trò chơi dân gian lồng ghép vào chương trình giáo dục.
Sưu tầm và hệ thống lại những trò chơi truyền thống và những bài đồng dao là một việc làm góp phần bảo tồn, lan tỏa các giá trị văn hóa cổ truyền Việt Nam. Cũng từ ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ xuất bản ấn phẩm Đồng dao và trò chơi truyền thống. Ấn phẩm do nhóm tác giả sưu tầm và biên soạn, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên. Qua cuốn sách này, bạn đọc có thể hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về nguồn gốc, ý nghĩa của rất nhiều trò chơi dân gian và bài đồng dao ở nhiều vùng miền trên đất nước Việt Nam.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ
Trong lịch sử, hoạt động chơi đùa và trò chơi là một bộ phận sinh động của phong hóa và chúng có vai trò quan trọng trong đời sống văn xã. Một là các trò chơi dân gian và truyền thống gắn với hoạt động lễ hội - thậm chí là không ít trò chơi là hình thức thực hành nghi lễ. Chính vì vậy trò chơi và trò diễn nghi lễ phong tục là không phân biệt rạch ròi. Mặt khác, trong trường kỳ lịch sử, dân tộc ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, do đó hoạt động vui chơi luôn gắn với hoạt động hội mùa có tính chu kỳ. Đánh dấu sự bắt đầu hay chấm dứt của các hoạt động sản xuất, theo đó, thời khóa vui chơi đan xen với nông lịch. Đặc điểm thứ ba là do hội đồng của làng xã quy định nên xu hướng chung là các trò chơi phát triển theo con đường công cộng hóa và đồng thời nó tích hợp với các hình thức ca, nhạc, múa, trò diễn để trở thành nhiều hình thức diễn xướng tổng hợp. Hơn nữa, cũng do gắn bó với cộng đồng nên các định chế xã hội đã ảnh hưởng đến các quy tắc, lề luật chơi. Nổi bật là trong luật thi đấu, thi tài luôn mang tính chất phe giáp, thôn xóm hoặc cố kết theo các ảnh hưởng nhất định đến nội dung và tính chất của từng hình thức chơi đùa… Đó là những đặc điểm chung các trò chơi dân gian và truyền thống của xứ ta.
Gần đây người ta thường nói đến hacker (hiểu theo nghĩa tiêu cực là tin tặc), đến sự nguy hiểm của những cuộc tấn công mạng. Nhưng nhiều người trong số chúng ta vẫn cho rằng, mối đe dọa này chẳng mấy liên quan đến thường dân. Thực tế lại không như vậy. Hầu như tất cả các công trình công nghiệp hiện nay đều đã được tự động hóa, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), trong đó có những công trình đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia như chế biến dầu khí, nhà máy điện, cảng hàng không... Cuốn sách này đề cập đến một vấn đề quan trọng: an ninh của các công trình công nghiệp tối quan trọng, và cũng là an ninh của quốc gia nói chung.
Việc tự động hóa, ứng dụng CNTT trong sản xuất giúp nâng cao độ tin cậy, tăng năng suất vì loại bỏ được lỗi do con người gây ra. Thế nhưng, đây lại chính là mục tiêu tấn công của hacker. Trên thế giới hiện nay đã có nhiều trường hợp xảy ra, chỉ một nhóm hacker cũng có thể làm đình trệ cả một hệ thống lớn.
Ví dụ điển hình là cuộc tấn công bằng mã độc vào Cụm cảng Hàng không Việt Nam tại Nội Bài và Tân Sơn Nhất vào cuối tháng 7/2016 đã gây ngưng trệ hoạt động tại các sân bay, đồng thời một lượng dữ liệu lớn của khách hàng Vietnam Airlines bị đánh cắp. Chưa dừng ở đó, vụ mất tiền từ tài khoản của khách hàng tại Vietcombank cũng cho thấy có bàn tay của hacker chuyên nghiệp.
Chính vì vậy, sự ra mắt của cuốn sách “Hiểm họa hacker: Hiểu biết và phòng chống” là rất đúng lúc và cần thiết. Tác giả của cuốn sách này là một nhà khoa học Nga - chuyên gia về an ninh thông tin. Và chúng ta đều biết rằng an ninh thông tin của Nga là một trong những trường phái mạnh hàng đầu thế giới.
Cuốn sách rất thiết thực cho cán bộ và đại diện các cơ quan an ninh, nó cũng cần thiết cho lãnh đạo các công trình tối quan trọng để nhận thức rõ tính cấp thiết của vấn đề an ninh thông tin. Hơn nữa, cuốn sách còn rất bổ ích cho các doanh nhân, chuyên viên CNTT, và cho cả những người quan tâm đến CNTT và an ninh mạng.
Nhật ký cô giáo - Học kỳ Xuân
Tác giả: Hồ Yên Thục
Giảng viên Đại học
Thạc sĩ Quản lý Giáo dục Đại học Portsmouth
Thích đọc hơn thích viết, thích ngắm người hơn nói chuyện
Luôn hướng về những điều khôi hài và thuyết phục
Nhật ký cô giáo - Học kỳ Xuân
“Nhật ký cô giáo” là một tập văn lạ. Ông tôi, một cụ đồ làng dạy trong cửa Khổng, bố tôi làm hương sư truyền bá quốc ngữ, tôi làm giảng viên mấy đại học đến cuối thế kỷ trước, vị quân tử tiên dạy lễ hậu dạy văn, nhà yêu nước khai dân trí và nhà trí thức truyền đạt kiến thức nêu gương dấn thân khoa học có gì chung, có thể làm đồng nghiệp với cô giáo ưu tú 4.0 của thời nay không!?
Cô tuyên bố “xanh rờn”: mình là nhà tu hành, bà bán rau, luật sư, tư vấn tâm lý, cò mồi, lao công, viết luận văn thuê, an ninh, diễn viên đóng thế... và nhiều nữa. Giáo dục đào tạo hiện muốn lấy người học làm tâm mà quên cái tâm thứ hai là người dạy chăng! Người học của cô giáo ưu tú gồm đủ thập loại chúng sinh cầm tinh từ con tý đến con hợi và rất nhiều nhân vật đặc sắc, cả một xã hội thu nhỏ, mà cô giáo ưu tú tương tác, yêu ghét gọi là “đồng nghiệp”. Một tập tản văn thú vị, sắc sảo và cả hài hước về tâm lý giáo dục và “khủng hoảng” giáo dục hiện nay.
Văn của cô giáo ưu tú cũng khéo lạ, tưng tưng cười nhẹ, một câu bày ra cùng lúc hai ba không gian, tình huống và biểu cảm. Sự pha trộn ngôn ngữ đời thường, câu chữ của social networkvới tự sự nhật ký vừa tự hỏi mình vừa ham đối thoại. Sau Học kỳ Xuânnày sẽ còn các học kỳ hai mùa khác.
Hy vọng thứ văn nối kết hiện thực thật và hiện thực ảo này còn tiếp tục sinh sôi.
Trân trọng giới thiệu một “bỉnh bút” mới.
Trích đoạn:
Cô đang làm gì ?
Tối tối đi ngủ, trước khi nhắm mắt rất biết ơn mình đã có một ngày thật đẹp, biết ơn ngày mai mình sẽ phải dậy sớm vì còn có một công việc để làm.
Đêm đêm chợt tỉnh, lập tức kéo mền đắp ấm cổ, phải giữ giọng, biết ơn vì ngày mai mình còn có lớp để dạy.
Sáng sáng thức dậy, pha café sữa, ăn bánh mì đen nguyên cám, thay đồ công sở chỉn chu, lấy túi, lấy xe, khóa cửa, đi làm, biết ơn vì mình còn có chỗ để đi và giữ cho bản thân hoạt động.
Cái bảng
Tuần cuối học kỳ Xuân, thứ Ba, ngày thuyết trình nhóm - báo cáo cuối kỳ, cô giáo ghi lên bảng danh sách thuyết trình để mong kính báo cho các anh các chị biết khi nào đến lượt mình, để các anh các chị chủ động, thoải mái café trà sữa, chỉ làm đủ không cần làm dư, 30’/nhóm. Nếu vạn sự hanh thông có thể kết thúc trước 30’, hưởng thụ tuổi xuân sôi nổi.
Dự là khi một nhóm thuyết trình thì các anh các chị trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, ngồi xem bên dưới có thể đặt thêm vài câu hỏi nặng nhẹ tùy tâm, nông sâu tùy lòng, để thể hiện sự quan tâm của mình với đề tài nhóm bạn, gọi là có cơ hội giao lưu. Nhưng sự thật là, gia phả vàng son các anh các chị còn chưa kịp vấn an hết, lại thêm cộng đồng đa sắc tộc trên mạng xã hội - các anh các chị còn cần thời gian xây dựng thương hiệu trên cái network lồng lộng ấy, sức đâu mà giao lưu với nhau ở cái phòng vài mét vuông, máy lạnh vỡ nắp, bảng dơ, cửa lỏng.
Trương Chí Hùng
Ngày sinh: 25/02/1985
Quê quán: xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Hiện là Giảng viên Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang;
Hội viên Hội VHVT Tỉnh An Giang
Man mác Vàm Nao
Khi nghĩ về tuổi thơ, ký ức tôi neo lại lúc theo má bơi xuồng xuôi dòng sông Hậu hái bông điên điển. Tôi nhớ những lần theo ba đi giăng câu, đặt trúm lươn, bẫy cò, bắt rắn. Lớn lên chút nữa, tôi cùng mấy đứa bạn trong xóm đi tát đìa bắt cá, đi soi ếch, đi cắt lúa mướn hay bất cứ việc gì gắn với ruộng đồng, sông nước. Miền Tây đong đầy tôi bằng những ngày hè rực nắng nhuốm mùi rơm rạ đồng chiều, bằng những đêm trăng thả xuồng lênh đênh trên cánh đồng nước nổi, bằng những câu vọng cổ tài tử thổn thức trăm năm.
Có lẽ với nhiều người, miền Tây dịu dàng e ấp như cô gái quê trong chiếc áo bà ba che nghiêng vành nón lá. Nhưng mấy ai biết rằng, thẳm sâu bên trong miền Tây vẫn chứa đựng nhiều nỗi thăng trầm mà chỉ có những người ngụp lặn cả đời với nó mới thấu hiểu. Tôi viết cuốn sách này là muốn lưu giữ những giá trị thiêng liêng của một miền sông nước đang đứng trước bao biến thiên thế cuộc. Tôi xót xa chứng kiến những con sông nắng mưa bồi lở, bao phen ngậm ngùi nhìn mùa nước nổi vắng bóng cá tôm, cay đắng cùng số phận của những người nông dân bị bứng khỏi quê nhà dạt trôi tứ xứ. Nhưng dù có vật đổi sao dời đến đâu, thì miền Tây vẫn đọng lại trong tôi biết bao điều tốt đẹp. Cái đẹp của tình đất tình người.
T.C.H.
Trích đoạn:
“Tôi viết cuốn sách này là muốn lưu giữ những giá trị thiêng liêng của một miền sông nước đang đứng trước bao biến thiên thế cuộc. Tôi xót xa chứng kiến những con sông nắng mưa bồi lở, bao phen ngậm ngùi nhìn mùa nước nổi vắng bóng cá tôm, cay đắng cùng số phận của những người nông dân bị bứng khỏi quê nhà dạt trôi tứ xứ. Nhưng dù có vật đổi sao dời đến đâu, thì miền Tây vẫn đọng lại trong tôi biết bao đều tốt đẹp. Cái đẹp của tình đất tình người.”
“Tôi đã đi qua biết bao con sông, mỗi con sông có hơi thở riêng, không dễ gì vẽ lại. Tôi từng ngắm con sông Bổn Sồ xanh vời vợi lục bình trôi, từng cắn mấy con ốc đắng bắt dưới lòng sông này đem trộn gỏi bắp chuối sáp. Thế nhưng khi thả mình trên con sông trong đêm thanh vắng, tôi bỗng thấy chữ nghĩa bất lực với hồn phách dòng sông. Mặt sông Bổn Sồ vẫn tĩnh lặng soi bóng bao số phận, thản nhiên một cách bình tâm.” - Miên man Chợ Lách -
“Ánh mắt của anh Tuấn đọng lại trong tôi khá lâu, cứ day dứt mãi. Cho đến một hôm, tôi đi đám giỗ nhà người thân ở Miệt Thứ - U Minh thì ánh mắt ấy mới thôi ám ảnh. Tôi nhớ hôm đó, khi mọi người đang ăn uống nói cười vui vẻ, bỗng có bà dì ở bàn bên cất lên một câu vọng cổ ngọt như mía lùi. Dì ca một cách tự nhiên, không kiểu cách luyến láy như ca sĩ nhưng nghe mùi mẫn đến đứt gan đứt ruột. Sau phần “khởi xướng” của dì, lần lượt các bàn khác mỗi bàn ca một bản, dài vắn tùy chọn. Cứ thế xoay vòng mãi. Ca không có đờn, không có âm thanh kỹ thuật hỗ trợ nhưng ai cũng say sưa. Gặp những đoạn cao trào, nhiều người gật gù ca theo. Có người lấy đũa gõ nhẹ vào thành chén đĩa giữ nhịp, tạo ra một không khí vui tươi nhưng sâu lắng. Cứ thế, họ ca với nhau đến tận khuya. Càng về khuya, tiếng ca càng ngân vọng ra xa, bao cung bậc thổn thức cứ khoan nhặt mãi.
Tôi đem chuyện anh Tuấn và chuyện tham dự buổi ca tài tử đậm chất Nam bộ ở Miệt Thứ kể cho chú Nguyễn Đình Chiến, một nghệ nhân tài tử kỳ cựu ở An Giang nghe. Chú Chiến trầm ngâm bảo, đờn ca tài tử đã ăn vào máu thịt của người dân Nam bộ, nên không dễ gì chết được đâu. Có thể mỗi thời kỳ, diện mạo của nó có khác nhau, nhưng tuyệt nhiên không chết. Ở đô thị, người ta ca tài tử trên sân khấu, ca với âm li thùng loa cỡ bự. Còn nông thôn, người ta vẫn ca mộc mạc bên chiếu rượu, trên bờ đê những đêm trăng sáng, trên mấy chiếc xuồng ghe thương hồ bập bềnh sóng nước. Đó là giá trị tinh thần lớn lao của lưu dân phương Nam, nên không thể nào mất được. Chú Chiến còn bảo, tín hiệu vui là mấy năm gần đây, nhiều cuộc vận động sáng tác lời mới cho bài ca vọng cổ, nhiều tỉnh tổ chức thi ca vọng cổ tài tử, thi sáng tác cải lương. Đặc biệt, nghệ thuật đờn ca tài tử đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể. Đó là những minh chứng cho thấy chúng ta đang làm tất cả để giữ gìn loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo này.” – Về phương Nam lắng nghe cung đàn… -
Quyển ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ KHẢO VÀ LUẬN của Nguyễn Phúc An ra đời đúng với sự mong đợi của các tầng lớp nhạc sĩ và nhạc sinh âm nhạc dân tộc Việt Nam, đặc biệt là giới mộ điệu nhạc tài tử Nam bộ!
Thật thế! Nhạc tài tử Việt Nam là một loại hình nghệ thuật rất cao, trong đó có kết hợp đầy đủ tính khoa học, triết học phương Đông, nó đòi hỏi người chơi phải có một trình độ khá tốt về văn hóa, lịch sử, v.v… Nhạc tài tử Nam bộ được cấu kết và hình thành thuận theo âm luật tự nhiên của con người cũng giống như âm nhạc của phương Tây và các dân tộc khác trên thế giới. Điều đáng buồn là ở Việt Nam ta tài liệu và sách vở âm nhạc thì không đầy đủ để có thể tìm hiểu và khảo cứu. Thật ra thì mọi lý luận và ý tưởng trong những tác phẩm âm nhạc dân tộc có thể nói là hầu hết ta đều có thể dẫn chứng, hoặc giải thích được. Vấn đề phát sinh ở chỗ là chúng ta không có điều kiện, không đủ quyết tâm và kiến thức để tìm tòi, tra cứu trong sách vở và tài liệu cổ. Vì những tài liệu có giá trị còn sót lại ngày xưa thường được viết bằng chữ Hán hoặc bằng tiếng Pháp nên chúng ta gặp nhiều khó khăn trong việc tra cứu.
Tác giả Nguyễn Phúc An có được cái lợi thế là rất rành về Hán văn và một số ngoại ngữ khác, cho nên ông có thể đọc được và nghiên cứu rất nhiều tài liệu âm nhạc ở các thư viện nước ngoài và những tài liệu chữ Hán ở Việt Nam. Ngoài ra do sở học cá nhân, tác giả có một trình độ lý luận rất là vững chắc, có tính logic dựa vào lý luận dịch học phương Đông mà cũng không thiếu tính khoa học phương Tây, cho nên ở hầu hết mọi vấn đề sau khi nêu được những chứng minh, truy nguyên được nguồn gốc bằng sách vở, tài liệu, báo chí, tác giả đã đưa ra được những kết luận của riêng mình với lối lý luận sắc sảo, nhạy bén không lập lờ, hợp lý mà ta hầu như có thể chấp nhận được!
Về mặt nội dung, tuy chưa thể khai thác hết nền nhạc cổ miền Nam, nhưng sách đã gói ghém gần như là đầy đủ hết những hiểu biết, những tinh hoa trong mảnh đất màu mỡ của âm nhạc tài tử miền Nam, nhưng tác giả đã cho ta thấy được những kiến thức rất có giá trị và hữu ích về loại hình âm nhạc này mà mỗi nhạc sĩ, người nghiên cứu hay giới mộ điệu chúng ta không thể thiếu được.
Nói thêm là ở xứ ta, một số sách vở về âm nhạc thường là nơi bày tỏ những lời phát biểu đúng cũng có mà chưa đúng cũng có của một số nhân vật nào đó… mà ở đó người viết ít khi dám cho biết ý nghĩ và quan điểm của riêng mình, vì sợ đụng chạm hoặc ngại làm mếch lòng người khác, hoặc khẳng định cái gì đúng, cái gì sai và cái nào cần chỉnh lại cho hợp lý để cho các lớp thế hệ sau có thể noi theo mà mạnh dạn bước đi. Những người viết đó có lẽ còn chưa tin tưởng được mình thì làm sao mà mọi người tin theo được. Vì lý do đó mà hiện tại hầu hết những buổi diễn âm nhạc dân tộc xứ ta chỉ như đang khơi lại đóng tro tàn văn hóa cũ của bốn ngàn năm văn hiến để cho mọi người thấy và biết thôi chứ chưa đặt chân được vào con đường phát triển, làm tốt, làm đẹp hơn cho văn hóa âm nhạc Việt Nam. Cuối cùng ta phải khẳng định một điều là một nền văn hóa tốt đẹp đầy màu sắc như âm nhạc dân tộc Việt Nam mà chỉ để trưng bày trong viện bảo tàng để cho mọi người ngắm nhìn để biết được thế nào là thời vàng son của dân tộc Việt thì quá uổng phí cho công sức của tiền nhân đã dầy công vun đắp. Chứ ở hiện tại thì nói đúng ra như con số không vì cổ thì nằm ở viện bảo tàng và cái mới, phát triển thì lệch lạc và cũng không có được bao nhiêu, đồng thời lại đang đi ngược với trào lưu tiến hóa của xã hội!
Có thể nói là nhờ những bước đầu mạnh dạn như tiêu chí của quyển sách này, thì các lớp sau có thể có được một sự hiểu biết dù sơ lược nhưng đúng hoặc ít ra là những khía cạnh đúng về nhạc tài tử miền Nam; để từ đó có thể mạnh dạn phát triển nền tri thức và hiểu biết âm nhạc Việt Nam vốn giàu đậm màu sắc dân tộc theo con đường nghệ thuật chân chánh mà những bậc tiền nhân đã vạch đường đưa lối.
Sài Gòn, ngày 22 tháng 10 năm 2018
Hoàng Cơ Thụy & Nguyễn Xuân Yên
Cựu giảng viên bộ môn đờn tranh
và ký xướng âm Việt Nam
tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn
và Trường Cao đẳng Sân khấu - Điện ảnh
Các tác phẩm văn chương quốc ngữ ban đầu được xuất bản với mục đích giúp cho người mới học chữ quốc ngữ làm quen mặt chữ, tập đọc và có chút hiểu biết về cách viết, cách trình bày, đồng thời có một bài học luân lý nho nhỏ, như Trương Vĩnh Ký đã trình bày trong “Ý sách Chuyện đời xưa”: “Kêu rằng: Chuyện đời xưa, vì nó là chuyện những kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế…
Là công trình nghiên cứu của thầy trò Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập, ra mắt bạn đọc trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 – 2019).
Cuốn sách cung cấp một góc nhìn tổng quan, trên cơ sở những tư liệu tin cậy, từ thời điểm Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời cho đến vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẻ vang, đem lại độc lập, hòa bình và thống nhất đất nước.
Virginia Woolf viết Bà Dalloway trong lúc đang cố chống chọi với chứng bệnh thần kinh của chính mình. Và đây cũng là tác phẩm đầu tiên bà khai thác thủ pháp Dòng ý thức. Phần vì bút pháp mới thử nghiệm ở đây chưa tinh luyện và nhuần nhuyễn như ở "Tới ngọn hải đăng", phần vì lượng nhân vật cũng quá nhiều (Ngoài khoảng mười mấy nhân vật chủ yếu có tới mấy chục nhân vật phụ; có nhân vật chỉ thoáng hiện ra rồi biến mất hoàn toàn); mặt khác, ý nghĩ và hành động của các nhân vật đan xen như những sợi tơ nhện từ quá khứ sang hiện tại, rồi lại từ hiện tại sang quá khứ, với rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, nên đòi hỏi người đọc phải thật sự tập trung.
Chủ đề nổi bật trong tác phẩm này là tác động của Thế chiến I lên mọi tầng lớp xã hội ở Anh. Cuộc chiến tranh đã qua, nhưng dấu ấn của nó vẫn còn nặng nề, sâu thẳm. Như với Septimus, một cựu chiến binh, bị chấn thương tâm lý trong chiến tranh và sau đó đã tự sát...
Vì những bộn bề lo toan, ba mẹ có thể chưa có thời gian cập nhật kiến thức về các kỹ năng thoát hiểm để truyền đạt cho các con, hoặc chưa kiểm tra được con mình đã có đủ các kiến thức ấy để bảo vệ bản thân khi sự cố xảy ra hay chưa.
Bộ sách “Kỹ Năng Thoát Hiểm Cho Bé Yêu” gồm 7 quyển hướng dẫn 15 kỹ năng sẽ như một cẩm nang dễ đọc và dễ hiểu, giúp ba mẹ có sẵn tư liệu để truyền đạt và ôn tập kỹ năng thoát hiểm cho con.
Mỗi đêm, trước giờ đi ngủ, ba mẹ và các con chỉ cần dành 15 - 20 phút để đọc, nghiền ngẫm và thảo luận với nhau về các kỹ năng thoát hiểm. Dần dần, các kỹ năng ấy sẽ được ghi nhớ và ăn sâu vào tiềm thức, trở thành những phản xạ tự nhiên, để khi gặp sự cố, chúng ta có những cách xử trí đúng đắn để bảo vệ bản thân và những người xung quanh.
Tập 1: Thoát hiểm khi gặp người lạ
Tập 2: Thoát hiểm khi gặp hỏa hoạn, động đất
Tập 3: Thoát hiểm khi bị bắt nạt, tống tiền
Tập 4: Thoát hiểm khi bị lạc, bị chó tấn công
Tập 5: Thoát hiểm khi gặp bão lụt, mưa dông
Tập 6: Thoát hiểm khi bị kẹt trong đám đông, kẹt thang máy
Vì những bộn bề lo toan, ba mẹ có thể chưa có thời gian cập nhật kiến thức về các kỹ năng thoát hiểm để truyền đạt cho các con, hoặc chưa kiểm tra được con mình đã có đủ các kiến thức ấy để bảo vệ bản thân khi sự cố xảy ra hay chưa.
Bộ sách “Kỹ Năng Thoát Hiểm Cho Bé Yêu” gồm 7 quyển hướng dẫn 15 kỹ năng sẽ như một cẩm nang dễ đọc và dễ hiểu, giúp ba mẹ có sẵn tư liệu để truyền đạt và ôn tập kỹ năng thoát hiểm cho con.
Mỗi đêm, trước giờ đi ngủ, ba mẹ và các con chỉ cần dành 15 - 20 phút để đọc, nghiền ngẫm và thảo luận với nhau về các kỹ năng thoát hiểm. Dần dần, các kỹ năng ấy sẽ được ghi nhớ và ăn sâu vào tiềm thức, trở thành những phản xạ tự nhiên, để khi gặp sự cố, chúng ta có những cách xử trí đúng đắn để bảo vệ bản thân và những người xung quanh.
Tập 1: Thoát hiểm khi gặp người lạ
Tập 2: Thoát hiểm khi gặp hỏa hoạn, động đất
Tập 3: Thoát hiểm khi bị bắt nạt, tống tiền
Tập 4: Thoát hiểm khi bị lạc, bị chó tấn công
Tập 5: Thoát hiểm khi gặp bão lụt, mưa dông
Tập 6: Thoát hiểm khi bị kẹt trong đám đông, kẹt thang máy
Vì những bộn bề lo toan, ba mẹ có thể chưa có thời gian cập nhật kiến thức về các kỹ năng thoát hiểm để truyền đạt cho các con, hoặc chưa kiểm tra được con mình đã có đủ các kiến thức ấy để bảo vệ bản thân khi sự cố xảy ra hay chưa.
Bộ sách “Kỹ Năng Thoát Hiểm Cho Bé Yêu” gồm 7 quyển hướng dẫn 15 kỹ năng sẽ như một cẩm nang dễ đọc và dễ hiểu, giúp ba mẹ có sẵn tư liệu để truyền đạt và ôn tập kỹ năng thoát hiểm cho con.
Mỗi đêm, trước giờ đi ngủ, ba mẹ và các con chỉ cần dành 15 - 20 phút để đọc, nghiền ngẫm và thảo luận với nhau về các kỹ năng thoát hiểm. Dần dần, các kỹ năng ấy sẽ được ghi nhớ và ăn sâu vào tiềm thức, trở thành những phản xạ tự nhiên, để khi gặp sự cố, chúng ta có những cách xử trí đúng đắn để bảo vệ bản thân và những người xung quanh.
Tập 1: Thoát hiểm khi gặp người lạ
Tập 2: Thoát hiểm khi gặp hỏa hoạn, động đất
Tập 3: Thoát hiểm khi bị bắt nạt, tống tiền
Tập 4: Thoát hiểm khi bị lạc, bị chó tấn công
Tập 5: Thoát hiểm khi gặp bão lụt, mưa dông
Tập 6: Thoát hiểm khi bị kẹt trong đám đông, kẹt thang máy
Để có một ngày, inbox lẻ mà chẵn bỗng qua đời như “con dế buồn tự tử giữa đêm sương”. Chiếc lá cuối cùng rơi. Người nghệ sĩ sắp đặt không còn lòng kiên nhẫn. Tương lai bỗng trở về tương lai của những năm tháng học miệt mài như điên. Còn cái gì phía trước không. Còn. Nàng chờ inbox sống lại. Tự bao giờ, inbox đã là một điều gì đó rất hiển nhiên trong cuộc sống đang đứng trên đỉnh đồi của nàng. Nhưng có điều nàng cố tình không biết, sự thờ ơ và kiêu hãnh của nàng đã giết chết inbox. Đêm mưa, nàng nghe Trịnh Nam Sơn hát. Lời yêu thương em nỡ vô tình, quên thật sao. Người ơi dĩ vãng đã xa, em có hay rằng tôi còn thương…
Khởi đi là một huyện trong hai huyện của phủ Gia Định hồi cuối thế kỷ XVII và rồi qua nhiều đổi thay, Sài Gòn là xứ đô hội của vùng đất mới, là hòn ngọc Viễn Đông… Ở đấy, Sài Gòn là thành phố ngã ba đường vì đó là nơi cộng cư của nhiều dân tộc, rồi nối kết những luồng thông thương với khu vực và thế giới rộng lớn bên ngoài. Kéo theo đó là sự giao lưu không ngừng của những con người, những luồng văn hóa đa dạng. Chính vì vậy, nơi đây gánh lấy những thách thức của tình trạng thế giới hóa và trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ. Tuy vậy, mọi việc không phải diễn biến theo một chiều mà đó là một quá trình tiêu biểu cho cuộc đụng đầu lịch sử: tập trung những xung đột và giao lưu, những áp đặt và giải trừ, những áp bức và đấu tranh, những thất bại đau thương và những thắng lợi hào hùng, những thách thức của tình trạng thế giới hóa và nỗ lực bảo tồn phong hóa.
Rõ ràng là, trong hơn 100 năm qua, âm điệu phương Tây là âm điệu chủ đạo trong bản trường ca hiện đại, song sự đón nhận của các thế hệ cư dân bản xứ hoàn toàn không như nhau và đặc biệt những phản ứng từ thực tế đó đã nảy sinh ra những phong trào có đích và đường khác nhau, nhưng tất thảy đều có xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Đây là điều kiện của truyền thống văn hóa còn được bảo tồn trong cộng đồng; tất nhiên không toàn vẹn mà là một cơ cấu văn hóa mang tính tổng hợp cũ - mới, tích hợp các thành tố nội sinh và các thành tố ngoại lai. Ở đó, cái mới đang trên đà ưu thắng và cái ngoại đang là xu thế thời thượng.
Chính vì vậy, công việc tìm hiểu di sản truyền thống ở Gia Định - Sài Gòn, từ lĩnh vực tín ngưỡng - tâm linh, văn học - nghệ thuật đến phong tục - tập quán vấp phải những trở ngại, trước hết là sự ít ỏi của nguồn tài liệu thư tịch liên quan và do vậy việc điều tra điền dã để thu lượm từ ký ức các bậc lão thành, từ lớp thế hệ cha ông là điều cần thiết. Xuất phát từ nhận định đó, trong những năm 1976 đến 1990, do yêu cầu của công việc biên soạn các bộ địa chí, tôi có cơ may đi rong ruổi đây đó và ghi chép thành một số bài viết dựa trên sự kết hợp những chỉ báo từ tài liệu thư tịch với những gì thu lượm được từ thực tế ở các huyện nội, ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng đến các tỉnh lân cận và nay tuyển chọn in chung vào một tập, lấy tên là Sài Gòn - Gia Định - Ký ức lịch sử - văn hóa.
Việc tuyển chọn để đưa vào tập sách này căn cứ theo tiêu chuẩn đủ - thiếu (các dữ liệu, thông tin), đúng - sai (về mặt học thuật) và hay - dở, xét một cách chủ quan về nội dung, cách thể hiện, tổ chức một bài viết. Mặt khác, trong dịp này, chúng tôi cũng sửa chữa, bổ sung một số chỗ, cốt cập nhật những gì xét thấy cần. Đây là sự tự đính chính những sai sót. Tất nhiên, việc đính chính đó không có nghĩa là đã sạch hết lỗi sai, tức sự hoàn hảo vẫn còn ở đằng xa - còn nhờ bạn đọc góp ý.
Tập truyện viết về bốn gia đình người Hoa di cư xuống vùng Đông Nam Á vào đầu thế kỷ XX. Họ rời quê hương ra đi để tránh bom đạn chết chóc, ra đi tìm nơi chốn bình yên, định cư lập nghiệp trên bán đảo Đông Dương. Nhưng nơi đây nào có bình yên. Ở đất nước mà mấy ngàn năm chưa hề nguôi tắt ngọn lửa chiến tranh thì bình yên sao được.
Dòng đời vất vả truân chuyên như mạch nước ngầm lăn lóc từ thượng nguồn lần chảy ra biển khơi. Chiến tranh khiến con người phải chịu cảnh máu đổ xương rơi, gieo rắc những khổ đau và cướp đi hạnh phúc của cuộc đời.
Nhưng bản năng sinh tồn và sức chịu đựng của con người thật phi thường. Vì cuộc sống, không còn con đường nào khác, buộc họ phải lựa chọn, phải đối mặt để vượt qua. Họ không nhìn lại quá khứ hà khắc và những nỗi đau xé lòng mà sống vì niềm tin vào chân lý, tin ở ngày mai tươi sáng.
" Trong khi các tác giả trước đây chủ yếu viết về phong tục tập quán ở miền Bắc thì tác giả Từ Xuân Lãnh đề cập nhiều đến phong tục tập quán ở miền Trung và miền Nam, những nơi in dấu chân ông.
Tác giả khẳng định: " Phog tục tập quán là một bộ phận quan trọng hình thành nền văn hóa", mà " văn hóa là cái hồn tính của dân tộc", nên "hồn tính còn thì dân tộc còn". Trong những thời kỳ lịch sử khó khăn, khi nước ta bị ngoại bang đô hộ, người Việt Nam vẫn bảo tồn những phong tục tập quán của mình. Theo tác giả, đó là một cách đối kháng rất quan trọng, bên cạnh những cách đối kháng khác...Chẳng hạn, trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam vẫn duy trì cách nói, cách làm của mình, khác với người Trung Hoa: người Việt Nam nói "vợ chồng" (vợ trước, chồng sau) chứ không nói "phu thê" (phu trước, thê sau); tảo mộ vào tháng Chạp âm lịch chứ không phải vào tháng Ba âm lịch như người Trung Hoa v.v.. Nhờ vậy, sau khi đánh đuổi quan xâm lược, giành lại độc lập tự do, " ta vẫn là ta" chứ không bị đồng hóa, không bị mất gốc."
“Nhà tù Côn Đảo” – một cái tên gắn liền với hình ảnh của nhà tù, của bọn cai ngục, giám thị, của những roi vọt và những hình phạt khổ sai của thời trung cổ mà kíp tù nhân ở đây phải chịu đựng. Trong lời giới thiệu sách “Lịch sử Nhà tù Côn Đảo (1862 - 1975)”, Giáo sư Trần Văn Giàu từng ví những trại tập trung giết người nổi tiếng của Đức quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai so với “Địa ngục trần gian Côn Đảo” chỉ như “ao cạn so với vực thẳm”. Ở cái “Địa ngục trần gian Côn Đảo”, người tù bị hành xác đến độ mà cái chết còn đem lại sự an ủi hơn là sống trong địa ngục. Sở Lưới là một cơ sở khổ sai như vậy. Tù nhân ở Sở Lưới hàng ngày phải đi đánh cá về cung cấp cho bọn gác ngục, thường làm việc trong hai kíp khổ sai: kíp Lưới Năm và kíp Lưới Rùng. Mỗi khi có tàu ra đảo, tù nhân kíp Lưới Rùng được điều đi dọn tàu.
Mỗi kíp đảm nhận một công việc đặc thù đúng như cái tên của kíp mình; nhưng công việc của kíp nào cũng vất vả và không kém phần hiểm nguy và tính mạng của người tù ở đây hầu như không được xem trọng.
Lao động khổ sai là thế nhưng bữa cơm của người tù chỉ có cơm hẩm, khô mục, tương thối, quần áo thì mỗi năm chỉ có một bộ vải thô, mặc chưa được bao lâu đã phải vá chằng vá đụp, người tù nào cũng vàng võ xanh xao…
Không người tù Côn Đảo nào lại không nghĩ đến chuyện vượt ngục, dù biết là hàng trăm lần thất bại, may ra chỉ có một vài chuyến thành công. Nhưng họ thà chết giữa biển khơi, thậm chí làm mồi cho cá mập còn hơn là cam chịu sống trong “địa ngục trần gian” mà bọn cai ngục còn ác độc hơn cả quỷ dữ. Tù nhân ở các kíp khổ sai thường trốn lên núi, đóng bè vượt đảo. Riêng tù nhân Sở Lưới lại có kiểu vượt ngục riêng: cướp tàu vượt đảo.
Ở Sở Lưới lúc ấy đã có hai cuộc vượt ngục thành công; một của kíp Lưới Năm (1964), một của kíp Lưới Rùng (1965). Riêng cuộc vượt ngục của kíp Lưới Rùng tuy chỉ diễn ra trong vòng một ngày nhưng đó là sự chuẩn bị của cả một quá trình để có thể đảm bảo đầy đủ các yếu tố: bất ngờ, chính xác và chớp đúng thời cơ. Dưới ngòi bút dày dạn kinh nghiệm của tác giả - một người chuyên viết về nhà tù Côn Đảo - cuộc chiếm tàu vượt ngục đầy cam go, mạo hiểm với tinh thần chiến đấu cao của 57 tù nhân kíp Lưới Rùng ngày 27-2-1965 được tái hiện sinh động trong cuốn sách “Chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo”.
Chúng ta đang có trong tay nguồn tài liệu vô cùng quý giá về cuộc chiếm tàu, vượt đảo của 57 tù chính trị của kíp Lưới Rùng mà trong đó, từng trang từng trang sách đã thấm đẫm tinh thần chiến đấu với quyết tâm chiến thắng cao độ của các chiến sĩ tù chính trị - những người biết tự tạo ra cho mình thời cơ và luôn đảm bảo được yếu tố bất ngờ; cuối cùng cũng giành được thắng lợi trọn vẹn, đảo lộn được tình thế và làm cho bọn chủ ngục một phen khiếp vía, kinh hoàng; khiến chúng phải thốt lên rằng: “mấy ông Việt Cộng ở tù lúc thường lờ đờ như gà toi, lúc xung trận thì dữ như cọp mà đối xử với kẻ bại trận thì thiệt là nhân đạo”.
Hãy Để Cuộc Đời Yêu Bạn là tựa cuốn sách của tác giả Phương Trinh sẽ giúp ta đã đến lúc đặt xuống mọi nặng nề đeo đẳng trái tim.
Và để... đã đến lúc ngả đầu vào vòng ôm tha thiết của cuộc đời!
Thực tế cuộc sống hiện nay có quá nhiều thử thách: ở nhà thì lo thức ăn không bảo đảm vệ sinh, lo con cái mải mê điện thoại, iPad mà bỏ bê việc học, ngại anh em cách biệt lẫn nhau…; ra đường thì nơm nớp tai nạn giao thông, sợ cướp giật, hành hung, ngại ngần trước không khí ô nhiễm, hoang mang trước cảnh ngập nước sau một trận mưa… Ta sống một cuộc đời mà luôn cảm thấy có nhiều thách thức, từ vấn đề an toàn của bản thân và gia đình, đến quan hệ xã hội, từ ứng xử với mọi người đến việc giải quyết các công việc khi tiếp xúc với cơ quan công quyền, từ việc học hành của con cái đến công việc ở công sở của chính chúng ta… Ta lo lắng về thu nhập, về chất lượng cuộc sống, về tương lai của gia đình và con cái, về các cuộc “chạy đua” cho bằng chị bằng em…, kể cả ta cũng không yên tâm với vấn đề đạo đức xã hội, về cái mà người ta vẫn gọi là “tiền nghiệp” do kiếp trước để lại, về sự tác động của các trào lưu trong đời sống hay một viễn cảnh đất nước, xã hội trong mươi năm nữa…
Tất cả những điều đó đều là nỗi lo, nỗi sợ rất chính đáng. Ta không lo sao được khi tất cả nó đều có tác động đến cuộc sống của chúng ta, của con em chúng ta, trong một bối cảnh xã hội mà mọi thứ đang diễn ra rất nhanh, rất vội.
Đã vậy, trong khi bao nhiêu điều của đời thực dường như đang vây lấy chúng ta thì một đời sống khác cũng tác động đến chúng ta không ít. Đó là đời sống trong không gian mạng. Những câu chuyện của ai đó mà ta đọc được trên facebook vẫn có thể làm ta lo lắng; vài câu bình luận của “bạn bè” trong friendlist cũng có thể làm ta hốt hoảng; những dòng công kích về một status của ta cũng có thể khiến ta hoang mang… Không chỉ bản thân ta, con cái ta cũng có thể là đối tượng chịu sự tác động, lôi kéo, dụ dỗ của ai đó, của thứ gì đó trong cái không gian tưởng chừng ảo mà lại rất thực này.
Nhưng, có khi nào ta lắng lại để tự đặt ra các câu hỏi và tự trả lời không? Chẳng hạn, ta lo, ta sợ nhiều thứ như vậy nhưng bản thân mình đã có cách nào khắc phục không? Ta có truyền cái lo lắng, sợ hãi đó cho con cái, cho người thân không? Ta có tìm cách chỉ dẫn cho con em mình cách vượt qua các thử thách đó không? Ta có cảm thấy bất lực trước các thách thức vây quanh đó không? Hay ta vẫn cứ lo nhưng hoàn toàn không giải quyết được điều gì trong cái mớ bòng bong lo lắng đó?… Chắc hẳn với mỗi người sẽ có những câu trả lời khác nhau, nhưng người nào thấy an lòng nhất chính là người đã tìm được cách vượt qua nỗi lo đó! Còn người nào càng lo thì lại càng thấy hoang mang, càng sợ thì thấy mọi thứ thêm phức tạp.
Có khi nào ta phải xác định rằng mình phải sống chung với nỗi sợ hay là tìm cách vượt qua nỗi sợ? Sống chung thì nỗi sợ luôn thường trực trong cuộc sống của chúng ta, có thể khiến chúng ta khó có được cuộc sống thoải mái, thanh thản. Nếu bỏ qua nỗi sợ thì ta có thể có được sự ung dung nhất định, nhưng các thách thức vẫn còn đó. Điều tích cực nhất có lẽ là chủ động tìm cách vượt qua nỗi sợ, đối mặt với các thách thức bằng những cách thức, kỹ năng phù hợp. Bởi các thử thách của cuộc sống luôn đến với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, dẫu ta sợ thì nó vẫn đến, dẫu ta lờ nó đi thì nó vẫn hiển hiện, chỉ còn cách đương đầu và vượt qua nó một cách chủ động, hợp lý.
Tập sách này là các gợi ý của tác giả về những điều mà chúng ta có thể xem là các thử thách, thực tế chỉ là một số thôi, vì cuộc sống còn có biết bao thử thách khác mà chúng ta không thể liệt kê ra hết, đồng thời ít nhiều nêu ý kiến chủ quan về việc vượt qua nó. Các chia sẻ đó có thể đúng với người này nhưng chưa hẳn đúng với người kia, có thể có ích với người này nhưng vô bổ với người khác. Điều duy nhất tác giả muốn người đọc đồng cảm là, thay vì sợ hãi, ta nên nghĩ đến khả năng lớn lao của bản thân mình có thể vượt qua nỗi sợ, thay vì nhìn cuộc sống bằng một lăng kính xám xịt thì hãy nghĩ đến những khoảng sáng đẹp đẽ nào đó. Vì khi nghĩ đến những điều đó thì ta sẽ thấy tự tin ở bản thân, sẽ thấy tin tưởng vào những điều tốt đẹp của cuộc sống.
Và khi đó, ta sẽ vượt qua được nỗi sợ!
Nguyễn Minh Hải
Lịch Sử Nhà Tù Côn Đảo 1862-1975 (Tái Bản 2019)
Cuốn sách là bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu tranh ở Côn Đảo qua các thời kỳ, là khúc hùng ca trong thiên anh hùng ca vĩ đại của dân tộc trong cuộc chiến chống thực dân, đế quốc để giành độc lập tự do; là tài liệu quý để bồi dưỡng ý chí chiến đấu, tinh thần lạc quan và niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng, giáo dục các thế hệ ngày nay và mai sau: lòng tự hào và biết ơn các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội để từ đó phấn đấu học tập sao cho xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh chúng ta.
Để có cái nhìn chính xác, khách quan trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành khảo cứu một khối lượng tài liệu lớn bao gồm:
- Tài liệu lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ quốc gia, thư viện khu vực, thành phố và các trường, viện nghiên cứu về chương trình, nội dung, phương pháp dạy học; các văn bản của chế độ Việt Nam Cộng hòa liên quan đến hệ thống giáo dục, mô hình giáo dục; các văn bản chỉ đạo của Bộ Quốc gia Giáo dục sau này là Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên của chế độ Việt Nam Cộng hòa về chương trình, sách giáo khoa và các hoạt động của trường phổ thông.
- Các công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến giáo dục miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 của nhiều học giả, nhà khoa học.
- Các văn kiện, sách, báo, nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát, phỏng vấn nhiều thầy, cô giáo ở miền Nam trước đây để tìm hiểu thêm về nền giáo dục phổ thông Việt Nam Cộng
hòa giai đoạn 1954 - 1975.
Bố cục của cuốn sách, ngoài lời nói đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo, còn bao gồm 5 chương nội dung:
Chương 1: Tổng quan về giáo dục miền Nam
Chương 2: Chương trình giáo dục phổ thông miền Nam
Chương 3: Giáo viên và quản lý trường học
Chương 4: Công tác khảo thí và thanh tra trường học
Chương 5: Một số nhận xét về giáo dục phổ thông miền Nam và đề xuất đổi mới giáo dục hiện nay
Để phục vụ đông đảo bạn đọc cần tìm hiểu sâu hơn về giáo dục phổ thông miền Nam, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục giới thiệu một số chuyên đề nghiên cứu sâu để độc giả có thể tham khảo.
Do nguồn tài liệu còn hạn chế, nhiều sự kiện, vấn đề việc nhận định đánh giá cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy việc cung cấp tư liệu và nhận định của chúng tôi không tránh khỏi những thiếu sót, phiến diện. Chúng tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà giáo, các nhà khoa học và quý độc giả để cuốn sách được hoàn thiện hơn. Trân trọng cám ơn!
Thay mặt nhóm tác giả
PGS. TS. Ngô Minh Oanh
Thầy thuốc và bệnh nhân là những lời tâm tình, chia sẻ kinh nghiệm của một người thầy thuốc với 40 năm tuổi nghề. Trong lần tái bản này, sách đã được bổ sung nhiều đề tài mới mang tính thời sự như tình trạng quá tải ở bệnh viện, vấn đề đào tạo y khoa, chất lượng cuộc sống của người bệnh, tham vấn sức khỏe và đặc biệt quan hệ giữa thầy thuốc và nhà báo! Sách là một món quà tặng ý nghĩa cho bệnh nhân và gia đình, đồng thời cũng là một tài liệu tham khảo cần thiết cho mỗi sinh viên y khoa và các thầy thuốc trẻ.
Tác giả: Trần Huiền Ân
Tên thật Trần Sĩ Tuệ
Sinh năm 1937 – Đinh Sửu
Quê ở làng Vân Hòa, tổng Sơn Xuân, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên
Phú Yên đất và người
Viết về một địa phương, kẻ đi sau có cái lợi là được người đi trước tạo cho ít nhất cũng một đường mòn hay một lối bẻ lau vạch cỏ. Đồng thời có cái thiệt thòi của kẻ đi sau. Không ít sự kiện khi xem đến bạn đọc có thể có cảm tưởng đã biết sơ qua một cách đơn giản trên một trang sách, một bài báo nào đó, hay mang máng nhớ rằng…
PHÚ YÊN - ĐẤT VÀ NGƯỜI là tập sách viết về đất nước - quê hương, nhưng không phải là địa chí Phú Yên, nên không theo trình tự một quyển địa chí, chúng tôi cũng không có tham vọng miêu tả, tường thuật đầy đủ mọi cảnh trí, sinh hoạt của Phú Yên kể từ thuở những lưu dân người Việt theo bước chân Lương Văn Chánh đến đây lập nghiệp.
Chúng tôi chỉ ghi lại những gì mình tìm hiểu được, biết được. Một phần, có thể cung cấp tư liệu chính thức cho những người muốn sưu tầm nghiên cứu về Phú Yên. Phần khác, là những chuyện trên trời dưới đất để kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu. Do đó, chấp nhận vượt qua sự chặt chẽ trong bố cục, hàm súc trong diễn tả, mà chuyện gì biết nhiều thì nói nhiều, biết ít thì nói ít, không chú tâm cắt xén cho cân xứng.
Việc sắp xếp các phần, chương, mục chỉ là tương đối.
Muốn thuận tiện cho bạn đọc, tránh sự lặp lại, cái tương đối ấy nhiều khi càng tương đối hơn. Bởi có thể coi một phần trong tác phẩm là chuyện dân gian, dân ca… cà kê dê ngỗng với nhau, tạo thêm phần hứng thú cho những người yêu mến hoặc muốn tìm hiểu về Phú Yên..
Tập sách có 5 phần chính:
1. Lược sử một vùng đất
2. Thiên nhiên
3. Đời sống kinh tế - xã hội
4. Đời sống tinh thần
5. Di tích - Nhân vật
Thời điểm chúng tôi bắt đầu tập hợp dữ liệu sơ thảo từ năm 1996, đến nay (2019) qua nhiều lần chỉnh lý, bổ sung để được cập nhật.
Mong muốn của chúng tôi là giữ được sự trung thực, khách quan, mức độ cao chừng nào hay chừng ấy. Và, những quan điểm trình bày ở đây là quan điểm của cá nhân tác giả.
Thật là điều vô cùng quý hóa đối với chúng tôi nếu được quý bậc thức giả, quý thân hữu, quý bạn đọc... chỉ bảo cho những điều còn thiếu sót, để chân dung quê hương Phú Yên không phải ký họa mà là một bức tranh toàn cảnh, đầy đủ, trọn vẹn, chân xác hơn.
Trần Huiền Ân
Trích “Dân số”:
- Giữa thế kỷ thứ XVII triều đại nhà Minh ở Trung Hoa suy yếu, bị người Mãn Thanh đánh đổ. Một số quan quân trung thành với triều đại cũ không chịu sống dưới chế độ cai trị của người Mãn, đã bỏ nước kéo nhau di cư sang miền đất mới của nước Việt, được thu dụng cho định cư từ Hội An đến Hà Tiên, trong đó có Phú Yên mà Vũng Lấm là người Minh Hương, cho đến năm 1945 còn gọi như vậy.
Năm 1865 - Ất Sửu, Ngự sử Nguyễn Văn Phương tâu vua Tự Đức:
“Ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đất rộng người ít, mở mang được hết. Xin xuống sắc cho tỉnh Quảng Nam và các hạt lân cận như Quảng Ngãi khai rõ những người ngoại tịch và dân không có căn cước dẫn giao cho các tỉnh (Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận) chọn đất chia cho ở, cấp trâu cho cày, đồ làm ruộng để khai khẩn cày cấy những ruộng bỏ hoang, dựng ra thôn xã, ghi vào sổ ngạch…”.
Vua Tự Đức cử Nguyễn Văn Phương làm Khâm phái doanh điền, đặt nha Doanh điền để lo liệu công việc, đến hội với các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, đưa dân vào trong 3 tỉnh phía trong (có Phú Yên) định cư. -
- Xin hãy hình dung và nhẩm tính… Ngày ấy, một ngày cách đây trên 400 năm, Lương Văn Chánh nhận sắc chỉ đưa dân vào cõi Trấn Biên, nơi này có được bao nhiêu người? Kể cả những người dắt trâu bò, mang nông cụ theo sau vó ngựa Phù Già. Kể cả những người lâu năm định trú trong vùng châu thổ từ vịnh Bà Đài phía bắc đến cửa Đà Diễn phía nam, lên phía tây thượng nguồn sông Ba, sông Cái.Thật là khó. Âu cũng đành chào thua khuyết sử!-
Một câu chuyện đời, cũng là một chuyện tình, rất đỗi đau thương. Jude làm tôi nhớ tới Kiếp người của Somerset Maugham. Nhưng Philip Carey rốt cuộc cũng tìm được hạnh phúc muộn màng, còn Jude cả đời phấn đấu, mà không vẫn hoàn không. Nada y pues Nada. Kính mừng hư vô toàn hư vô. Những nhà phê bình Anh Mỹ nói rất nhiều điều, nhiều khía cạnh về tác phẩm này, nhưng họ bỏ quên một điều: Ý nghĩa của Hư vô bàng bạc mênh mang trong Jude.
“Tác phẩm gồm 16 truyện ngắn kể về cuộc đời những nhân vật vùng đất phương Nam có thật nhưng ít được nhắc đến hoặc bị lãng quên theo dòng chảy thời gian. Bằng giọng văn rất riêng, đậm chất Nam bộ, tác giả đã mang đến cho người đọc câu chuyện sinh động về những con người hào sảng, phóng khoáng, luôn biết hy sinh vì nghĩa lớn.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi