1. Trang Chủ
  2. ///

Nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM

Tổng hợp sách của nhà cung cấp NXB Tổng Hợp TPHCM
quà tặng cho con

Quà tặng cho con

Tác giả: Trần Nguyên Hạnh

Bút danh: Trần Nguyên Hạnh

Tên thật: Nguyễn Thị Hạnh

Sinh ngày 7/6

Hiện sống và làm việc tại Đà Nẵng

 

Quà tặng cho con

Tôi tin rằng mỗi người mẹ hẳn đều mong muốn dành tặng cho con mình những điều tốt đẹp nhất. Với một người viết như tôi, ngôn từ chính là tài sản, là quà tặng và là cầu nối giúp tôi hiện thực hóa mong muốn ấy. Đó là lý do tôi viết cuốn sách này- như món quà từ một người mẹ dành tặng các con của mình.

Tôi cho rằng, yêu thương bắt nguồn từ sự lắng nghe, chia sẻ và thấu hiểu. Ở mỗi chặng đường của cuộc đời mình, tôi luôn nhận thấy tình yêu thương chính là điều duy nhất gắn kết tôi với cuộc sống này. Tôi cũng tin rằng tình yêu thương chính là điều gắn kết những thế hệ khác nhau. Trong một mái nhà, khi yêu thương lan tỏa, sẽ chẳng có cơn gió nào đủ sức làm lạnh lẽo tâm hồn.

Nếu ngôn ngữ như một sợi dây thì cảm xúc sẽ làm nhiệm vụ kết nối hai đầu sợi dây ấy. Thật may mắn khi tôi có thể dùng con chữ của mình để chia sẻ một điều gì đó. Cảm ơn tình yêu thương và những cảm xúc đẹp đẽ nhất đã luôn ở lại bên cạnh tôi, để tôi có thể đặt bút xuống viết nên cuốn sách này.

Trong cuộc đời, nếu không được yêu thương, thì chúng ta sẽ không có niềm tin vào những điều tốt đẹp, chúng ta cảm thấy tự ti, dễ dàng bị lạc lối và bị dẫn dắt bởi điều xấu. Tôi ao ước rằng cuốn sách này sẽ được đón nhận như một lời thì thầm đầy sự động viên, an ủi và khích lệ cho những tâm hồn mong manh và thiếu thốn tình thương. Mặc dù cuốn sách được viết ra không phải từ một người mẹ đã chinh qua biết bao đắng cay khổ ải của cuộc đời, cũng không nhằm mục đích giáo huấn con cái nhưng tôi đã viết cuốn sách này bằng tất cả những thanh âm đầy yêu thương đang réo rắt trong tâm hồn mình với mong muốn lại gần hơn nữa những tâm hồn như thế. Tôi muốn đến với chúng như một người bạn, mang những câu chuyện thật nhất từ trải nghiệm để đồng cảm và sẻ chia.

Đi cùng những dòng viết rất chậm dưới đây là những tháng năm tôi đang sống và cố gắng để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Dù vậy, dẫu đi qua những ngày xanh thẳm hay những mệt mỏi, lo toan, cùng kiệt giữa đời sống, tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ đến việc bỏ lỡ cuốn sách này.

Mến tặng cuốn sách này cho các con của tôi cùng những tâm hồn mong manh trong cuộc đời - bằng tất cả yêu thương.

Và cho những ngày Sài Gòn nhiều gió.

Nơi tuổi trẻ của tôi đã ở lại.

Với biết bao niềm vui xen lẫn những nỗi buồn sâu đậm.

Sài Gòn, ngày 02.01.2019

Tác giả

 

Trích đoạn Con là phiên bản đặc biệt nhất của chính mình:

Con thân yêu, con là phiên bản đặc biệt nhất của chính con. Hãy luôn nhớ lấy điều này và tự tin lên con nhé.

Có thể một lúc nào đó, con quên mất điều này khi thấy những người bạn khác có điều mà con không có được. Nhưng con à, thế giới không thiếu những người đi ngưỡng mộ những điều

người khác đang có và ao ước có được điều người khác đang sở hữu mà quên mất rằng họ cũng đang sở hữu những tiềm năng và tài sản mà người khác không có được. Hãy tập trung hết sức lực để phát huy tiềm năng của mình. Khi đó, con sẽ chẳng phải nhìn ngắm và ao ước những điều không thuộc về con.

Đừng để cho những tiềm năng trong con phải ngủ yên  mãi  khi  con  chăm  chú  vào  cuộc  đời  người khác hay mong cầu mình cũng sở hữu những điều người khác đang có. Mỗi người đến với cuộc đời này với một vai trò, một sứ mệnh khác nhau và mang  trong  mình  những  tiềm  năng  khác  nhau.

 

Trích đoạn Hãy học cách bảo vệ trái tim:

Hãy luôn ý thức bảo vệ trái tim của mình, để tránh khỏi những tổn thương không đáng có.

Con gái yêu quý, bởi vì trái tim con người là thứ mong manh vô cùng nên hãy học cách bảo vệ nó,

con nhé.

Dẫu  các  bác  sĩ  tim  mạch  vẫn  ngày  đêm  nhắc nhở  chúng  ta  những  nguyên  tắc  vàng  để  có một trái tim khỏe mạnh như hãy tránh xa khói thuốc  lá,  hãy  luyện  tập  thể  dục  thể  thao,  phải xây  dựng  một  chế  độ  dinh  dưỡng  hợp  lý,  hay cố gắng giảm các thức uống có cồn… Thì tất cả những điều đó mẹ vẫn nghĩ là chưa đủ cho một đứa con gái đâu.

 

Để học cách bảo vệ trái tim, con cần hiểu rõ về trái tim của mình. Hầu hết hành động và suy nghĩ của con gái thường đều tập trung ở trái tim. Trái tim  trở  thành  một  vị  trí  trung  tâm  điều  khiển hầu hết mọi suy nghĩ hành động của con gái. Đó cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa con gái và con trai. Khi con gái  sử  dụng  trái  tim  vào  hầu hết tất cả mọi việc thì con trai lại ưu tiên dùng lý trí nhiều hơn. Điều đó cho thấy vì sao con trai thường mạnh mẽ, bản lĩnh khi ứng xử trước một tình huống trong cuộc  sống, trong khi con gái thường yếu đuối, suy nghĩ lẫn hành động thiên về cảm xúc nhiều hơn.

Cũng bởi vì vậy, khi con gái rơi vào tình yêu sẽ dùng trái tim và cảm xúc nhiều hơn là con trai. Trong  khi  đó  cảm  xúc  là  một  thứ  rất  nguy  hại. Đắm chìm trong cảm xúc và bị dẫn dắt bởi cảm xúc thì thật khó để có thể ứng xử sáng suốt trong tình yêu. Hầu hết con gái thường yêu hết mình và sẵn sàng dâng hiến tất cả trái tim mình cho người  yêu.  Trong  cuốn  sách Thuật  yêu  đương, tác giả Nguyễn Duy Cần có viết về con gái như sau: “Họ yêu bằng quả tim, họ suy nghĩ bằng quả tim, hành động theo cảm xúc của quả tim. Tình yêu của con gái là một thứ tình yêu vị tha, nghĩa là trung tâm tình yêu của họ không phải nơi họ mà  là  nơi  một  kẻ  khác,  một  kẻ  mà  yêu  thương như chồng, con, cha, anh, bè bạn.” Điều này chính là nguồn gốc cho những đau khổ luôn xảy đến với con gái.

Mẹ mong con hiểu rõ những nhược điểm của trái tim mình để có thể điều chỉnh suy nghĩ và hành động của chính con. Hãy sống với một trái tim con gái nhưng nên biết giữ chút tỉnh táo trong tình yêu để có thể tránh khỏi những tổn thương không đáng có.

Nhiều người con gái quên mất giá trị của chính mình, quên mất mục đích chúng ta bước vào tình yêu mà sẵn sàng chạy theo, quỵ lụy một người con trai, làm tất cả mọi điều để người con trai đó vui vẻ, thậm chí đánh mất bản thân mình. Không những vậy họ còn đem cả, những thứ quý giá chỉ dành cho người chồng tương lai trao cho người chưa chắc có phải là chồng của mình hay không.Việc  sẵn  sàng  trao  đi  tất  cả  mọi  thứ  cho  một người  con  trai  chưa  chắc  chắn  sẽ  khiến  người con gái sống trong cảm giác bất an và lo sợ anh ta sẽ có lúc bỏ rơi mình. Tình yêu và cuộc sống của người con gái lúc này phụ thuộc hoàn toàn vào người con trai ấy.

Con yêu, mẹ mong con sẽ không sống như thế. Bởi vì con xứng đáng được một người con trai yêu  thương, và trân trọng con. Một người sẵn sàng đánh đổi thời gian, quan tâm, lo lắng và yêu thương con vô điều kiện. Một người bản lĩnh và chuẩn mực có thể làm chủ gia đình, làm nơi nương tựa cho con, làm bố các con của con. Để gặp  được  một  người  con  trai  như  thế,  con  cần hiểu  rằng  bản  thân  mình cũng  phải  trở  thành một người xứng đáng với điều đó.

những việc cần làm ngay

 “Một N.V.L hay vài N.V.L không thể biết hết mọi việc, nói hết mọi việc và làm hết mọi việc. Chỉ có sự nhất trí hành động của toàn Đảng, toàn dân mới có thể tạo nên chuyển biến thật sự cho đất nước”. - Nguyễn Văn Linh

 

Lời nói đầu

Chuyên mục “Những việc cần làm ngay” gồm 31 bài báo của tác giả N.V.L. đăng tải trên báo Nhân dân từ ngày 25-5-1987 đến 28-9-1990 là một chuyên mục tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống xã hội và báo chí những năm đổi mới. Với tinh thần đổi mới thật sự và chống tiêu cực mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng đất nước đi dần đến ổn định, các bài báo ký tên N.V.L. của chuyên mục “Những việc cần làm ngay”đã nhận được sự ủng hộ rộng lớn từ khắp nơi và của hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Có thể thấy ý nghĩa to lớn của loạt bài ký tên N.V.L. thể hiện ở khía cạnh: vừa là đường hướng lãnh đạo, đáp ứng đòi hỏi của tình hình, vừa phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, cán bộ cả nước.

Dấu ấn và đóng góp của chuyên mục không chỉ riêng trong lĩnh vực báo chí và kinh tế – xã hội giai đoạn đầu đổi mới mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc, còn nguyên giá trị đến hôm nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mụctiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh chính là tác giả của 31 bài báo ký tên N.V.L. trong chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân, lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhân kỷ niệm 95 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 – 21-6-2020) và kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1-7-1915 –1-7-2020), Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ giới thiệu lại nguyên văn 31 bài báo của tác giả N.V.L. trong chuyên mục cùng tên “Những việc cần làm ngay”. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ

lịch sử thế giới

Lịch sử thế giới

“Lịch sử là cái gương cho người đời; nếu biết tường việc trước có thể đoán được việc sau, dẫu không đoán được đúng hẳn, nhưng cũng biết cái đại thế các việc trong thiên hạ, hễ nguyên nhân nhân thế thì kết quả thế, khi thi thố ra công việc cũng tránh được nhiều sự sai lầm”.

“Nhà làm sử xét một xã hội nào phải biết cả những thói ăn cách ở của những người trong xã hội ấy; càng những việc nhỏ việc thường, đối với con mắt nhà sử học, lại có quan hệ lắm, vì là tiêu biểu được cái tình trạng thông thường trong xã hội. Bởi thế nên lịch sử không phải là chỉ khu khu trong những việc trận mạc, việc vua quan, mà bao quát cả các chế độ, tư tưởng, phong tục, kinh tế, các trạng thái phiền phức về xã hội. Lịch sử ngày nay tràn sang khắp cả các khoa học khác, không có một khoa học nào mà không có một phần lịch sử ở trong. Cái quan niệm rộng rãi về lịch sử đó mới khởi ra từ thế kỷ XIX, nên có người đã gọi thế kỷ ấy là “thời đại của lịch sử” (le siècle de l’histoire)”.

 

Xét riêng từng dân từng nước, thời mỗi nước mỗi dân có một cái văn hóa riêng, khác với văn hóa của các dân các nước khác. Nhưng xét chung cả vạn quốc trong thế giới, thì hình như cả nhân loại đều theo một con đường tiến hóa chung, trải đời ấy sang đời khác, tự dã man đến bán khai, tự bán khai đến văn minh, tới ngày nay thời đã đến một cõi văn hóa đại đồng, tuy ở trong có dân hơn dân kém, trình độ sai nhau, mà xét đại thế thời cũng là thuộc vào một thời kỳ trong lịch sử. Cho nên nhà sử học xét về văn minh tiến hóa, có thể theo hai phương diện khác nhau: một là khảo về lịch sử văn minh riêng của từng nước; hai là khảo về lịch sử văn minh chung cả thế giới. Phương diện trên là phương diện chuyên môn, phương diện dưới là phương diện tổng quát. Chuyên môn thời vụ cho tinh tường, tổng quát thì chủ lấy khắp đủ. Một thế kỷ về trước, cuộc đời chửa mở mang, các nước còn bế cảng, nhà sử học dẫu có tài bao quát đến đâu cũng không mong lý hội (*) được hết các việc của vạn quốc; cho nên tuy nước nào có lịch sử nước ấy, biên chép rõ ràng, mà chửa ai tổng hợp cả sử riêng của các nước, làm ra một bộ sử chung của nhân loại, cho biết giống người ta từ khi mới xuất hiện trên mặt đất đã qua bao nhiêu trình độ mới tới ngày nay, và trong cái công khai hóa chung cả thế giới, mỗi dân mỗi nước đã giúp được phần nào. Ngày nay khoa học tấn tới, vạn quốc thông đồng, việc một trăm năm trước chửa ai làm, bây giờ đã nhiều người chuyên trị, và những sách về “Thế giới văn minh sử” hiện nay ở nước nào cũng đã có. Song bao gồm cả lịch sử loài người, từ thuở ăn lông ở lỗ cho đến đời tàu lặn tàu bay, phạm vi không khỏi to tát quá, dù nhà bác học tận tụy một đời cũng chửa mong khảo cứu được khắp, chẳng qua là phác họa được cái đại cương mà thôi. Bởi thế nên các nhà sử học chuyên trị về lịch sử văn minh thế giới, thường chia ra những thời kỳ lớn, mỗi thời kỳ đối với một việc đại sự hay là một cuộc đại biến trong thiên hạ, có ảnh hưởng sâu đến cuộc tiến hóa chung, mỗi thời kỳ cách nhau tới trăm nghìn năm, khác nào như cắm mốc trên con đường dài, mỗi cái xa nhau tới trăm nghìn thước vậy. Những cái mốc ấy, người đi đường tất phải biết, mới đo được bước đường mình đã qua, rõ được trình độ mình đã tới, và ngó thấy tiền đồ còn phải đi. Bởi thế không thể không biết qua các thời kỳ lớn trong lịch sử văn minh thế giới; mục đích sách này chính là để cống hiến cho các nhà hiếu học trong nước ta mấy điều cốt yếu về lịch sử loài người mà ai ai cũng cần phải biết vậy.

*. Lý hội: sự thấu hiểu.

Những chú thích đánh dấu (*) là của BT.

 

Lời nói đầu

Những thập niên cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, trong đó, phương tiện quan trọng để phổ biến và hoàn thiện chữ quốc ngữ chính là báo chí quốc ngữ. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm ra đời ngày 01/7/1917 là một trong số đó.

Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay sau khi đỗ đầu bằng Thành chung ông đã được bổ làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ (1908), sớm tham gia Đông Dương tạp chí (1913), có nhiều bài báo được độc giả đương thời chú ý. Vì nền tảng tư chất học thuật và những đóng góp, trải nghiệm thực tế đó mà Phạm Quỳnh được giao cho phụ trách Nam phong tạp chí.

Tạp  chí  tồn  tại  trong  hơn  17 năm, từ  tháng 07/1917 đến tháng 12/1934, chủ trương “thổ nạp Á - Âu, điều hòa tân cựu”, với tôn chỉ rất rõ ràng:Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật Đông Tây kim cổ; luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn…

Các tác giả của Nam Phong tạp chí khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á Đông và châu Âu, dịch những tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, đăng những sáng tác đương đại… Tinh thần tranh biện, phản biện, lý luận đề cao cái mới trên Nam Phong tạp chíđược đánh giá là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc nhưng vẫn có giá trị bảo tồn văn hóa, văn học truyền thống. Nhiều bài viết có tính học thuật khá cao, đến nay vẫn được tham khảo.

Ban  Biên  tập Nam  phong  tạp  chí thành  lập nhà xuất bản riêng, lấy tên là Nam Phong tùng thư, cùng có chung tôn chỉ, mục đích: “… dùng chữ quốc ngữ làm lợi khí để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một  lên  cao”. Nam phong tùng thư in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng.

Đến hôm nay, những cuốn sách tuổi đời gần trăm năm, trong đó có sách của Nam Phong tùng thư vẫn  còn  nằm  đâu  đó  trong  bộ  sưu  tập  của những người đam mê sách hay được bảo quản tại hệ thống thư viện. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc, giảng viên, học sinh, sinh viên đã đến thư viện tìm đọc những cuốn sách này để tìm hiểu chữ quốc ngữ thuở ban đầu ra sao, các bậc trí thức ngày xưa đã bước đầu tham dự vào lĩnh vực học thuật, văn hóa, khoa học thế giới như thế nào… Nhưng số lượng sách có một thế kỷ tuổi đời như vậy được lưu giữ ít ỏi và quá cũ, rất khó để nhiều lượt bạn đọc có thể tiếp cận và sử dụng.

Với  mong  muốn  khôi  phục  lại  những  cuốn sách xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ phối hợp với Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chọn lọc và in lại một số tập sách. Đầu tiên chúng tôi chọn ra mắt bạn đọc ba cuốn sách của Nam Phong tùng thư do Phạm  Quỳnh  biên dịch, biên soạn, gồm:

•  Lịch sử thế giới

•  Lịch sử và học thuyết của Voltaire

•  Khảo về tiểu thuyết - Tục ngữ ca dao

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ

những chuyến tàu mùa hè

“Nếu gặp laị nhau ngày sau, liệu ta sẽ thế nào?”

Tác giả: Bỉnh Khôi

Sinh năm 1992

Quê quán: Cần Thơ

 

“Những chuyến tàu mùa hè mang đến một giọng văn rất đặc biệt và nhiều cảm xúc” – TS. Bùi Trần Quỳnh Ngọc, Trưởng phòng Sau Đại học trường Đại Học  Sư phạm TP.HCM

“Những chuyến tàu mùa hè gợi cho tôi nhiều cảm xúc về những năm tháng tuổi trẻ. Về những người trẻ ngây thơ, mộng mơ, cuồng nhiệt với những giấc mơ đời mình. Và vì thế thanh xuân của chúng ta thật đẹp”. – TS Luật - Luật sư - Họa sĩ Amanda Huỳnh

 

Lời nói đầu

Vài lời gửi những người thương,

Tôi không nghĩ đây là một quyển sách, hay là một công trình nghệ thuật mà chỉ là một quyển sổ ghi chép về hành trình tìm kiếm hạnh phúc của những người trẻ. Đó là một cậu bé đen nhẻm, hay bị bạn bè ức hiếp ở trường trung học. Một chàng trai đồng tính với xuất thân từ gia đình giàu có nhưng luôn cô quạnh vì những lời miệt thị của cuộc đời. Một cô gái trót lầm lỡ với người yêu nơi phương xa. Một người đàn ông đang đứng trên đỉnh cao của thành công nhưng lại luôn mang trong mình sự ray rứt, đau khổ khi nghĩ về thời gian thanh xuân cơ cực sống cùng bố mẹ. May mắn thay, hình như có một phép màu nào đó mà khi đối diện với những đau khổ trong cuộc đời, tất cả họ đều có thể vượt qua và tiếp tục bước đi trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Hy vọng rằng những câu chuyện được ghi chép từ quyển sổ này có thể tạo nên sự đồng cảm với những bạn trẻ khác, những bạn trẻ cũng đang bước đi cô đơn và đối mặt với nhiều khó khăn trên đoạn đường mình đã chọn.

Cảm ơn bố mẹ vì đã sinh ra con với một tâm hồn nhiều xúc cảm để con có thể sống một cuộc đời bình thường, viết nên những dòng chia sẻ bình thường và chân tình gửi đến những người con yêu quý.

Bỉnh Khôi (FOX)

 

Trích đoạn ĐÊM HÔM ẤY BA TÔI CÓ THÈM MỘT TÁCH TRÀ?

Lớn lên, đi học, đi làm xa nhà, mỗi khi buồn bực tôi hay ước mình được trở về với ba mẹ, buổi sáng nằm trong chăn, nghe tiếng hát của Khánh Ly xuyên qua tấm màn the trước cửa. Sau đó là tiếng ấm nước đun sôi, ba mẹ tôi dậy sớm vừa pha trà uống vừa trò chuyện rôm rả.

Ấm trà luôn gợi tôi nhớ về những buổi sáng ba hay khoe với mẹ rằng mới được chồng cọc gỗ tràm hay vụ lúa mùa này trúng lớn. Tôi đập tay lên mặt ông  anh  trong  cơn  ngái  ngủ: “Vậy là  mai ba mua quần áo mới cho đi học. Có gạo đổi bánh ống ăn nữa”. Sáng đó, cả gia đình tôi đã dậy rất sớm. Trên chiếc xuồng ba lá nhỏ, ba mẹ chèo ngược con nước đưa chúng tôi ra phiên chợ quê để sắm sửa vài ba vật  dụng trong nhà, nào là muối, là gạo, là buồng cau cho nội, là khúc vải may áo cho mẹ. Niềm vui ngày đó giản đơn nhưng ấm áp. Những năm tháng sau này, khi đã đi làm và kiếm được rất nhiều tiền, đủ để mua cho ba mẹ và bản thân nhiều thứ nhưng chẳng bao giờ tôi có thể tìm lại được cảm giác hân hoan của ngày xưa ấy.

 

Trích đoạn MÙA HÈ NĂM ĐÓ, GIÓ ĐÃ THỔI TÔI ĐI ĐÂU?

Vết thương đau tê tái nhưng nguyên biết nó không đau bằng lòng mình. Thứ niềm đau âm ỉ, ghê sợ quấn chặt trái tim khi nghĩ về Quân, nghĩ về những chiếc hôn, về hơi thở dồn dập của cậu ấy trên một bầu ngực nào khác – chẳng phải Nguyên.

Hôm cuối cùng gặp nhau, Nguyên ngồi đối diện Quân ở một quán cà phê vắng người giữa lòng Sài Gòn. Nguyên nhớ mình đã ghìm chặt những tổn thương trong lòng để hỏi anh: “Anh biết Lan là bạn thân của em mà? Sao anh lại ngủ với Lan?”. Quân cúi gầm mặt để lảng tránh đôi mắt sắc lạnh của Nguyên, đôi mắt mà anh từng bảo chỉ muốn nhìn mãi không thôi giờ đã sưng húp. Khi sóng mũi bắt đầu cay xè, Nguyên quay đi nơi khác và nghe rõ mồn một từng thanh âm đau đớn phát ra nơi cổ họng: “Anh biết em đã cùng lớn lên với Lan, chúng em đã cùng nhau tốt nghiệp, cùng nhau đi du lịch, cùng hứa là sẽ tổ chức lễ cưới chung với nhau mà? Anh biết mà đúng không Quân?”. Nguyên nấc lên từng hồi trong niềm uất hận và cả sự bất lực. Đổi lại là hai từ “xin lỗi” vô nghĩa từ Quân. Chỉ một tấm kính ngăn cách chỗ họ ngồi với thế giới bên ngoài kia nhưng đó là hai bầu trời khác nhau, Nguyên thấy cuộc đời mình tăm tối và buồn tẻ còn Sài Gòn thì vẫn nhộn nhịp và đông vui. Quân thì vẫn ở đó. Lan cũng vẫn ở đó cách vài ba con phố đợi anh về với chiếc bụng phình to. nỗi buồn cũng vẫn ở đó. Sự phản bội cũng vẫn ở đó. Chỉ có tình yêu của người mà Nguyên đặt cược bằng cả tuổi thanh xuân đã biến mất tự bao giờ.

bộ combo chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954: tập 1 + 2 (bộ 2 tập)

Combo Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954: Tập 1 + 2 (Bộ 2 Tập) 

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

1. Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 1 (Tái Bản 2018)

2. Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 2 (Tái Bản 2018)

bộ combo chuyện tình các danh nhân việt nam : tập 1 + 2 (bộ 2 tập)

Combo Chuyện Tình Các Danh Nhân Việt Nam : Tập 1 + 2 (Bộ 2 Tập) 

Sách CHUYỆN TÌNH CÁC DANH NHÂN VIỆT NAM (hai tập) giúp bạn đọc hiểu thêm tình cảm sâu kín - những tình cảm rất thật trong đời thường và rất đáng cho hậu thế chúng ta trân trọng cũng như cần biết khi nghiên cứu, tìm hiểu sự nghiệp của các danh nhân Việt Nam. Qua đó, có thể thấy được những tình cảm trong sáng, những rung động đầu đời rất mãnh liệt; những mối tình thủy chung son sắt đáng cho đời sau nhớ mãi.

Làm sao có thể quên được những giai nhân đã góp phần không nhỏ cho các bậc danh nhân làm nên sự nghiệp lớn? Có thể khẳng định, họ là những người lặng lẽ đứng phía sau, nhiều lúc không ghi lại tuổi tên, nhưng công đức của họ thật lớn lao.

Nếu không có những phụ nữ biết quên mình, biết chịu đựng để lo toan cho chồng như bà Dương Như Ngọc (vợ Ngô Quyền), bà Ba Cẩn (vợ Đề Thám), bà Lê Thị Tỵ (vợ Phan Châu Trinh), bà Lê Thị Lễ (vợ Lương Văn Can), v.v… liệu các danh nhân này có để lại sự nghiệp hiển hách như ngày nay?

Điều khiến chúng ta cảm động, dù không lưu lại tuổi tên như người tình đầu, người vợ của Vũ Khâm Lân, Cao Bá Quát, Tú Xương v.v… nhưng họ mãi mãi là hình ảnh đáng tự hào của phụ nữ nước Nam ta. Và cũng qua các mối tình này, ta thấy được tấm lòng thủy chung son sắt của bà Đặng Thị Cẩn, Lê Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân, Trương Thị Sáu, v.v… khi dành cho người tình đầu, người chồng của họ.

1. Chuyện Tình Các Danh Nhân Việt Nam - Tập 1

2. Chuyện Tình Các Danh Nhân Việt Nam (Tập 2)

combo chuyện về ngày bầu cử (tập 1) + chuyện về kì họp thứ nhất (tập 2) (bộ 2 cuốn)

Combo Chuyện Về Ngày Bầu Cử (Tập 1) + Chuyện Về Kì Họp Thứ Nhất (Tập 2) (Bộ  2 Cuốn)

Cuộc họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày độc lập tại Bắc Bộ phủ (3-9-1945) đã mở đầu quá trình chuẩn bị cho cuộc phổ thông đầu phiếu gấp rút được thực hiện trong khoảng thời gian gần 4 tháng. Đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm trên đất nước vừa hồi sinh, “hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” .Từ cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, đánh dấu bước nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới. Trong Diễn văn khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút rằng: “Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này là lần đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó là một kết quả của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, mà cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”. Ngày 5-1-1946, Người ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu với lý lẽ “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình” . Người hy vọng ngày mai sẽ có những đại biểu có mặt trong thành phần Quốc hội sau cuộc Tổng tuyển cử sao cho xứng đáng với niềm tin yêu, sự phó thác trách nhiệm cao cả của quốc dân lên đôi vai mình mà “ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào”, phải biết lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc làm lợi ích cao nhất, thiêng liêng nhất.Kết quả cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 diễn ra thật tốt đẹp như mong muốn của Người. 70 năm đã trôi qua, nhưng ngày bầu cử Quốc hội 6 tháng 1 năm 1946 - ngày khai mở cho lịch sử lập hiến nước Việt Nam độc lập, tự do vẫn mãi mãi lắng sâu trong ký ức dân tộc. Những thế hệ người Việt Nam 70 năm qua và thế hệ tiếp nối mãi mãi lưu giữ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đứng đầu Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, người lĩnh trách nhiệm cao nhất trong việc đề xướng và chỉ đạo tổ chức cuộc Tổng tuyển cử lịch sử, Người cũng là hiện thân của nền dân chủ cộng hòa.Những câu chuyện về ngày bầu cử đầu tiên ấy đã trải qua 70 năm nhưng vẫn được lưu truyền, được kể để nhớ mãi, như cách vua Trần Nhân Tông xưa làm “Người lính già đầu bạc; Kể mãi chuyện Nguyên Phong” …

1. Chuyện Về Kì Họp Thứ Nhất (Tập 2)

2. Chuyện Về Ngày Bầu Cử (Tập 1)

bộ combo sài gòn đất lành chim đậu: tập 1 + 2 (bộ 2 tập)

Combo Sài Gòn Đất Lành Chim Đậu: Tập 1 + 2 (Bộ 2 Tập)

Từ thuở nhỏ hai tiếng Sài Gòn đã cuốn hút tôi lạ lùng. Thi thoảng tôi được nghe mẹ kể ông kia bà nọ đã từng đi Sài Gòn, vào tham quan dinh Thống Nhất ngồi ghế tổng thống, chơi ở công viên Tao Đàn, coi thú nhảy múa trong Thảo Cầm Viên, dạo chợ Bến Thành, ăn kem Bạch Đằng, uống cà phê hồ Con Rùa, xem cải lương rạp Trần Hưng Đạo, lên tận Chợ Lớn mua hàng,… Tôi tưởng tượng Sài Gòn như vùng đất chỉ có trong những câu chuyện cổ tích và luôn mơ ước sẽ vào đó coi cho biết. Chẳng những tôi mà dường như bất cứ đứa trẻ nào ở xứ sở nắng lửa mưa dầu gió cát miền Trung quê tôi cũng đều ước mơ được một lần vào tận Sài Gòn. Sau này lớn lên tôi còn được biết có những người nông dân suốt đời quanh quẩn ruộng đồng sau luỹ tre làng, ước mong một ngày thấy được thị xã hay thành phố, hai tiếng Sài Gòn đối với họ như thiên đường mà cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về đất mẹ vĩnh hằng thì Sài Gòn vẫn chỉ là niềm mơ ước. Và đâu chỉ người miền Trung mà tôi tin bất cứ người Việt Nam nào ở trong và ngoài nước, tất nhiên ngoại trừ những người sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, đều mong muốn một lần đến với thành phố từng được mệnh danh Hòn Ngọc Viễn Đông.

1. Sài Gòn Đất Lành Chim Đậu - Tập 1 (Tái Bản 2019)

2. Sài Gòn Đất Lành Chim Đậu 02 (Tái Bản 2019)

bộ combo sài gòn một thuở chưa xa: tập 1 + 2 + 3 (bộ 3 tập)

Combo Sài Gòn Một Thuở Chưa Xa: Tập 1 + 2 + 3 (Bộ 3 Tập)

Cùng bạn đọc quý mến!

Những gì tôi viết đều như là món nợ mà tôi thấy mình cần trả lại cho đời. Có thể, trong tập sách này, có những trang đọc được và cũng có những trang độc giả chưa thật sự hài lòng; nhưng với tôi, từng chữ tôi viết ra đều là thật, đều được viết ra từ những rung cảm nơi thẳm sâu của trái tim.

Sài Gòn, vùng đất tôi lớn lên từ tuổi lên mười, khi phải chia xa quê hương Quảng Nam thời đất nước còn chìm trong lửa đạn. Tôi tận mắt thấy, tai nghe mọi điều của một Sài Gòn từ ngày xa xưa đến tận bây giờ. Tôi nhớ từng góc phố, từng ngọn đèn đường ngày xưa vào những tối nhọc nhằn kiếm sống; để bây giờ mỗi lần ngang qua đều ngẩn ngơ, bồi hồi tiếc nuối khi hình ảnh cũ không còn. Sài Gòn thay da đổi thịt từng ngày, cố xứng tầm với tên gọi một thời “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Sài Gòn có những người “sang” và cũng không ít những người “hèn”. Tôi chỉ nhắc lại câu nói ấy và xin phép được để trong ngoặc kép hai chữ “sang, hèn”. Nghề báo tạo điều kiện để tôi hàng ngày nhiều lần đi qua những con đường Sài Gòn và bao giờ cũng vậy, tôi thấy trái tim mình rộn ràng, mỗi khi gặp những người “hèn” - những em bé đánh giày, những người già cầm tập vé số trên tay, những phụ nữ oằn mình dưới gánh hàng rong, những cô gái tự đánh mất mình trong chốn lầu xanh tội nghiệp… Cũng như bao nhiêu người khác, làm sao tôi có thể không quan tâm đến những thân phận ấy. Và tôi đã dừng lại bên họ.

Sài Gòn vẫn đang cùng đất nước, thế giới xoay trong vũ trụ bao la - “sang” và “hèn” vẫn còn đó…

Một số hiện tượng, sự việc mà quý vị đọc thấy trong tập sách này, rất có thể đã trở nên xa lạ với Sài Gòn hiện tại. Thật vui, nếu đó là những “điểm đen”, “mảng xám”… đã từng tồn tại một thời. Song, cũng là điều dễ hiểu và đáng trân quý biết bao khi mà từ xưa đến nay, hay mãi về sau “những điều tốt đẹp” vẫn hiện diện trên mảnh đất Sài Gòn đáng yêu này!

Hơn 50 bài phóng sự trong 3 tập sách này (chọn lọc từ hơn 300 bài báo cùng thể loại) được tôi thực hiện trong khoảng 10 năm cuối của thế kỷ XX (khoảng 1988 - 1999) và tất cả đã được đăng tải trên báo Phụ nữ Sài Gòn (sau đổi tên thành báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh).

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.

Sài Gòn, đầu mùa Hạ 2019

BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN

1. Sài Gòn Một Thuở Chưa Xa - Tập 1 - Những Đồng Tiền Nghiệt Ngã

2. Sài Gòn Một Thuở Chưa Xa - Tập 2 - Ai Đã Quên Lời Thề Hippocrate?

3. Sài Gòn Một Thuở Chưa Xa - Tập 3 - Thầy Ơi Thương Lấy Dân Nghèo

bộ combo sự phát triển của tư tưởng ở việt nam từ thế kỷ xix đến cách mạng tháng tám: tập 1 + 2 + 3 (bộ 3 tập)

Combo Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám: Tập 1 + 2 + 3 (Bộ 3 Tập)

1. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập I

Nho giáo chiếm hơn phần nửa tập Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử. Phần của các tư tưởng khác ít hơn nhiều. Sở dĩ như vậy, vì dưới thời Nguyễn, Nho giáo là quốc giáo độc tôn, Nho giáo hay nói cho đúng hơn, những người theo Nho giáo triều đình chịu trách nhiệm chính trong việc mất nước.

Sách này chủ yếu nhằm chứng minh sự thất bại của Nho giáo trước hết trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc. Tất nhiên là các tư tưởng Phật giáo, Đạo giáế kỷ XIX còn có thể và cần phải nghiên cứu sâu hơn, kỹ hơn trong dịp khác.

2. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập II

Một ý thức tư tưởng có thể và thường sống lâu dài hơn cơ sở xã hội và chính trị của nó, huống chi, dưới chế độ thực dân Pháp, triều đình Huế được duy trì, giai cấp địa chủ được củng cố làm chỗ dựa cho đế quốc thống trị.

Nhưng những tàn dư của hệ ý thức phong kiến trong mọi dạng biểu hiện của nó, dù là do bọn thực dân trực tiếp hay gián tiếp nhào nặn làm công cụ xâm lược, dù là do bản thân người Việt Nam đi tìm trong kho vũ khí tinh thần cũ của dân tộc xem có những món gì xưa mà có thể dùng được cho ngày nay, có thể dùi mài thêm, có thể chấn hưng lên để góp phần gây thành một sức mạnh chống thực dân, những tàn dư được nhào nặn, chấn hưng, dùi mài, sử dụng đó, xét cho cùng đều là những dạng thái khác nhau thuộc hệ ý thức tư sản.

3. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập III

Tập III được xây dựng dưới dạng lịch sử của phong trào cách mạng Việt Nam từ 1920 đến 1945. Ở đấy, các sự kiện, các giai đoạn lịch sử của phong trào cách mạng được nhìn ở góc độ tư tưởng là chính, lấy sự việc để trình bày và chứng minh tư tưởng, lấy tư tưởng làm đuốc rọi đường cho hành động cách mạng có ý thức càng ngày càng sâu và càng đúng

Đầu tiên thì sách được đặt tên là "Sự thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các nhiệm vụ lịch sử". Sau rồi trong lúc viết tôi thấy cần sửa tên lại là "Thành công của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ba khái niệm "thất bại", "bất lực", "thành công" nối tiếp nhau trên ba tập sách là tư tưởng chính của tác giả trong bộ lịch sử tư tưởng ba quyển này.

 

1. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập I

2. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập II

3. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập III

bên lề khoa học

Cuốn sách gồm hai phần chính: Phần 1: Khoa học và Giáo dục, và Phần 2: Du ký.

Phần I, “Khoa học và Giáo dục” có 14 tiểu đề, bàn về những vấn nạn trong nghiên cứu khoa học nói chung, những bất cập trong nghiên cứu và giáo dục tại Việt Nam nói riêng và vài bài tạp bút về khoa học, ngôn ngữ. Tác giả cũng dành 4 tiểu đề để tập trung luận bàn những cuốn sách của các học giả, chẳng hạn như cuốn “The quantum and the lotus” (Lượng tử và hoa sen) của hai nhà khoa học Matthieu Ricard & Trịnh Xuân Thuận.

Phần II, “Du ký”: có 12 tiểu đề. Tác giả Trương Văn Tân viết du ký không theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” mà tập trung khai thác và phân tích đặc trưng văn hóa, lịch sử “vùng miền” để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí của mình.

Nhờ tác giả Trương Văn Tân, ta sẽ được biết những tư liệu về sự phát triển của Singapore “từ thế giới thứ ba vươn lên thứ nhất”, sự thật “phong trần” của cư dân miền Viễn Tây Australia, lịch sử duy tân và văn hóa đầy tự hào của nước Nhật, bề dày của nền văn minh Trung Hoa, xứ Ý lãng mạn và nét đẹp hiền hòa của đất nước triệu

bộ combo sự phát triển của tư tưởng ở việt nam từ thế kỷ xix đến cách mạng tháng tám: tập 1 và 2 (bộ 2 tập)

Combo Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám: Tập 1 Và 2 (Bộ 2 Tập)

1. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập I

Nho giáo chiếm hơn phần nửa tập Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử. Phần của các tư tưởng khác ít hơn nhiều. Sở dĩ như vậy, vì dưới thời Nguyễn, Nho giáo là quốc giáo độc tôn, Nho giáo hay nói cho đúng hơn, những người theo Nho giáo triều đình chịu trách nhiệm chính trong việc mất nước.

Sách này chủ yếu nhằm chứng minh sự thất bại của Nho giáo trước hết trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc. Tất nhiên là các tư tưởng Phật giáo, Đạo giáế kỷ XIX còn có thể và cần phải nghiên cứu sâu hơn, kỹ hơn trong dịp khác.

2. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập II

Một ý thức tư tưởng có thể và thường sống lâu dài hơn cơ sở xã hội và chính trị của nó, huống chi, dưới chế độ thực dân Pháp, triều đình Huế được duy trì, giai cấp địa chủ được củng cố làm chỗ dựa cho đế quốc thống trị.

Nhưng những tàn dư của hệ ý thức phong kiến trong mọi dạng biểu hiện của nó, dù là do bọn thực dân trực tiếp hay gián tiếp nhào nặn làm công cụ xâm lược, dù là do bản thân người Việt Nam đi tìm trong kho vũ khí tinh thần cũ của dân tộc xem có những món gì xưa mà có thể dùng được cho ngày nay, có thể dùi mài thêm, có thể chấn hưng lên để góp phần gây thành một sức mạnh chống thực dân, những tàn dư được nhào nặn, chấn hưng, dùi mài, sử dụng đó, xét cho cùng đều là những dạng thái khác nhau thuộc hệ ý thức tư sản.

 

1. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập I

2. Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập II

bộ combo văn học dân gian tiền giang (tuyển chọn từ tài liệu sưu tầm điền dã): tập 1 và 2 (bộ 2 tập)

Combo Văn Học Dân Gian Tiền Giang (Tuyển Chọn Từ Tài Liệu Sưu Tầm Điền Dã): Tập 1 Và 2 (Bộ 2 Tập)

"Văn học dân gian Tiền Giang được Khoa văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM triển khai sưu tầm trong 2 đợt với tổng số cộng tác viên mà nhóm sưu tầm điền dã tiếp xúc là 1851 người, làm việc tại các địa bàn xã trong thành phố Mỹ Tho, các huyện Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, huyện Châu Thành, Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước.

Kết quả sưu tầm văn học dân gian Tiền Giang cả hai đợt, bao gồm 26371 đơn vị tác phẩm ở nhiều thể loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyền cười, đồng dao, hò, lý,hát ru, đờn ca tài tử,  truyện đố...và nhiều thể loại khác.

Sau khi lọc bỏ, tinh chọn, phân loại và chỉnh lý toàn bộ văn bản tác phẩm thô được sưu tầm trong 2 đợt, nhóm sưu tầm điền dã giữ lại được 1.021 câu đố, 903 câu tục ngữ, 108 truyện kể, 1.251 câu ca dao, 49 bài vè.

Cuối phần tác phẩm sưu tầm của mỗi thể loại, nhóm sưu tầm điền dã đều ghi rõ thông tin của những cộng tác viên đã cung cấp cho nhóm những tác phẩm trên"

Có thể nói, đây là một công trình điền dã đồ sộ, chi tiết, tỉ mỉ, nghiêm túc và trung thực...Một tài liệu rất hữu ích cho các bạn sinh viên đặc biệt là sinh viên ngành văn học

1. Văn Học Dân Gian Tiền Giang (Tuyển Chọn Từ Tài Liệu Sưu Tầm Điền Dã) - Tập 1

2. Văn Học Dân Gian Tiền Giang (Tuyển Chọn Từ Tài Liệu Sưu Tầm Điền Dã) - Tập 2

sức mạnh gia đình

Trích đoạn Tôi là ai?

“Để có thể rút ruột viết ra những dòng trong cuốn sách này Lê Đình Hùng hay Mr Aodai Hung Cuu Long cũng chứa trong bụng, trong đầu, trong tâm hồn, trong tư duy, trong nhân cách của mình, sự ngu muội, vô tâm, nguy hiểm, lừa dối, tham lam, thù hận, ham hố, cùng toàn bộ cái xấu xí của người. Nhưng vì nhờ vào việc đọc sách, nhờ vào sự giáo dục, nhờvào tư duy, nhờvào gia đình, xã hội, cộng đồng mà tôi giác ngộ tự tìm được con đường hoàn thiện làm người. Ít ra là người lựa chọn lối sống tự hạnh phúc, tự bằng lòng, tựcông khai, tự chia sẻ, tự chịu trách nhiệm, tự hy sinh, tự lắng nghe, tự học tập, tự thay đổi bản thân mình.

Để đi trên con đường mà người đời thường quan niệm là sống trong sạch, còn nhiều quan niệm khác có thể mâu thuẫn, có thể xung đột, có thể không đúng theo tiêu chuẩn hay hình mẫu một ai đó. Tôi chắc rằng mình còn nhiều sai sót, khuyết điểm, hư hỏng mà tự mình chưa nhìn ra, không thấy được, cũng có thể là hết thuốc chữa. Nhưng với cam kết: Chúng ta có thể yêu thương nhau, tôi hy vọng nhận được sự phản biện, đối thoại, chia sẻ… cùng mọi cảm xúc các độc giả dành cho tôi.

Với tất cả sự chân thành từ tôi!”

Trích đoạn Lời xin lỗi

“Không kẻ thù nào mạnh bằng chính mình. Những kẻ vĩ đại không chết vì kẻ khác tiêu diệt hay hãm hại mà tất cả họ đều tự sụp đổ vì quá già cỗi. Mọi giá trị quá lâu sẽ lỗi thời và lạc hậu. Mọi con người đều phải đi đến cái chết. Đó là quy luật xưa nay chưa có kẻ nào mà không chết. Vì vậy cũng chưa có kẻ nào không phạm phải sai lầm. Mọi sai lầm xảy ra mới bảo đảm đó là sự tiếp diễn của cuộc sống. Mọi cái chết là báo hiệu sự đúng đắn. Từ chân lý đó tôi nghĩ rằng trong hành trình sống của mình sẽ có nhiều cái sai, cái xấu, cái ác, cái ngu, cái dở, cái yếu, cái tệ, cái kém, cái hư...

Đối với mọi người, trong nhiều hoàn cảnh, ở nhiều thời điểm, công việc, bởi nhiều lý do mà tôi có những lúc nào đó không kiểm soát nổi mình đã làm ảnh hưởng, gây phiền toái, mang tai họa, tạo khó khăn cho bạn bè, cộng đồng, xã hội. Có lẽ nhiều người ghét tôi vì lời nói, hành động, thái độ, ảnh hưởng cùng mọi thứ liên quan, kể cả là cuốn sách này xuất bản cũng là từng chữ, từng câu, từng đoạn… có điều gì gây bức xúc… Thì cho phép tôi xin lỗi. Tôi viết cuốn sách này không phải là nghiên cứu, là khoa học, là văn minh hay giáo dục. Tất cả chỉ là cảm xúc, góc nhìn, quan điểm, tư duy, thực tếmà tôi đã trải qua trong hành trình sống của mình và gia đình. Tất cả là một hành trình tự thẩm thấu, tự chuyển biến, tự chuyển hóa giống loài rắn phải lột xác để trưởng thành. Và đó là cách tôi sống!”

Trích đoạn Thư gửi các con

“Vì vậy Bố không dạy con thành doanh nhân huyền thoại như Bill Gate hay lớn cỡ Phạm Nhật Vượng. Bố sẽ không hy vọng các con trở thành siêu sao hay các thần tượng như Messi lẫn Ronaldo. Bố cũng không ép các con phải hot như chú Trấn Thành hoặc cỡ Sơn Tùng MTP. Bố càng không bắt các con giống với bất kỳ ai, bằng ai,hơn ai theo các giá trị, địa vị, sắc đẹp, tiền bạc, quyền lực hoặc mọi giá trị vật chất làm thước đo phân cao thấp. Vì Bốbiết như thế sẽ làm các con mệt mỏi, căng thẳng và mất đi niềm vui sống mỗi ngày.

Các tình yêu của Bố, dù có nói gì thì khi nghe các con cũng sẽ có tư duy riêng, khi đọc xong con sẽ có cảm xúc riêng, khi học xong con sẽ có tư tưởng riêng, khi làm xong con biết rút kinh nghiệm riêng... Đừng đi theo lối mòn của người trước, đừng bị kinh nghiệm của người trước làm con lo sợ và đóng băng bản thân. Hãy sử dụng mọi giác quan mà con được sinh ra và tin tưởng vào các rung động của riêng mình. Chỉ khi các con tập luyện, khai thác, trả giá, bồi dưỡng… thì các con mới có cơ hội để trở thành một phiên bản tốt nhất.”

LỜI NÓI ĐẦU

Tôi Lê Đình Hùng (Mr Aodai Hung Cuu Long) sinh ngày 2-9-1973. Tôi viết cuốn sách này vào lúc 16h27’ ngày 2-9-2018 trong lúc vợ và các con đang chuẩn bị thắp nến kỷ niệm người chồng người cha tròn 45 tuổi. Gia đình tôi cùng gần 100 triệu người Việt Nam thiện lành cả nước đang vui vẻ, sum họp bên gia đình hưởng thái bình nhân dịp 2-9, ngày Quốc khánh Việt Nam.

Trong thời khắc này, Mr Aodai thấy mình may mắn được cuộc đời ban tặng cho mọi phước lành để có thể tự tin chia sẻ cùng các tình yêu những cảm xúc tuyệt vời trong mình.

Tôi có một gia đình như ý gồm vợ:

- Cao Thị Mỹ Vàng sinh ngày 16-2-1984

và ba con:

- Lê Hoàn Hảo sinh ngày 18-9-2009

- Lê Thánh Thiện sinh ngày 19-8-2012

- Lê Hạnh Phúc sinh ngày 18-8-2016

Trong những ngày này, cả nhà cùng nhau chuẩn bị cho các con vào năm học mới, nên phải đi nhà sách mua đồ  dung học tập và 1.001 thứ liên quan tới sứ mệnh học tập,làm người của các tình yêu trong gia đình. Nhưng tôi cũng cảm thấy hoang mang khi trong ngành giáo dục lại rộ lên việc cải cách tiếng Việt với nhiều ý kiến trái chiều, người ủng hộ, kẻ phản đối. Là bậc làm cha mẹ, chúng tôi không mong muốn đưa ba đứa con mình ra làm “vật thí nghiệm” cho cải cách.

Lúc này, tôi đã không còn phải toan tính, lo lắng, hơn thua, tranh giành mọi thứ trong đời. Vì đã cảm thấy đủ, nghĩ là vừa, chuẩn bị xong, bàn giao hết, trao việc nhường ghế, sang tên chuyển con dấu, tự nguyện tránh sang một bên để vợ và nhân viên tự lực tự cường. Còn tôi tự do tập trung yêu cuộc sống gia đình bằng tình yêu trong sáng, thánh thiện nhất . Tôi tự hào vì mình toàn tâm chăm sóc gia đình một cách hoàn hảo theo khả năng của mình. Tôi tin rằng các thành viên trong nhà cùng chung một cảm nhận của nhau, có nhau, thuộc về nhau, dù là con hay vợ thì mỗi thành viên là một gam màu để kết hợp lại thành bức tranh Gia đình Việt Nam Hạnh phúc.

Tôi sinh ra không phải là một thiên tài bẩm sinh, cũng chẳng là thần đồng, lại càng không phải là doanh nhân, nghệ sĩ hay người nổi tiếng. Nhưng tới giờtôi có mọi thứ mà không phải ai cũng có được. Xin cám ơn đất mẹ thiêng liêng đã cho tôi một giấc mơ Việt. Để tôi may mắn viết lên câu chuyện của chính mình và gia đình. Hỡi các tình yêu thiện lành, nếu các bạn tin vào chính mình -ai cũng sẽ có một câu chuyện kỳ diệu. Vậy hãy rèn luyện và lao động bằng đam mê, rồi cộng thêm chút sáng tạo để kể cho tôi nghe, để truyền cảm hứng lan tỏa tới xã hội, cùng nhau viết nên cuốn sách cho bạn cho tôi.

Tôi viết cuốn sách này không muốn khoe mẽ hay tranh cãi cùng ai cả. Tôi chỉ cần chia sẻ cùng những ai đang chuẩn bị cho vai trò làm cha, làm chồng, làm chủ gia đình. Tôi mong sao có thể đồng cảm, thấu hiểu, lắng nghe, ủng hộ cho bất cứ ai muốn xây dựng, cần bảo vệ ước mơ có một gia đình một vợ một chồng cùng các con sống như ý mình:

- Là công dân tốt

- Chọn và lấy được người phù hợp

- Là một người cha, người chồng trong sạch

- Kế hoạch sinh con

- Mua nhà theo khả năng

- Dạy con bằng kỷ luật

- Biết nghỉ việc đúng lúc

- Sống cuộc sống của mình

- Cho đi là phụng sự

- Thương lượng, giải quyết, xử lý công việc hiệu quả

- Tự học, đánh giá, phân tích, dựbáo, tổng hợp

- Quản lý thời gian, khai thác, sử dụng hiệu quả

- Giao tiếp tốt, kết nối, nói trước đám đông

- Truyền cảm hứng, sáng tạo, lãnh đạo, làm việc nhóm

Năng lượng từ trong cơ thể, tâm hồn do ta nuôi dưỡng mà có - mà thành. Phẩm giá, nhân cách tự ta phải gìn giữ, bảo vệ. Yêu thương, chia sẻ là do ta hy sinh bản thân mà cho đi mới thấu hiểu. Uy tín là do tự ta vất vả tích góp bằng trách nhiệm, lời nói việc làm. Sức khỏe, sắc đẹp là do tự thân kiên trì tập luyện, ăn uống điều độ, sống khoa học, vệ sinh sạch sẽ mang lại. Kiến thức, hiểu biết phải tự học thầy, học bạn, học sách, học từ thực tếmà nên.

Hãy tự nghiên cứu, lên kế hoạch, phát triển, sống trong một gia đình của chính mình bạn nhé!

soạn giả viễn châu - 120 bài vọng cổ đặc sắc

Kính thưa quý độc giả, tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 100 bài vọng cổ đặc sắc (Tuyển chọn và chú giải) được Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Sự thật, Hà Nội phát hành lần đầu vào năm 2015. Lần ấy, quyển sách kịp đến tay soạn giả Viễn Châu, khi ông còn tại thế.

Năm 2020, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 120 bài vọng cổ đặc sắc trên cơ sở chỉnh sửa một số thiếu sót trong lần in đầu và chúng tôi có chọn bổ sung thêm 20 bài mới, 05 bài cho mỗi nhóm. Lần phát hành này, danh cầm Bảy Bá đã đi xa. Ông về thế giới bên kia đúng ngày đưa Ông Táo về trời 23 tháng Chạp năm Ất Mùi, nhằm ngày 1 tháng 2 năm 2016. Sinh thời ông có viết bài “Táo quân Cải lương chầu Thượng đế”, phải chăng ngày ra đi của vua viết vọng cổ - cải lương cũng là duyên nghiệp. Người trần gian chỉ còn biết cầu mong cho ông về với Ngọc Hoàng bằng an, vui vẻ.

Quyển sách “Soạn giả Viễn Châu, 120 bài Vọng cổ đặc sắc” với hình thức trình bày mới hiện đại, trang nhã; phù hợp với yêu cầu của tác phẩm bài ca vọng cổ. Các bài ca được sắp xếp hệ thống theo bốn thể loại gồm: Vọng cổ lịch sử - Vọng cổ tâm lý xã hội - Tân cổ giao duyên - Vọng cổ hài. Bạn đọc sẽ có dịp ôn lại những tác phẩm quen thuộc như: Ánh lửa Mê Linh; Võ Đông Sơ  ; Bạch Thu Hà; Chút tình Dạ cổ hoài Lang; Lưu Bình, Dương Lễ; Tình Lan và Điệp; Tình anh bán chiếu; Bông Ô Môi; Xuân đất khách; Ai cho tôi tình yêu; Ai xuôi vạn lý; Em không buồn nữa chị ơi; Tình đẹp mùa chôm chôm; Trên đường lưu diễn; Tư Ếch đại chiến Văn Hường…

Nhân lần tái bản này, chúng tôi cảm ơn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật đã tạo điều kiện giúp chúng tôi hoàn thành quyển sách lần in đầu và gia đình bác Bảy Bá đã hỗ trợ, tạo điều kiện trong cả hai lần xuất bản, để dịp này quyển sách đến tay bạn đọc được như ý nguyện hơn; đồng thời, cũng là dịp kính nhớ và biết ơn Nghệ sĩ Nhân dân Viễn Châu, người đã để lại cho đời nhiều bài vọng cổ trác tuyệt!

Cũng nhân lần tái bản này, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và tác giả cũng xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả tập chuyên khảo “Soạn giả Viễn Châu - tác giả và tác phẩm vọng cổ” để tạo điều kiện cho công chúng yêu mến những sáng tác vọng cổ của soạn giả Viễn Châu có thể tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm của ông.

Trân trọng.

HUỲNH CÔNG TÍN

------------------

Soạn giả Viễn Châu: “Điểm tựa của tôi trong sáng tác chính là đọc và chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn học. Tôi là “con mọt sách” từ năm 14 tuổi. Tôi thích cách viết của nhiều nhà văn: Hoàng Ngọc Phách (tác phẩm Tố Tâm) lãng mạn, ướt át; Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình) trau chuốt, nên thơ; Phú Đức (Châu về hợp phố) xốc nổi, xôm trò; Hồ Biểu Chánh (Con nhà nghèo, Nợ đời) giọng văn rặt chất Nam bộ; Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm) phiêu lưu, mạo hiểm; nhất là các tác phẩm dạt dào tình cảm của Khái Hưng, Nhất Linh. Điều thú vị nhất là các “sư phụ” tả về vẻ đẹp người phụ nữ thì hết ý, đọc đã thấy khoái nên tôi khi sáng tác bài ca cổ hoặc xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm của mình, tôi thường dùng chất liệu văn học đã thẩm thấu từ những tác phẩm văn chương mình yêu thích”.

Lời của nghệ sĩ nhân dân Viễn Châu

Kính thưa bạn đọc gần xa và đồng nghiệp quý mến!

Là một nghệ sĩ trong lĩnh vực sáng tác, không có gì vui bằng khi tác phẩm của mình được phổ biến đến đông đảo công chúng và nhất là được phổ biến một cách chính thức, hợp pháp, chính xác và trân trọng.

Thời gian qua, tôi đã nhận được thư của TS. Huỳnh Công Tín, Nhà nghiên cứu văn hóa Nam bộ; Công văn của Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Công văn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), xin ý kiến tôi, với tư cách là tác giả, về việc xuất bản cuốn sách “Soạn giả Viễn Châu -100 bài vọng cổ đặc sắc”. Sau một thời gian suy nghĩ và trao đổi với những người thân trong gia đình, nay tôi xin có ý kiến như sau:

Trước hết tôi rất hoan nghênh nhã ý của TS. Huỳnh Công Tín, Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) về việc thực hiện cuốn sách phổ biến 100 bài vọng cổ của tôi; với tư cách là tác giả, tôi đồng ý để Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách này.

Thứ hai, tôi rất vui mừng vì Ban biên tập đã chuẩn bị bản thảo hết sức công phu và chính xác, đúng với nội dung gốc của người sáng tác.

Nhân đây, tôi cũng xin cám ơn TS. Huỳnh Công Tín, Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã thực hiện tuyển tập bài ca của tôi và phổ biến đến đông đảo công chúng.

Tôi xin hứa tạo mọi điều kiện thuận lợi để công việc được tiến hành nhanh nhất và không ai tranh chấp về bản quyền của các tác phẩm trong tuyển tập 100 bài vọng cổ của tôi.

Xin trân trọng cảm ơn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 3 năm 2015

Soạn giả VIỄN CHÂU

mùa nước nổi trong đời sống văn hoá đồng bằng sông cửu long

Mùa nước nổi trong đời sống văn hóa đồng bằng sông Cửu Long

Mùa nước nổi đồng bằng sông Cửu Long, chỉ kéo dài tối đa là bốn tháng trong năm, là thời điểm mà cư dân địa phương tập trung cao độ tri thức, phương tiện ứng phó với thiên nhiên.

Những hoạt động sản xuất và sinh hoạt đời thường khác của cư dân địa phương trong mùa nước nổi góp phần tăng thêm sự phong phú đa dạng, nhiều màu sắc cho văn hóa miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long.

Có một số sinh hoạt chỉ diễn ra trong mùa nước, tuy nhiên cũng không ít hoạt động diễn ra xuyên  suốt cả năm gắn liền với sông nước, nên trình bày tách bạch mùa nước nổi trong đời sống văn hóa đồng bằng sông Cửu Long là một việc không đơn giản.

Để tiếp cận vấn đề một cách tương đối, trong tập sách này, chúng tôi xin trình bày theo các  chương:

- Chương một: Mấy nét về mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long.

- Chương hai: Nơi ăn chốn ở trong mùa nước nổi.

- Chương ba: Hoạt động kinh tế, đi lại vận chuyển và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mùa nước nổi.

-  Chương bốn: Mùa nước nổi trong đời sống văn hóa tinh thần.

Với nội dung trên, bằng một số hình ảnh tiêu biểu, chúng tôi cố gắng khắc họa phần nào vai trò, tác động, ảnh hưởng của mùa nước nổi trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Qua thời  gian, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội phát triển, một số hoạt động từng bước lui dần vào quá khứ. Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, bàng bạc, ẩn hiện dưới nhiều dạng thức khác trong tri thức dân gian, trong phương ngữ, trong lời ăn tiếng nói của từng địa phương, trong tên đất tên làng xóm, trong ký ức tập thể của nhân dân, trong phong tục, trong tín ngưỡng, trong văn hóa vật chất...

Nguyễn Hữu Hiếu

 

Khái niệm “mùa nước nổi”:

Mấy trăm năm qua, từ khi đặt chân lên đồng bằng sông Cửu Long, qua nhiều thế hệ, người Việt ở Nam bộ đã nắm bắt và vận dụng quy luật tự nhiên vào cuộc sống.

Đồng thời căn cứ vào đặc điểm các hiện tượng tự nhiên mà ở quê cũ không có, người ta khoác cho nó một cái tên, một khái niệm mới cho phù hợp. Từ nước nổi hay nước lên ra đời và tồn tại suốt từ đó đến nay.

Thế nhưng, hơn mấy chục năm qua, bỗng dưng xuất hiện một số khái niệm xa lạ với phương ngữ và văn hóa Nam bộ, được đưa vào: nước lũ thay cho nước nổi (nước lụt, nước ngập, nước lên, mùa nước) và kèm theo hàng loạt các mô hình của “tư duy đắp đê, be bờ” được đề xuất thực hiện, như: “sống chung với lũ”, “làm nhà trên cọc”, “đê bao chống lũ”, “cụm tuyến dân cư chống lũ”, “nhà vượt lũ”,... làm như thể mấy trăm năm qua, mỗi khi đến mùa nước nổi là cư dân đồng  bằng sông Cửu Long bỏ chạy, và không biết dựng nhà sàn để trụ lại mỗi khi đến mùa nước  lên.

“Các thuật ngữ: nước ngập, nước lụt, nước lên, mùa nước là phương ngữ Nam bộ, phản ánh cụ thể một hiện tượng tự nhiên tại địa phương, không có ở nơi khác; thể hiện quá trình nhận thức, đúc kết kinh nghiệm, trí tuệ dân gian trong mấy trăm năm mở cõi. Nó là một sản phẩm văn hóa trong lĩnh vực ngôn ngữ, thể hiện bản sắc địa phương, góp phần làm giàu, làm phong phú, đa dạng hơn cho ngôn ngữ dân tộc, được hình thành và tồn tại mấy trăm năm qua. Nó gắn liền với đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Việt ở Nam bộ, thể hiện qua lời ăn tiếng nói đã đi vào văn học dân gian lẫn văn học tác gia…”

Nay bỗng nhiên biến mất dần và thấy vào đó là từ “lũ”, một từ xa lạ không phản ánh đúng với bản chất vốn có của hiện tượng tự nhiên.

 

Trích “Ăn uống mùa nước nổi - Mắm”:

Chỉ riêng mắm đã có một danh sách thực đơn dài đáng nể: mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá  linh, mắm cá rèn, mắm rươi, mắm còng, mắm ba khía, mắm ruốc...  và chỉ một món mắm đã có những cách ăn khác nhau: mắm sống, mắm kho, kho mắm, mắm chưng, lẩu mắm...

Ai thèm bông súng mắm kho

Về trong Đồng Tháp ăn cho đã thèm.

Một nồi mắm kho “đạt chất  lượng”, phải hội đủ hai yếu tố: thời gian và không gian. Thời gian  có nghĩa là phải được nấu ngay trong mùa nước nổi, mới có đầy đủ vật liệu. Nồi nước mắm phải  được nấu bằng mắm cá sặc hoặc mắm cá  linh; mắm được nấu rệu, lược bỏ xác mắm. Xong cho vào nồi, nêm nếm vừa ăn, cho lên bếp nấu với lửa vừa phải, khi mắm sôi, vớt bỏ bọt, rồi cho vào các thứ đã chuấn bị  sẵn: cá linh non (cỡ ngón  tay út  hoặc nhỏ hơn, xương mềm), thịt ba rọi thái mỏng, một ít khổ qua, cà tím, dưa leo... thái cỡ ngón tay cái, lươn và rắn bông súng được thui sơ  qua (để loại bỏ mùi tanh), bẻ khúc... Khi mắm sôi lên lần nữa, lại phải vớt bỏ bọt, xong nêm lại lần nữa. Nhấc nồi ra khỏi bếp đưa vào mâm;  lưu ý nồi này phải là nồi đất, để suốt bữa ăn mắm vẫn nóng (không phải sôi sung sục như lẩu mắm hiện nay). Trên mâm có để sẵn: rau (gồm bông súng đã tước vỏ, xắt khúc trộn với bông điên điển, giá và rau đắng), chanh ớt... được bày trên xuồng trên ghe hay trong một căn chòi... trong không gian bốn bề toàn là nước. Mọi người có chén riêng, lần lượt để vào một ít  rau, dung muỗng múc mắm cho vào chén, sao cho có đủ cá linh, khổ qua, thịt, rắn, lươn, ít nước; xong vắt  một tí chanh.

Đưa cay nửa chung mắt trâu rượu miệt Tân An (Long An, nơi chuyên nấu rượu bằng nếp), rồi đưa chén lên miệng và vào, cắn một miếng ớt hiểm, rồi từ từ nhai. Cái béo của thịt ba rọi, cái ngọt của cá, lươn, rắn..., cái nhân nhẩn đắng của rau đắng, khổ qua, cái cay của ớt hòa với cái nồng nàn của rượu... trong cái mùi mắm thoang thoảng, đang thấm đậm dần vào từng giác quan  của người dùng. Không biết trên thế giới này có món sơn hào hải vị nào khác, chứ với cư dân đồng bằng sông Cửu Long, như thế là đã đạt đỉnh cao của nghệ thuật ẩm thực dân dã của miệt sông nước trong mùa nước nổi.

soạn giả viễn châu - tác giả và tác phẩm vọng cổ

Soạn giả Viễn Châu – Tác giả và tác phẩm vọng cổ

Soạn giả Viễn Châu: “Điểm tựa của tôi trong sáng tác chính là đọc và chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn học. Tôi là “con mọt sách” từ năm 14 tuổi. Tôi thích cách viết của nhiều nhà văn: Hoàng Ngọc Phách (tác phẩm Tố Tâm) lãng mạn, ướt át; Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình) trau chuốt, nên thơ; Phú Đức (Châu về hợp phố) xốc nổi, xôm trò; Hồ Biểu Chánh (Con nhà nghèo, Nợ đời) giọng văn rặt chất Nam bộ; Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm) phiêu lưu, mạo hiểm; nhất là các tác phẩm dạt dào tình cảm của Khái Hưng, Nhất Linh. Điều thú vị nhất là các “sư phụ” tả về vẻ đẹp người phụ nữ thì hết ý, đọc đã thấy khoái nên tôi khi sáng tác bài ca cổ hoặc xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm của mình, tôi thường dùng chất liệu văn học đã thẩm thấu từ những tác phẩm văn chương mình yêu thích”.

Lời bạt:

Thực hiện đề tài Văn hóa Cải lương Nam Bộ, năm 2014 - 2015, do Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-HCM) tài trợ, chúng tôi đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 100 bài Vọng cổ đặc sắc(Tuyển chọn và chú giải), do NXB Chính trị Quốc Gia - Sự thật, Hà Nội phát hành năm 2015.

Năm nay, trong chương trình bảo tồn vốn di sản văn hóa nghệ thuật quý báu Cải lương Việt Nam; kỷ niệm 100 năm tiến trình bản vọng cổ, khởi đi từ bản “Dạ cổ hoài lang” nhịp 2 năm 1919 do nghệ sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) (1892 - 1976) sáng tác, sang nhịp 4 do danh cầm, soạn giả Trịnh Thiên Tư (Giáo Chín, Thoại Phát) (1906 - 1982) thực hiện, nhịp 8 do nghệ sĩ, bầu gánh Thanh Minh Lư Hòa Nghĩa (Năm Nghĩa) (1917 - 1959) hoàn thành, rồi nhịp 16 do nhạc sĩ, soạn giả Trần Tấn Trung (Mộng Vân) (1910 - 1948) soạn nhạc, viết lời, đến nhịp 32 do nhạc sĩ Trần Tấn Hưng (Năm Nhỏ) (1921 - 1982) biên soạn và hiện nay, năm 2019 vẫn đang thịnh hành.

100 năm Vọng cổ, có sự đóng góp của nhiều danh cầm, nghệ sĩ tên tuổi cho sự hoàn thiện tiến trình này. Nhưng người đạt vị trí đỉnh cao cho việc viết lời bản Vọng cổ nhịp 32 về số lượng, cả chất lượng lời từ bài ca lại chính là nghệ sĩ danh cầm Huỳnh Trí Bá (Bảy Bá) (1924 - 2016), tức soạn giả Viễn Châu. Trong lĩnh vực vọng cổ, soạn giả Viễn Châu là một trong những người có công khởi đầu mở ra thể loại Tân cổ giao duyên; đồng thời, lại là người có công lớn biến đổi bài bản Vọng cổ truyền thống mang âm hưởng buồn của điệu Oán, thành bài bản Vọng cổ vui, hài hước, với hai giọng ca đặc trưng: nghệ sĩ Nguyễn Văn Minh (Hề Minh) (1929 - 1985) và đặc biệt là nghệ sĩ Nguyễn Văn Hường (Văn Hường) vua ca vọng cổ hài sinh năm 1932.

Nhằm tạo điều kiện để công chúng yêu mến những sáng tác Vọng cổ của soạn giả Viễn Châu có thể tìm hiểu sâu hơn tác phẩm của ông, lần này NXB. Văn hóa - Văn nghệ, TP.HCM phát hành quyển chuyên khảo Soạn giả Viễn Châu - Tác giả và tác phẩm Vọng cổ.

NSND Viễn Châu là tác giả, soạn giả lớn trong lĩnh vực sân khấu Cải lương. Do vậy, quyển sách chuyên khảo của tôi về tác giả và tác phẩm NSND Viễn Châu có thể còn những hạn chế do khả năng tiếp cận của người viết có hạn. Mong bạn đọc lượng thứ và giúp ý kiến đóng góp cho những sai sót.

Chúng tôi cảm ơn NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP.HCM đã hỗ trợ in ấn và phát hành quyển sách này.

Chúng tôi cảm ơn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội và gia đình bác Bảy Bá đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp chúng tôi hoàn thành cả hai quyển sách trước và sau của hai đợt phát hành.

HUỲNH CÔNG TÍN

Trích “Đặc thù văn hóa Nam bộ”:

Hai trăm năm đờn ca tài tử, một trăm năm sân khấu cải lương cùng tiến trình ba trăm năm mở đất Nam bộ, nhiều thế hệ người Việt phương Nam không chỉ đóng góp cho quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, họ còn đóng góp bản sắc văn hóa Nam bộ cho sự phát triển văn hóa người Việt, tiêu biểu ở lĩnh vực nghệ thuật văn chương, báo chí và âm nhạc. Văn chương, báo chí thuộc lĩnh vực ngôn ngữ với hai phong cách riêng biệt. Âm nhạc vừa thuộc lĩnh vực thanh âm, vừa thuộc lĩnh vực ngôn từ. Cả ba bình diện, đóng góp của người Nam bộ đều mang lại giá trị văn hóa đặc thù, góp phần khẳng định bản sắc, tính đặc thù trong văn hóa dân tộc.

Lĩnh vực ngôn ngữ, ngoài dòng văn học dân gian còn có dòng văn chương bác học, nghệ thuật báo chí với các tổ chức, như: Tao đàn Chiêu Anh Các, Bạch Mai thi xã, Bình Dương thi xã...; Gia Định báo, Nông cổ mín đàm, Nam Kỳ địa phận...; và các tên tuổi lớn: Mạc Thiên Tích, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam...

Lĩnh vực âm nhạc, cả tân nhạc và cổ nhạc đều có những thành tựu lớn với lượng tác phẩm lưu lại và những tên tuổi được ghi nhận theo dòng thời gian: dòng tân nhạc (nhạc vàng) có các tác giả Nguyễn Văn Đông, Trúc Phương, Lam Phương, Thanh Sơn, Trần Thiện Thanh, Anh Việt Thu..., dòng cổ nhạc có các nghệ sĩ đờn và soạn giả: Nguyễn Quang Đại, Trần Quang Quờn, Lê Tài Khí, Cao Văn Lầu, Tư Trang, Năm Châu, Duy Lân, Hà Triều - Hoa Phượng, Kiên Giang, Viễn Châu... và các nghệ sĩ ca diễn: Năm Phỉ, Thanh Nga, Út Bạch Lan, Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Văn Hường, Hùng Cường, Bạch Tuyết, Duy Khánh, Phương Dung, Giao Linh...

Đóng góp lớn của đội ngũ soạn giả cải lương là đã viết nên hàng trăm tuồng cải lương và hàng ngàn bài vọng cổ. Di sản này cần được ghi nhận nghiên cứu, không chỉ ở soạn giả Viễn Châu mà còn nhiều soạn giả khác. Trong khuôn khổ của chuyên khảo, chúng tôi đề cập riêng sự nghiệp sáng tác vọng cổ của danh cầm Bảy Bá, soạn giả Viễn Châu. Bởi ông là người có đóng góp lớn cho sự định hình bản vọng cổ nhịp 32, lại là người góp phần khai phá tạo nên bản tân cổ giao duyên và là người duy nhất thành công ở lĩnh vực viết vọng cổ hài từ khởi sự bản vọng cổ đến nay.

Trích “Soạn giả Viễn Châu, tiểu sử và sự nghiệp”:

Có một người Trà Vinh đóng góp lớn cho sự nghiệp vọng cổ - cải lương Nam bộ là soạn giả Huỳnh Trí Bá. Gọi theo cách gọi thân thương của người miền Nam là “Bảy Bá”. Bác Bảy Bá xuất thân từ gia đình hương chức của làng, sinh ngày 21/10/1924 tại Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Như tự nhận khi trả lời phỏng vấn báo chí, ông nói: “Từ nhỏ tôi đã mê đờn tranh, tự mày mò học và tìm hiểu thêm những ngón đờn qua dĩa hát nhựa, những đám hát tài tử ở làng quê. Năm 19 tuổi với máu phiêu bạt giang hồ, tôi xách cây đờn lên Sài Gòn” theo nghiệp đờn ca.

Năm 1942, ông tham gia Ban cổ nhạc Ðài phát thanh Pháp Á, Sài Gòn. Năm 1943, ông theo đoàn Tố Như, rồi tham gia gánh hát Năm Châu lưu diễn cả nước. Trên con đường âm nhạc, ông có điều kiện tiếp xúc với các nghệ sĩ, soạn giả tài danh: Nguyễn Thành Châu (Năm Châu), Trần Văn Lân (Duy Lân), Lê Hoài Nở (Năm Nở), Trần Hữu Trang (Tư Trang), Lê Long Vân (Ba Vân)..., học hỏi được nhiều từ các bậc đàn anh.

Năm 1950, với bút danh Viễn Châu ông viết vở cải lương “Nát cánh hoa rừng”, phỏng theo tác phẩm “Đường rừng” của Khái Hưng. Tác phẩm được công chúng hoan nghênh và bút danh Viễn Châu được biết đến rộng rãi từ đấy. Sở dĩ, có bút danh, nghệ danh này, có lần ông tâm sự: “Viễn Châu” với chữ đầu “Viễn” hàm ý “xa” - “viễn xứ” (xa xứ), còn “Châu” là tên xã “Đôn Châu”, quê ông. Một bút danh nhắc chuyện “xa Đôn Châu” nên dặn lòng phải yêu quê hương, nguồn cội. Một cái tên nói lên được tình cảm, lòng biết ơn và sự nhắc nhớ về quê hương, xứ sở; dòng họ, gia đình.

Sau thành công, ông được rất nhiều đoàn mời hợp tác: Kim Thanh (1955), Thanh Tao (1958), Thanh Nga (1962), Dạ Lý Hương, Tân Hoa Lan (1969)... và các hãng dĩa: Việt Nam (1950), Kim Long (1951), Việt Hải (1953), Thăng Long (1954), Sống Mới (1968), Nhạc ngày xanh (1969), Hồn nước (1973)...

Sau năm 1975, ông cộng tác với đoàn Văn công (1975), hãng băng Sài Gòn Audio (1978) và nhiều đoàn hát tỉnh. Năm 1984, ông có chuyến lưu diễn qua các nước Tây Âu: Bỉ, Đức, Pháp, Ý...

Về sáng tác, theo giới chuyên môn, đến nay Viễn Châu viết trên 50 vở cải lương, hơn 2.000 bài vọng cổ, gồm cổ nhạc và tân cổ. Đây là con số đáng nể, có lẽ khó có nghệ sĩ trước và sau ông vươn tới số lượng này. Còn “tuyệt phẩm” vọng cổ Viễn Châuđược công chúng yêu chuộng không ít, có đến trên trăm bài, như các bài: “Tình anh bán chiếu, Tu là cội phúc, Mẹ dạy con, Trái khổ qua, Ông lão chèo đò, Sầu vương ý nhạc, Anh đi xa cách quê nghèo...; Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Tần Quỳnh khóc bạn, Lòng dạ đàn bà, Phàn Lê Huê, Trụ Vương thiêu mình, Hán Đế biệt Chiêu Quân, Hạng Võ biệt Ngu Cơ...; Tứ đổ tường, Tai nạn Hon đa, Năm con vợ, Tư Ếch đại chiến Văn Hường, Văn Hường đi xe gắn máy, Về quê vợ, Vợ tôi nói tiếng Tây, Pháp sư giải nghệ...; Ai lên xứ hoa đào, Cô gái bán sầu riêng, Mưa rừng, Em không buồn nữa chị ơi, Đau xót lý con cua, Mưa trên phố Huế...”

Ngoài giá trị văn chương, âm nhạc, những bản vọng cổ của ông được giới chuyên môn nhìn nhận như phương cách giúp người chưa biết ca tập thành ca sĩ, người ca quen trở thành tài tử ca, người không chuyên trở thành chuyên nghiệp, người chuyên nghiệp trở thành nghệ sĩ, người có danh trở thành “vua, hoàng đế, ông hoàng, nữ hoàng...”. Công chúng mê vọng cổ ghi nhận công lao sáng tác của Viễn Châu nên phong tặng ông nhiều danh hiệu cao quý: “Ông vua ca cổ”, “Ông vua tân cổ”, “Nhạc sư”, “Nghệ sĩ bậc thầy, “Nghệ sĩ ngoại hạng”, “Người tạo danh cho ca sĩ”...

trả giá

Vài nét về tác giả

Dmitry Alekseyevich Glukhovsky (1979), nhà văn, nhà báo Nga. Sinh ra và lớn lên ở Moskva, nơi ông tốt nghiệp lớp  chuyên  Pháp trường phổ thông Arbat 1231.  Học đại học chuyên ngành báo chí và quan hệ quốc tế ở Đại học Jerusalem (Israel).

Từ 2002 đến 2005 D.A.  Glukhovsky làm việc ở kênh truyền hình châu Âu EuroNews tại Lyon (Pháp), sau trở về Nga tiếp tục sự nghiệp nhà báo truyền hình cho kênh Russia Today khi đó vừa thành lập. Sau ba năm làm việc, ông đã chu du một nửa thế giới, tham gia “nhóm nhà báo điện Kremlin”, có mặt ở sân bay vũ trụ Baikonur, khu vực cách ly của Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl. Tháng 7. 2007, D. Glukhovsky thực hiện phóng sự truyền hình trực tiếp đầu tiên trên thế giới phát từ Bắc Cực . D. Glukhovsky còn cộng tác với các phương tiện truyền thông châu Âu: Đài phát thanh Đức Deutsche Welle và kênh truyền hình Sky News của Anh. Từ 2007 đến 2009 làm người dẫn chương trình cho đài phát thanh Mayak. Hiện ông là tác giả chuyên mục của các ấn bản “Snob” và “GQ”.

Tiểu thuyết đầu tay mang đến cho ông danh tiếng thế giới Metro 2033 đã được tác giả ấp ủ từ những năm trung học và bắt đầu viết vào những năm đầu đại học. Metro 2033 được xuất bản năm 2005, trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất nước Nga thập niên 2000, trên toàn thế giới nó được in nửa triệu bản, dịch sang 37 thứ tiếng và trở thành nền tảng cho hai videogames, trong khi quyền chuyển thể của nó đã được MGM Hollywood mua. Những cuốn sách tiếp theo như: Chạng  vạng(2007), Metro 2034 (2009), Những chuyện kể về Tổ quốc (2010) và Tương  lai (2013) cũng trở thành sách bán chạy quốc gia và được dịch sang các thứ tiếng Âu, Á.

Tác phẩm Trả giá (bản tiếng Nga là Tekst) bạn đang cầm trên tay là tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của D. Glukhovsky, xuất bản năm 2017 lập tức trở thành bestseller và chỉ một năm sau đã được chuyển thể sân khấu do Nhà hát kịch Moskva mang tên M.N Yermolova dàn dựng, Maksimo Didenko đạo diễn. Không lâu sau đó, Tekst được dựng thành phim trên màn ảnh rộng do Klim Shipenko đạo diễn, ra mắt lần đầu tiên vào 24. 10. 2019.

Giới thiệu tác phẩm:

Trả giá (bản tiếng Nga là Tekst) là tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của nhà văn – nhà báo người Nga Dmitry Alekseyevich Glukhovsky (1979) vốn nổi danh trên toàn cầu với tiểu thuyết Metro 2033 được xuất bản năm 2005 và trở thành một trong những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Nga trong thập niên 2000.

Được xuất bản năm 2017, một tác phẩm khác của D.Glukhovsky là Trả giá cũng nhanh chóng lọt vào danh sách tiểu thuyết bestseller và chỉ một năm sau đó thì tác phẩm được chuyển thể sân khấu. Không lâu sau đó, Trả giá – Tekst được dựng thành phim trên màn ảnh rộng do Klim Shipenko đạo diễn, rồi ra mắt lần đầu tiên vào hôm 24/10/2019.

Câu chuyện xoay quanh nhân vật Iliya, một thanh niên bị tù oan 7 năm về tội buôn bán ma túy từ năm 20 tuổi, lúc vừa thi đậu đại học. Ra tù, mẹ mất, bạn gái bỏ rơi, bạn thân thay đổi, cuộc sống không như Iliya mong đợi, và một lần nữa Iliya cảm thấy rơi vào đường cùng.

Trong nỗi cô đơn tột độ, Iliya uống say và ra tay tước đi mạng sống của cảnh sát Khazin, con trai thiếu tướng – người mà cách đây 7 năm đã nhét tang vật vào túi khiến Iliya rơi vào vòng lao lý, oan sai.

Một lần nữa, Iliya lại vùng vẫy trong tuyệt vọng giữa sự sống – tự do và cái chết.

Có thể khẳng định rằng, Trả giá chứa đựng hàng loạt diễn biến khá hấp dẫn, chủ yếu đào sâu tâm lý nhân vật Iliya, giằng xé giữa ranh giới tội phạm và sự lương thiện nhằm truyền tải thông điệp “trong sáng và hướng thiện” đến độc giả rằng khi xuống tay với kẻ khác thì bản thân ta cũng đang giết chết chính mình.

phú quốc trong mắt kính thần

Phú Quốc Trong Mắt Kính Thần

nghĩ từ trái tim (tái bản 2020)

Con người không chỉ có cái đau, con người còn có cái khổ nữa! Người thầy thuốc chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ. Trong cuộc sống đầy những bất trắc, lo âu và căng thẳng như hiện nay, nỗi khổ lại càng chồng chất....

vàng son một thuở ba tư (tập du ký)

Bản năng sinh tồn của loài sinh vật hai chân quả thật kỳ vĩ dù bàn tay Thượng Đế cố tình đặt loài sinh vật nhỏ bé ấy vào trong những khối băng lạnh giá, cánh rừng già hoang vu hay đất đá khô khốc mùi hoang mạc. Bản năng sinh tồn ấy trỗi dậy để tìm lấy sự sống như cách ái phi Scheherazade đã kể cho vua Shahryar nghe những câu chuyện thần thoại và luôn kết thúc trong dở dang, gây tò mò khi ánh dương vừa ló rạng. Hàng đêm, khi ánh lửa liêu xiêu được thắp sáng trong cung điện, không gian nồng ấm mùi trầm Frankince, những xứ sở mới lạ hiện ra trong 1.001 câu chuyện thật sống động, lấp lánh sắc màu như suy nghĩ từ những người Hy Lạp đi trước mở đường, một phương Đông vô cùng huyền bí nhưng cũng là vùng đất đầy ma thuật, bùa ngải ẩn hiện vào những lọn tóc rắn của nữ quỷ Medusa...

Một vương triều Achaemenid của Đại đế Darius trỗi dậy từ thế kỷ 5 TCN quá hùng mạnh khiến người Hy Lạp không thể đặt chân đến Ba Tư khi họ luôn thất thủ tại eo biển Bophorus thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, trong khi đoàn quân thiện chiến Ba Tư liên tục vượt Địa Trung Hải mở những đợt vây hãm Hy Lạp. Nỗi buồn ghi thật sâu trong lòng những chiến binh Hy Lạp khi hoàng đế Ba Tư Xerxes I (519 - 465 TCN) đốt tan hoang pháo đài phòng thủ Acropolis ở thành Athen trong trận chiến mùa xuân 480 TCN. Khi trận chiến sống mái Plataea diễn ra năm 479 TCN đi qua, người Hy Lạp ca khúc khải hoàn bằng cây cột đồng dựng thẳng đứng và trên thân cột điêu khắc những con rắn ma quái phương Đông phủ phục và tôn vinh các vị thần của vùng đất Macedonia.

Không như nền văn minh Ai Cập với các vị thần hóa thân vào trong loài vật, Hy Lạp quá rực rỡ với các vị thần tuyệt đẹp đường nét bước ra từ bộ sử thi và là một trong những nền văn minh bản lề của phương Tây nên kẻ hậu bối như tôi chỉ nhớ đến công trạng hiển hách của Đại đế Alexandros của người Macedonia qua những trận chiến thần tốc khi ông xua đoàn quân thiện chiến về phương Đông. Tôi không biết được đại lộ giao thương Đông Tây từ đoạn Susa thuộc tỉnh Khuzestan - Iran đến Sardis - Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đã được Đại đế Darius xây dựng vào thế kỷ 5 TCN với tên gọi “Con đường Hoàng Gia”. Không còn huyền bí ma thuật như những lời đồn đãi, đoán mò của những người Hy Lạp trước đây, mà hành quân theo “Con đường Hoàng Gia” đã được người xưa thiết lập, Ba Tư trong ánh mắt của ông Alexandros vào thế kỷ 3 TCN là ngôi sao đích thực của mỹ thuật phương Đông với những đền đài lăng tẩm đẹp không sao tả xiết. Một nền văn minh rực rỡ của nhân loại được hỏa thần Ahura Mazda và nữ thủy thần Anahita ươm mầm sống trong lòng sa mạc rộng lớn.

Thuở bé thơ sống trong những câu chuyện cổ tích, tập truyện Ngàn lẻ một đêm được viết từ kinh đô Baghdad – Iraq dẫn lối tôi vào vương quốc thần tiên. Lớn hơn một chút, những áng thơ của các đại văn hào Ba Tư trong thời Trung cổ lại ru lứa tuổi mộng mơ vào giấc ngủ nên thơ. Và cho đến một ngày tâm hồn chuyển qua đam mê kiến trúc mỹ thuật, Ba Tư lại cuốn hút tôi bằng những viên gạch men nền nã được ốp trên những mái vòm hay các cổng chào theo nghệ thuật tổ ong. Một vài người bạn đồng hành nói rằng: “Ba Tư vẫn huyền thoại như những tác phẩm văn học cổ có sức ảnh hưởng rộng lớn trên vùng đất Nam - Trung - Tiểu Á và trên những vùng đất ấy vẫn còn giữ lại những phong tục cổ truyền của người xưa. Ba Tư vẫn long lanh nét đẹp phương Đông khi các kiến trúc sư phương Tây vay mượn mái vòm Ba Tư và nghệ thuật sân vườn để thiết kế những công trình lớn trên lục địa già cỗi, dù co cụm về lãnh thổ nhưng vẫn oai hùng một thuở khi rất ít vó ngựa viễn chinh từ bên kia Địa Trung Hải có thể băng ngang qua được vùng đất Ba Tư...”

Trong dòng chảy hiện đại, Ba Tư vẫn huyền bí đến mơ hồ khi tôi đọc qua các bản tin trên phương tiện truyền thông quốc tế.

Trỗi dậy từ bán đảo Tây Á vào thế kỷ 7, các vị vua Hồi chọn Ba Tư đầu tiên để truyền bá tôn giáo bởi ánh vàng son của vương quốc ấy có sức ảnh hưởng rộng khắp trên vùng đất châu Á.

Bước chân qua một vài vùng đất Hồi giáo trước đây, người địa phương kể rằng nghề dệt thảm có cội nguồn từ vùng đất Hồi giáo Ba Tư và nếu mua làm quà lưu niệm thì không đâu đẹp bằng Iran. Nét văn hóa từ ngàn xưa ấy được tôn vinh bằng câu chuyện chiếc thảm thần trong Aladin và chiếc đèn thần được phương Tây loan truyền bằng nhiều bộ phim cùng tên. Tôi muốn đến Iran vẫn còn trong giai đoạn tranh tối tranh sáng, không vì những lời khen ngợi can đảm từ bạn bè hay một chút kiêu hãnh trong lòng mà chỉ vì câu nói của người xưa “Vàng son một thuở Ba Tư”. Hai lần đến Iran theo tiếng gọi đam mê khác nhau của những nét văn hóa cổ xưa, tôi mơ ước được sở hữu trong tay chiếc thảm thần để được bay đến Ba Tư nhiều lần hơn nữa. Bởi một lý do rất đơn giản, chiếc vé máy bay và tấm visa để vào Iran đã ngốn một số tiền không nhỏ trong chuyến đi...

chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối

Chúng Tôi - Một Thời Mũ Rơm Mũ Cối

nguyễn thị tây sơn ký

Nguyễn Thị Tây Sơn Ký

nguyễn hiến lê - những lời tựa và bài giới thiệu

Theo Nguyễn Hiến Lê: "Tôi đã viết bốn - năm chục bài tựa cho các tác phẩm của tôi và hai chục bài cho các tác phẩm của bạn. Có người nhờ tôi đề tựa cho hai, ba cuốn. Hai đã là quá nhiều rồi (hóa nhảm đi), mà phải là hai cuốn trong hai loại khác nhau thì tôi mới nhận lời. Và tôi cũng chỉ nhận cho bạn thân thôi. Ông Châu Hải Kỳ có lần khuyên tôi nên lựa những bài vừa ý hơn hết, cho vào một tuyển tập như một nhà văn nào đó của Pháp. Tôi không làm việc đó, khiến ông bực mình, nhưng năm 1975 tôi cũng lựa ít bài cùng với một số tùy bút, hồi ký cho vô tập: Để tôi đọc lại"

Theo Nguyễn Hiền Đức hôm nay thì: "Đọc lại những bài Tựa đó, chúng ta thấy Nguyễn Hiến Lê luôn yêu độc giả, yêu đề tài, luôn là chính mình, thành thực với chính mình, thể hiện ở mức độ rất cao về tâm hồn, nhân cách và cá tính của ông. Văn ông bình dị, sáng sủa, đầy cảm xúc và nhiều ý cao tình đẹp. Vì vậy, với tôi, những lời Tựa của Nguyễn Hiến Lê - có khi chỉ 2 - 3 trang, có khi tới 20 - 30 trang - là những tác phẩm lớn thực sự có giá trị và quý hiếm" (trích "Lời thưa")

Kiên trì sưu tập, nhẩn nha gõ lại từng chữ để in ra đầy đủ những lời tựa, bài giới thiệu sách của Nguyễn Hiến Lê là một việc không phải ai cũng có gan làm được, và việc làm này chắc chắn sẽ mang lại lợi ích không nhỏ cho các thế hệ hậu bối, trong việc giúp họ tìm hiểu thêm về một học giả Việt Nam khả kính, qua đó còn có thể học tập được nhiều thứ khác, như nhân cách, tâm hồn, kinh nghiệm vận dụng ngòi búủa một người cả đời theo đuổi nghề văn với tâm tư phụ vụ nhân quần xã hội, như cụ Nguyễn Hiến Lê. (Trần Văn Chánh).

truyện kiều bản duy minh thị 1872

Có nhiều bản Truyện Kiều đã được khắc in; nhiều cuốn sách phiên âm, bình giải, nghiên cứu về các điển tích, điển cố, câu chữ, về nhân vật trong Truyện Kiều… đã được xuất bản kể từ khi kiệt tác này xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Hai trăm năm đã trôi qua, Truyện Kiều vẫn luôn là nguồn cảm hứng vô tận đối với người Việt Nam từ giới bình dân đến các bậc thức giả. Bởi vậy, hẳn độc giả sẽ không cảm thấy bất ngờ khi vào những năm đầu của thế kỷ XXI đang cầm trên tay một cuốn sách mới về Truyện Kiều với tựa đề Truyện Kiều – bản Duy Minh Thị 1872 do học giả An Chi phiên âm, chú giải và thảo luận.

Không bất ngờ nhưng chắc chắn quý bạn đọc sẽ thấy thú vị khi đọc cuốn sách này. Sở dĩ chúng tôi đoan chắc như vậy bởi mấy lẽ:

Thứ nhất, cuốn sách thể hiện sự chân xác và mới mẻ trong cách phiên âm. Trước đây, Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 đã từng được học giả Nguyễn Tài Cẩn và nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân phiên âm. Tuy nhiên, như học giả An Chi đã chia sẻ trong Lời nói đầu, có không ít chữ mà cách phiên âm của hai vị tiền bối chưa được thỏa đáng, một phần bởi cách viết có nhiều khác biệt của chữ Nôm miền Nam; một phần bởi những sai sót trong quá trình viết mẫu, khắc in của những người thợbên Trung Hoa – vốn không am hiểu về chữ Nôm. Trong bản phiên âm này, học giả An Chi vừa bám sát vào văn bản, vừa căn cứ vào đặc trưng của tiếng miền Nam, của chữ Nôm miền Nam, đồng thời cải chính những sai sót có thể xảy ra do quá trình khắc in để đưa ra cách đọc chính xác, hợp lý nhất.

Thứ hai, thay vì được bố trí ở ngay phía dưới mỗi trang sách với hình thức cước chú, mục Chú giải và Thảo luận được tác giả sắp thành một phần riêng biệt, xếp theo thứ tự A B C với dung lượng xấp xỉ 200 trang. Thú vị hơn nữa là phần chú giải và thảo luận được viết tỉ mỉ với giọng văn giàu cảm xúc, như thể người viết đang cùng độc giả mạn đàm bên chén trà nóng về những câu những chữ trong Truyện Kiều. Vì vậy, bạn đọc hoàn toàn có thể đọc riêng phần này như đọc một cuốn sách bình giải về Truyện Kiều, có thể tìm thấy những trường nghĩa khác lạ so với cách hiểu hiện nay. Như chữ “dặt dìu” trong câu “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu” nghĩa là bàn bạc, nói tới nói lui; “não nùng” trong câu “Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng” lại có nghĩa say mê, đắm đuối; rằng “bụi hồng” không hẳn lúc nào cũng chỉ cõi nhân gian mà trong câu Kiều số 250 và 1036 lại đơn giản là… “bụi đường”. Tác giả cũng đưa ra những cách đọc khác với các bản phiên âm trước đây như: “Hạc nội mây nhàn” thay vì “Hạc nội mây ngàn”; “đỉnh Hiệp non Thần” thay vì “đỉnh Giáp non Thần” và cho biết đây là hai địa danh hoàn toàn có thật…

Điều thú vị thứ ba chính là tinh thần cẩn trọng và cởi mở của tác giả trong nghiên cứu học thuật. Để có thể đưa ra những kiến giải mới, phản biện một cách thuyết phục trước ý kiến của các bậc “cây đa cây đề” trong ngành văn bản học và Kiều học, học giả An Chi đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Hai năm trước, ông đã giới thiệu đến bạn đọc cuốn Câu chữ Truyện Kiều – thành quả của quãng thời gian dài nghiên cứu về tác phẩm này. Nay trong Truyện Kiều – bản Duy Minh Thị 1872, trên cơ sở tiếp tục tìm tòi, lắng nghe ý kiến của bạn đọc từ các diễn đàn, ông đã có những điều chỉnh trong cách phiên âm và giải nghĩa “với hy vọng đưa đến bạn đọc một bổn Duy Minh Thị 1872 đúng với chân diện mục và giá trị đương nhiên của nó”. Trên tinh thần đó, tác giả hẳn sẽ rất vui khi tiếp tục nhận được những ý kiến thảo luận của quý bạn đọc sau khi cuốn sách được ra đời.

combo lược khảo văn học (bộ 3 tập)

Combo Lược Khảo Văn Học (Bộ 3 Tập)

Trong những năm 1963-1968, NXB Nam Sơn ở Sài Gòn đã ấn hành bộ sách Lược khảo văn học của Nguyễn Văn Trung, gồm ba tập: Những vấn đề tổng quát, Ngôn ngữ văn chương và kịch, Nghiên cứu và phê bình văn học. Là tài liệu tham khảo của sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm, bộ sách này sớm được Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Giáo dục tái bản ngay sau khi ra đời.

Là Giáo sư Triết học, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và vận dụng thành tựu của những trào lưu mỹ học đương thời: phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận. Bộ sách giúp độc giả làm quen với tên tuổi và quan niệm của những học giả nổi tiếng ở phương Tây: F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, J.P. Sartre. Có thể nói, cho đến thời điểm ấy ở nước ta, đây là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống nhất.

Trong ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Văn Trung đã liên hệ lý thuyết với thực tiễn văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê bình.

1. Lược Khảo Văn Học I - Những Vấn Đề Tổng Quát

2. Lược Khảo Văn Học II - Ngôn Ngữ Văn Chương Và Kịch

3. Lược Khảo Văn Học III - Nghiên Cứu Và Phê Bình Văn Học

combo chuyện đông chuyện tây (bộ 4 tập)

Combo Chuyện Đông Chuyện Tây (Bộ 4 Tập)

Tôi biết có rất nhiều người, hễ cầm đến số Kiến thức ngày nay mới ra (hay mới mượn được) là tìm đọc ngay mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của An Chi. Dĩ nhiên cũng có những người đọc trước tiên những mục khác, chẳng hạn như những người đang nóng lòng đọc phần tiếp theo của một truyện đăng nhiều kỳ đang đọc dở, nhưng có thể biết chắc rằng sau đó người ấy thế nào cũng tìm đọc “Chuyện Đông chuyện Tây”.

Có một lần tôi đi photocopy một bài mà tôi viết chung với An Chi. Khi nhìn thấy tên tôi đặt cạnh tên An Chi, người thợ đứng máy ngạc nhiên hỏi tôi: “Thế ra chú quen cả đến cụ An Chi?”. Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này.

An Chi (cũng là Huệ Thiên, một bút danh khác do nói lái cái tên thật Thiện Hoa mà thành) chưa phải là một cụ già. Hồi bắt đầu viết cho Kiến thức ngày nay (1990), anh chỉ mới vượt qua tuổi năm mươi. Anh vốn là học sinh trường Chasseloup-Laubat ở Sài-gòn. Khi Hiệp định Genève được ký kết, anh quyết định chọn miền Bắc, và đã kịp mua vé máy bay ra Hải Phòng trước khi chấm dứt thời hạn 300 ngày, trong tay có thư giới thiệu của Đảng ủy Đặc khu (vì anh tham gia đoàn thể học sinh kháng chiến ở Sài Gòn). Nhưng anh không thấy cần tới tờ giấy này, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân chính của những chuyện không may của anh sau này, vì thời ấy còn có những người (tuy ít ỏi) không tin rằng có thể có những thanh niên con nhà khá giả lại đi chọn miền Bắc nếu không có ý đồ đen tối nào đó. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy, Hà Nội), anh đi dạy cấp hai ở Thái Bình. Nhưng chỉ sáu năm sau, vì bị coi là có những tư tưởng lệch lạc, anh bị thải hồi, và vì hoàn toàn không nơi nương tựa, anh phải ở nhờ nhà một bác cấp dưỡng tốt bụng. Sau đó anh xin được làm hợp đồng trong Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên của tỉnh, chuyên mua than củi muối gạo cho trường, cho đến khi được Bộ Nội vụ triệu tập lên Hòa Bình học lớp chính trị của Trường 20-7 “dành cho cán bộ miền Nam vì lý do này hay lý do khác không còn trong biên chế nhà nước”. Sau đó anh trở về Hà Nội học nghề thợ nguội và thợ tiện ở Nhà máy xe đạp Thống Nhất rồi phụ trách bổ túc văn hóa tại nhà máy. Từ năm 1972, anh được chuyển đến Trường Học sinh miền Nam số 8 ở Tam Đảo (Vĩnh Phú). Đến khi miền Nam giải phóng, anh được chuyển vào Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh rồi Phòng Giáo dục Quận 1 làm nhiều công tác khác nhau, rồi đến 1984 anh xin về hưu non để dành hết thì giờ cho việc đọc sách và nghiên cứu những vấn đề mà anh đã quan tâm từ hai mươi năm trước, nghĩa là từ khi anh bị thải hồi.

An Chi bao giờ cũng nuôi một niềm tri ân chân thành và sâu xa đối với những người lãnh đạo đã thải hồi anh vì nhờ đó mà anh được bắt tay vào một việc xưa nay vẫn là ước mơ tha thiết nhất của đời anh: học, học thực sự, học để biết, để trở thành người có ích, chứ không phải để có bằng này, bằng nọ hay danh vị này, danh vị khác. Từ khi được giải phóng ra khỏi công việc giảng dạy ở nhà trường, anh dành tất cả thời gian không phải đi mua than củi hay gạo muối để lao vào học, học cho kỳ được những gì mình vẫn thèm iết mà trước kia vì phải soạn bài, chấm bài và lên lớp giảng nên chưa làm được. Thoạt tiên, anh vớ được một cuốn Thượng của bộ Từ hải và một cuốn từ điển chữ Hán dành cho học sinh của nhóm Phương Nghị. Rồi từ đó trở đi, suốt gần 30 năm anh không ngừng tìm kiếm sách vở để học thêm về các khoa học xã hội và nhân văn, dù là trong khi làm thợ nguội, đi học tập chính trị, hay chạy việc hành chính, anh đều dành hết tâm trí cho việc học. Và cũng như thói thường, càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít, cho nên anh chỉ thấy mình được sống thực sự sau khi đã về hưu non và được ngồi suốt ngày bên bàn viết, giữa mấy ngàn pho sách yêu quý mà anh đã tích lũy được trong bấy nhiêu năm.

Từ khi Ban biên tập Tạp chí Kiến thức ngày nay giao cho An Chi phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, anh đã dành khá nhiều thì giờ để trả lời cho những bạn đọc thấy cần thỏa mãn những mối băn khoăn về chữ nghĩa và tri thức nói chung. Anh thấy đây là một công việc có ích cho nhiều người, mặc dầu công việc này có làm cho anh sao nhãng ít nhiều những vấn đề mà anh chuyên tâm nghiên cứu từ lâu, nhất là những vấn đề về lịch sử tiếng Việt. Và tuy anh biết rất rõ rằng thời nay không có ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết, nhưng những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao.

Dĩ nhiên, tôi không dám nói An Chi bao giờ cũng đúng. Errare humanum est. Không phải anh bao giờ cũng tìm được cách trả lời tối ưu có thể làm hài lòng những chuyên gia khó tính. Nhưng tôi tin chắc rằng một người đọc trung bình như tôi, khi đọc xong một đoạn giải đáp của An Chi, ít nhất cũng thấy mình biết thêm được một cái gì bổ ích, và đó quả thật là một điều tối đa có thể chờ mong ở một tạp chí dành cho quần chúng rộng rãi như Kiến thức ngày nay.

Nói như vậy không có nghĩa là trong những bài trả lời ngắn gọn của An Chi không lóe lên những tia sáng của một tài năng chân chính. Những ý kiến của An Chi về gốc Hán của yếu tố “kẻ” đứng trước những địa danh mà có người tưởng là “nôm” như Kẻ Sặt, Kẻ Noi (do chữ Giới 界: xem Kiến thức ngày nay, số 229); về gốc Hán của chữ chiềng (do chữ Trình 呈?: xem Kiến thức ngày nay, số 225) mà có người cho là dùng để chỉ công xã nông thôn dưới thời Hùng Vương, việc anh cải chính những chỗ sai quan trọng của Từ điển Bách khoa Việt Nam như về quốc hiệu Đại Nam mà Từ điển Bách khoa Việt Nam nói là do Gia Long đặt (Kiến thức ngày nay, số 212); sự sai trái của cách nói “sau Công nguyên” (Kiến thức ngày nay, số 219) và rất nhiều chuyện khác nữa, được anh chứng minh và trình bày đủ sức thuyết phục để ngay các chuyên gia cũng phải tán thành.

Nhiều bài giải đáp của An Chi làm cho người đọc thấy hé mở ra những luận điểm khoa học quan trọng và thú vị, khiến họ phải lấy làm lạ mà tự hỏi tại sao nó không được anh trình bày thành những chuyên luận. Ta hãy yên tâm chờ đợi. Những người như An Chi thường rất khó tính đối với bản thân. Rồi sẽ có ngày những chuyên luận ấy đủ chín muồi để tác giả thấy có thể đem nó ra đóng góp vào nền khoa học nhân văn của đất nước. Nhưng dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức.

Cao Xuân Hạo

1. Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1 (Tái Bản 2019)

2. Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2 (Tái Bản 2019)

3. Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3 (Tái Bản 2019)

4. Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4 (Tái Bản 2019)

bộ sự phát triển của tư tưởng ở việt nam từ thế kỷ xix đến cách mạng tháng tám - tập iii

Tập III được xây dựng dưới dạng lịch sử của phong trào cách mạng Việt Nam từ 1920 đến 1945. Ở đấy, các sự kiện, các giai đoạn lịch sử của phong trào cách mạng được nhìn ở góc độ tư tưởng là chính, lấy sự việc để trình bày và chứng minh tư tưởng, lấy tư tưởng làm đuốc rọi đường cho hành động cách mạng có ý thức càng ngày càng sâu và càng đúng

Đầu tiên thì sách được đặt tên là "Sự thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các nhiệm vụ lịch sử". Sau rồi trong lúc viết tôi thấy cần sửa tên lại là "Thành công của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ba khái niệm "thất bại", "bất lực", "thành công" nối tiếp nhau trên ba tập sách là tư tưởng chính của tác giả trong bộ lịch sử tư tưởng ba quyển này.

khủng hoảng môi trường có phải nguy cơ hết thuốc chữa?

Chúng ta khoan vào trái đất trăm ngàn lỗ thủng, chúng ta làm ô nhiễm các dòng sông, đại dương và không khí, chúng ta tập trung lại một chỗ, dùng sắt thép xi măng xây nên những công trình kiến trúc kỳ quái, đặt cho nó cái tên mỹ miều là "thành phố", chúng ta ở trong những thành phố này thoải mái phóng túng những dục vọng của mình, tạo ra những thứ rác rưởi vĩnh viễn khó mà tiêu hủy đượ

Địa cầu bốn bề lửa khói, toàn thân run rẩy, biển cả kêu gào, cát bụi bay khắp nơi, hạn hán lũ lụt, bệnh tật lan tràđều liên quan đến sự phát triển bệnh hoạn của khoa học kỹ thuật dưới sự kích thích bởi dục vọng tham lam của các nước phát triển" (Theo Mạc Ngôn)

những người thầm lặng - quiet as they come

Tôi viết những câu chuyện về nhân vật, ngẫu nhiên là gốc Việt, nhưng mục đích chính của tôi vẫn là biểu lộ thông điệp con người ai cũng giống ai, tất cả đều dò dẫm về phía ánh sáng, để làm sáng tỏ những mối quan hệ, để tịnh tâm với lý do vì sao chúng ta ở cõi này.

Tôi nghĩ đó là thực chất của quan niệm cá nhân tôi và là điều tôi ao ước cho cuốn sách. Đó là [nhận thức] chúng ta đều là con người" (Angie Chau)

Angie Chau sinh năm 1974, từng sống ở Malaysia, Ý, Tây Ban Nha, Hawaii bà phía Nam, Phía Bắc của California.

Cùng với những nhà văn "đồng hội đồng thuyền" khác như Viet Thanh Nguyn, Monique Truong, Andrew Lam, Dao Strom, Bich Minh Nguyen, Lai Thanh Họ đang dần dần tạo dựng một thế hệ nhà văn Việt Nam thứ hai cạnh tranh với các nhà văn Mỹ và các cộng đồng khác trong cuộc chơi văn chương viết bằng tiếng sở tại.

Những nhà văn trẻ này lớn lên vào thập niên 1980, thời điểm mà sự "hợp lưu", hiểu biết về Việt Nam chưa phổ quát, phổ biến như ngày nay, vì thế, cầm bút viết về gia đình, về cuộc sống của những người Việt Nam tại Hoa Kỳ là con đường duy nhất để họ không quên "nhân dạng" (identity) Việt Nam của mìọ tin rằng, những câu chuyện của họ là một phần của lịch sử, của dân tộc. Họ tin rằng, những cuốn sách của họ sẽ làm thay đổi nhận thức của người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu. Và tôi nghĩ, chúng ta cần cảm ơn họ vì điều đó.

Nhiều người trong số họ đã từng quay lại Việt Nam để tìm nguồn cội, để trò chuyện, để chia sẻ, và càng nhận thức rõ hơn gốc gác của mình.

Tập truyện ngắn này của Angie Chau ra mắt như một phần của nỗ lực giới thiệu, tìm hiểu về cộng đồng Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ nói riêng, và trên toàn thế giới nói chung" (PGS.TS. Trần Lê Hoa Tranh).

quan hệ việt nam - ấn độ từ đầu thế kỷ xxi đến nay

Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam luôn xem trọng việc phát triển quan hệ với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á. Trong đó, Ấn Độ là quốc gia có quá trình tiếp xúc và phát triển quan hệ sớm với Việt Nam, được đánh giá là một trong những mối quan hệ “trong sáng như bầu trời không một gợn mây” (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Thực tế cho thấy, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được tạo dựng và phát triển trên nền tảng vững chắc bởi sự gắn bó, tương đồng về địa lý, văn hóa, lịch sử... Trong thời kỳ đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, mặc dù đang gặp nhiều khó khăn nhưng hai nước vẫn giúp đỡ và ủng hộ lẫn nhau. Sau khi giành được độc lập, Ấn Độ vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam cả về mặt tinh thần và vật chất trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Hoa Kỳ, cũng như giúp đỡ Việt Nam khắc phục những hậu quả sau chiến tranh. Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ở một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI với những biến đổi to lớn của tình hình thế giới và khu vực, không chỉ cho chúng ta thấy được những thành tựu mà hai nước đã đạt được để tiếp tục phát huy, mà còn giúp chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm từ những hạn chế còn tồn tại trong mối quan hệ song phương, để từ đó có những đề xuất nhằm đưa mối quan hệ ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu hơn.

Trên cơ sở đó, cuốn sách Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay của TS. Đỗ Thanh Hà sẽ góp phần phục dựng có hệ thống và toàn diện mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Với nguồn tư liệu xác thực, đáng tin cậy, tác giả đã cung cấp một cái nhìn bao quát với những đánh giá khách quan về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong đó, tập sách tập trung phục dựng lại một cách đầy đủ và hệ thống quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI trên cơ sở trình bày những nhân tố tác động đến sự phát triển của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, từ sự tương đồng về văn hóa, lịch sử, những tiền đề lịch sử, sự biến chuyển của bối cảnh quốc tế và khu vực cho đến quá trình chuyển biến tư duy đối ngoại của hai nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tác giả cũng trình bày những hạn chế còn tồn tại, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị, góp phần định hướng cho công tác đối ngoại của Việt Nam nói chung và đối với Ấn Độ nói riêng, nhằm tăng cường hơn nữa và đưa mối quan hệ hai nước ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Những thông tin hữu ích từ cuốn sách được xem là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên và những người quan tâm đến việc tìm hiểu và nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.

PGS. TS. Trần Nam Tiến

 

Lời nói đầu

Mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Ấn Độ đã có từ hàng ngàn năm qua, khởi nguồn từ sự giao lưu tiếp xúc văn hóa và tôn giáo. Mối quan hệ gắn bó giữa hai dân tộc được hai vị lãnh đạo kiệt xuất của hai nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Jawaharlal Nehru tạo dựng nền móng, các thế hệ lãnh đạo kế tiếp và nhân dân hai nước dày công vun đắp. Thủ tướng Nehru là một trong những vị khách nước ngoài đầu tiên thăm Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sang thăm Ấn Độ vào tháng 2-1958. Bước vào thời kỳ độc lập, xây dựng đất nước, giữa hai nước đều có những lợi ích tương đồng, không gặp những trở ngại so với nhiều quốc gia khác, qua đó tạo cơ sở cho hai nước duy trì và phát triển quan hệ hợp tác tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học công nghệ...

Chiến tranh lạnh kết thúc (1991) đã mở ra thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế phát triển mạnh mẽ, trong đó các quốc gia chú trọng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối  ngoại  để  tạo  tiền  đề  thúc  đẩy  sự  phát  triển  của  quốc  gia. Trong tổng thể tiến trình hội nhập quốc tế, các quan hệ song phương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong ưu tiên đối ngoại của các nước trên thế giới. Trong bối cảnh quốc tế mới, Ấn Độ tuyên bố thực hiện Chính sách Hướng Đông đồng thời với công cuộc cải cách kinh tế để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee đã tuyên bố vào ngày 19-9-2000: “Có sự thừa nhận vai trò của Ấn Độ như một nhân tố ổn định ở châu Á. Chúng ta đã có kế hoạch sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của chúng ta như một đối tác toàn cầu (Global player)”(1). Trong giai đoạn một của chính sách này, Ấn Độ bắt đầu chú ý tới các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, một khu vực giàu tiềm năng về nguyên liệu và năng lượng. Trong đó, Việt Nam, vốn có sự ổn định cao về chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, và có vị trí địa chính trị quan trọng, đóng vai trò là một mắt xích chiến lược trong Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ ở Đông Nam Á nhằm mục đích tăng cường quan hệ chính trị, kinh tế và lợi ích an ninh của Ấn Độ tại khu vực này. Bên cạnh đó, với quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam cũng đã hòa cùng xu thế tiến bộ của thời đại bằng cách tiến hành hội nhập quốc tế và mở rộng hợp tác với các khu vực bên ngoài. Việc chủ động mở rộng các quan hệ đối ngoại để tranh thủ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ cho các mục tiêu phát triển quốc gia đã thể hiện rõ một trong những nội dung quan trọng của hội nhập quốc tế là “thúc đẩy quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung”(1).

Bản thân hai nước có nhiều tiềm năng để phát triển quan hệ, cụ thể hai nước đều là thị trường lớn về thương mại và đầu tư; có nguồn nhân lực dồi dào và nguồn tài nguyên phong phú; Việt Nam được Ấn Độ xác định là “cửa ngõ” để Ấn Độ vươn ra mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực; Việt Nam có hợp tác, chuyển giao những công nghệ hiện đại của Ấn Độ, như lĩnh vực nguyên tử, công nghệ thông tin, nông nghiệp... Ngược lại, Việt Nam cũng sẵn sàng làm cầu nối cho Ấn Độ tăng cường hợp tác với các nước ASEAN và các diễn đàn hợp tác khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Ngoài ra, Ấn Độ và Việt Nam cùng chia sẻ mối quan hệ lịch sử căng thẳng và tranh chấp biên giới với Trung Quốc. Điều đó  cũng  đã  tạo  ra  những  lợi  ích  chung  trong  chính  sách  đối ngoại của cả hai quốc gia đối với Trung Quốc, khi mà Trung Quốc, với sự trỗi dậy mạnh mẽ đem lại nhiều thành công, đang muốn mở rộng ảnh hưởng của mình ra khỏi khu vực với tham vọng bành trướng ảnh hưởng của mình đến khu vực Nam Á và cả Ấn Độ Dương.

Bước vào thế kỷ XXI, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục được phát triển tốt đẹp trên cơ sở nhận thức và đánh giá đúng đắn về chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia gắn với tình hình khu vực và quốc tế. Hai bên đã thường xuyên có những  chuyến  thăm  cấp  cao  lẫn  nhau  nhằm  không  ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó và bền chặt. Đặc biệt, trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 5-2003, mối quan hệ song phương bước sang một  trang  mới. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký kết Tuyên  bố  chung  về  khuôn  khổ  hợp tác toàn diện giữa hai nước bước vào thế kỷ XXI, theo đó: “Bước vào thế kỷ XXI, hai bên quyết tâm phát huy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và nâng quan hệ hợp tác giữa hai nước lên tầm cao mới nhằm ứng phó với các thách thức mới của toàn cầu hóa, mối đe dọa của khủng bố quốc tế và những thách thức to lớn đối với hệ thống quan hệ quốc tế”. Đây là tuyên bố chung về hợp tác toàn diện đầu tiên của Việt Nam ký với một nước khác trong thế kỷ XXI. Tuyên bố này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đề ra những định hướng lớn cho sự phát triển sâu rộng của quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI.

Nhìn chung, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và đang có những bước phát triển tích cực trên cơ sở quan hệ “đối tác chiến lược” dựa trên sự nhận thức và đánh giá đúng đắn về chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia gắn với tình hình khu vực và quốc tế. Trải qua nhiều thập kỷ, mối quan hệ này pháttriển mạnh mẽ, toàn diện, được mở rộng ra trên tất cả các lĩnh vực của hai nước.

Trong thời gian tới, trên cơ sở nền tảng lâu đời của mối quan  hệ  truyền  thống  Việt  Nam  -  Ấn  Độ,  với  Chính  sách Hành động Hướng Đông (Act East Policy) trên cơ sở nâng cấp từ Chính sách Hướng Đông (Look East Policy) của Ấn Độ,  tiềm  năng  về  khoa  học  công  nghệ  của  Ấn  Độ  và  công cuộc Đổi mới của Việt Nam là những yếu tố thuận lợi giúp mang lại nhiều cơ hội thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước. Bên cạnh đó, sự phát triển của mối liên kết Đông Á và vấn đề Biển Đông cũng được Ấn Độ coi là cơ hội tốt để phát triển quan hệ với Việt Nam và giúp Ấn Độ đạt được những mục tiêu chiến lược của mình. Và ngược lại, tăng cường thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ cũng sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong quan hệ khu vực và quốc tế, đồng thời phục vụ tích cực cho sự phát triển hiện nay của Việt Nam.

Cuốn sách Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI  đến  nay không  chỉ  phục  dựng  lại  một  giai  đoạn  lịch sử  quan  trọng  trong  quan  hệ  Việt  Nam  -  Ấn  Độ  trên  mọi lĩnh  vực,  cung  cấp  một  cái  nhìn  bao  quát  với  những  đánh giá khách quan về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tại những giai đoạn lịch sử cụ thể dựa trên những nguồn tài liệu, thông tin chọn lọc, tin cậy, mà còn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, cán bộ, giảng viên, người học các  ngành  Lịch  sử,  Đông  phương  học,  Quan  hệ  quốc  tế  và trực tiếp là cho những ai quan tâm, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ.

Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:

Chương 1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay

Nội dung chương này nhằm trình bày các nhân tố (bên trong và bên ngoài) góp phần thúc đẩy và phát triển mối quan hệ song phương, trong đó bao gồm những tương đồng về địa lý, văn hóa, đặc biệt là sự tương đồng về lịch sử khi hai nước luôn ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Việc khái quát quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ trong lịch sử được xem là nền tảng quan trọng để tiếp cận đề tài, hình thành những hệ thống kiến thức về vấn đề nghiên cứu cũng như có những đánh giá bước đầu về hướng nghiên cứu và làm cơ sở lý luận thực tiễn cho nội dung chính của đề tài trong các chương tiếp theo. Bên cạnh đó, những biến đổi to lớn của tình hình thế giới  bước  sang  thế  kỷ  XXI  cùng  với  những  điều  chỉnh  trong chính sách đối ngoại của hai nước cũng có tác động không nhỏ đến mối quan hệ này. Ngoài ra, chúng tôi còn đề cập đến vai trò và vị thế của mỗi nước trong chính sách đối ngoại của nhau để làm rõ quá trình triển khai các chính sách cụ thể và nỗ lực của hai nước nhằm duy trì và thúc đẩy mối quan hệ lên tầm cao mới.

Chương 2. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ “hợp tác toàn diện” đến “đối tác chiến lược” và “đối tác chiến lược toàn diện”

Trong chương này, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu  mối  quan  hệ  Việt  Nam  -  Ấn  Độ  trên  tất  cả  các  lĩnh  vực (chính trị - ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ) từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Qua đó có thểthấy rằng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ là hết sức tốt đẹp. Ấn Độ vẫn tiếp tục khẳng định Việt Nam là trụ cột trong Chính sách Hướng Đông (Look East Policy) (và nay là Chính sách Hành động phía Đông - Act East Policy) của mình và ngược lại, Việt Nam cũng xem tăng cường quan hệ với Ấn Độ là hết sức cần thiết và là bước đi an toàn cho Việt Nam trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay.

Chương 3. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay: kết quả, đặc điểm và kiến nghị

Trên cơ sở nội dung của những chương trước, chúng tôi khái quát lại những thành tựu cũng như phân tích những hạn chế trong mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Việc nhìn nhận đầy đủ các vấn đề trên giúp chúng tôi phân tích được những đặc điểm của mối quan hệ hai nước. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng cân nhắc đưa ra những đề xuất kiến nghị, góp phần cho công tác đối ngoại của Việt Nam đối với Ấn Độ được tăng cường hơn nữa và đưa mối quan hệ hai nước ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.

TS. Đỗ Thanh Hà

các lựa chọn trong đầu tư vốn con người

Một quyển sách khiêm tốn về dung lượng nhưng dày về tri thức khoa học…. Hình thức của quyển sách này không quá lạ lẫm so với các ấn phẩm cùng loại. Tuy nhiên, đây có thể được xem là một chuyển khảo khá mới mẻ, liên quan đến kinh tế học giáo dục trong bối cảnh nghiên cứu giáo dục của Việt Nam hiện nay. Nếu đọc đến chương cuối cùng của chuyển khảo, quý vị sẽ cảm nhận được sự bất ngờ với cách tiếp cận khá triệt để và hấp dẫn về giáo dục, đó là xem giáo dục như đầu tư vốn con người và không phải lúc nào cũng nên đầu tư loại vốn này, Nó có ích cho những ai thật sự quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng vào việc ra quyết định về giáo dục cả trên bình diện cá nhân và gia đình, tổ chức, cũng như đối với các nhà hoạch định và thực thi chính sách.

bộ sự phát triển của tư tưởng ở việt nam từ thế kỷ xix đến cách mạng tháng tám - tập i

Nho giáo chiếm hơn phần nửa tập Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử. Phần của các tư tưởng khác ít hơn nhiều. Sở dĩ như vậy, vì dưới thời Nguyễn, Nho giáo là quốc giáo độc tôn, Nho giáo hay nói cho đúng hơn, những người theo Nho giáo triều đình chịu trách nhiệm chính trong việc mất nước.

Sách này chủ yếu nhằm chứng minh sự thất bại của Nho giáo trước hết trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc. Tất nhiên là các tư tưởng Phật giáo, Đạo giáế kỷ XIX còn có thể và cần phải nghiên cứu sâu hơn, kỹ hơn trong dịp khác.

bộ sự phát triển của tư tưởng ở việt nam từ thế kỷ xix đến cách mạng tháng tám - tập ii

Một ý thức tư tưởng có thể và thường sống lâu dài hơn cơ sở xã hội và chính trị của nó, huống chi, dưới chế độ thực dân Pháp, triều đình Huế được duy trì, giai cấp địa chủ được củng cố làm chỗ dựa cho đế quốc thống trị.

Nhưng những tàn dư của hệ ý thức phong kiến trong mọi dạng biểu hiện của nó, dù là do bọn thực dân trực tiếp hay gián tiếp nhào nặn làm công cụ xâm lược, dù là do bản thân người Việt Nam đi tìm trong kho vũ khí tinh thần cũ của dân tộc xem có những món gì xưa mà có thể dùng được cho ngày nay, có thể dùi mài thêm, có thể chấn hưng lên để góp phần gây thành một sức mạnh chống thực dân, những tàn dư được nhào nặn, chấn hưng, dùi mài, sử dụng đó, xét cho cùng đều là những dạng thái khác nhau thuộc hệ ý thức tư sản.

tiểu sử và hành trạng các nhà khoa bảng hán học nam bộ

Trong vòng 51 năm (1813 - 1864) mà 6 tỉnh toàn Nam Kỳ chỉ có 257 vị Cử nhân Hán học thì thật quá ít. Sở dĩ như vậy, vì Nam Kỳ là đất mới, dân chúng quen với nghề ruộng rẫy lo miếng cơm manh áo hơn là chuyện bút nghiên nơi cửa Khổng sân Trình, mặc dầu triều đình vẫn dành riêng sự ưu ái với người dân Nam Kỳ là đất hưng nghiệp của nhà Nguyễn, lo việc mở mang dân trí bằng cách cử một vị Tiến sĩ triều Lê vào làm Đốc học ở thành Gia Định như trên đã nói.

Nhưng một con én không làm nổi mùa xuân, khiến cho nhiều học trò "có người trải tám khóa mà không đủ văn thể tứ trường, thành thần tạm khế khóa để miễn binh dao, lại tâu xin gia ân cho biên vào sổ khóa sinh.

So với nhiều tỉnh ở miền Trung và miền Bắc, tổng số Cử nhân Hán học của 6 tỉnh Nam Kỳ chỉ bằng tổng số Cử nhân của một hay hai tỉnh ở miền ngoài. Rồi lại so với ngày nay, số Cử nhân và Kỹ sư, kể cả Thạc sĩ, Tiến sĩ tân học tốt nghiệp Đại học nhiều khộng kể xiết. Nhưng ngày xưa, thi đỗ được cái bằng Cử nhân Hán học vô cùng khó khăn, có khi hết nửa cuộc đời. Đúng là đãi cát tìm vàng. Do đó các vị Cử nhân và Tiến sĩ Hán học nói trên là những hạt kim cương trên bãi cát của sông Cửu Long và sông Đồng Nai, quý giá vô cùng, mà ngày nay các thế hệ con cháu phải hết sức trân trọng.

Trên tinh thần đó, chúng tôi biên soạn cuốn sách này để giới thiệu với độc giả, nhất là độc giả ở Nam Bộ, tiểu sử và hành trạng của các vị khoa bảng ấy vừa để tôn vinh từng vị, vừa để con cháu các vị ấy hãnh diện về tiền nhân của mình" (Nguyễn Đình Tư)

đại học - định chế giáo dục cao thay đổi thế giới từ trung cổ đến hiện đại (tái bản 2020)

" Đại học là một định chế giáo dục cao phát triển tri thức của châu Âu Kitô giáo Trung cổ, một hiện tượng rất đặc thù không một nền văn minh nào khác có, đánh dấu sự thức tỉnh tinh thần của một nền văn minh mới của thế giới sau đêm dài một nghìn năm vắng bóng học thuật, và tiếp nối truyền thống tri thức Hy Lạp cổ đại.

Đại học là universitas, sự tập hợp tự nguyện của thầy và trò để phát triển tri thức cao, hoạt động độc lập và tự chủ.

Đại học mang trong mình dòng máu khoa học  như lẽ sinh tồn. Không có khoa học, lý tính, không thể có đại học và xã hội phát triển, ngay cả châu Âu cũng có nguy cơ trở thành "châu Á", như Nietzsche và Max Weber nhận định.

Trong ba loại quyền:  Vương quyền, Thần quyền và Trí quyền, thì Vương quyền ngày nay đã sụp đổ, Thần quyền không còn ảnh hưởng như một nghìn năm trước nữa, trong đó Trí quyền, mà đại học là sự tượng trưng, không ngừng ngày càng phát triển mạnh mẽ cho đến hôm nay."

xương cá biết nói (dành cho trẻ 6-10 tuổi)

"Sao bạn gối dài với sâu rộm lại giúp con hết sợ?

Út nằm trọn vào lòng mẹ và hỏi

???? Đấy là do tình yêu thương của con, lòng dũng cảm của con. Khi con yêu thương một người bạn, người bạn ấy sẽ giúp con vượt qua khó khăn và sợ hãi

???? Ô hay nhỉ, thế là không phải sợ ma nữa, mà là vì đã có những người bạn nhỏ giúp mình

???? Ông ma dưới giường ơi, ông làm người khác sợ, phải chăng vì ông không được yêu thương?"

cơ hội đổi đời

"Cuộc sống hiện đại không thiếu chất liệu của cái hài để cung cấp cho người viết. Đồng thời cuộc sống cũng cần được nghe tiếng cười bật lên từ việc bóc trần các loại mặt nạ.

Tiểu phẩm của Minh Phong (Đờ Mi Pho) đem lại cho ta tiếng cười hài hước nhẹ nhàng trước những tình huống mâu thuẫn trong sinh hoạt, nhưng cũng có khi toát lên màu sắc phê phán trong những trang văn châm biếm có tính trí tuệ. Cười, như vậy, không chỉ là một cách thư giãn, mà còn biểu hiện một kiểu nhận thức và một ý hướng chế nghệ cái xấu.

Đó cũng là tiếng cười mang tinh thần xây dựng, muốn góp phần cùng xã hội khắc phục những nguyên do làm nảy sinh ra những tình huống gây cười không đáng có.

Trong ý nghĩa đó, những tiểu phẩm trong tập này làm chứng cho cái thời chúng ta đang sống, thời có những người biết dùng tiếng cười để khẳng định lẽ phải.

anh thảo và cỏ dại (những bài học từ thiên nhiên)

Truyện dài thiếu nhi Anh Thảo và Cỏ Dại sẽ đưa các bé cùng phiêu lưu trên những miền đất của mẹ thiên nhiên. Câu chuyện được bắt đầu trong một vùng đất tưởng tượng: “Từ thuở xa xưa, xưa ơi là xưa, có một vùng đất thuộc phía Bắc Đông Nam Á, nằm gần eo biển Malacca tiếp giáp với bán  đảo Mã Lai và đảo Sumatra được gọi là xứ sở Thiên Đường Xanh Thiên Đường Xanh như một chiếc khiên khổng lồ, nằm lọt thỏm giữa vùng rừng núi trùng điệp, phần giữa trũng xuống, hai bên cong lên tạo thành hình vòng cung, nhìn từ trên cao sẽ thấy nơi này giống một cái phễu. Hai nhân vật chính là hai cô bé Anh Thảo và Cỏ Dại với những năng khiếu cá nhân thiên bẩm sẽ cùng nhau khám phá những điều mới lạ bên ngoài ngôi nhà của mình.

Như một điều hiển nhiên, thiên nhiên đã mang đến cho con người những gì thì cũng có thể lấy đi tất cả. Nhà sinh vật học Sylvia Earle có nói: “Phần còn lại của thế giới (thiên nhiên) có thể tiếp tục sống mà không có chúng ta, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu thiếu đi chúng”. Chúng ta hãy đối xử với thiên nhiên một cách có trách nhiệm vì một tương lai tốt đẹp hơn, các bạn nhé!

 Trích Thiên Đường Xanh:

Bên cửa sổ xuất hiện một cô bé khoảng mười một tuổi, nước da trắng như tuyết, mái tóc tết đuôi sam màu hạt dẻ đến ngang vai, đôi mắt em màu xanh trong veo như màu của nước biển, nom rất chi là thông minh, nhìn vào đó bạn sẽ ngạc nhiên như trông thấy được cả một đại dương mênh mông… Em là Anh Thảo – em được đặt tên theo một loài hoa mà mẹ em yêu thích. Anh Thảo được mệnh danh là hoa vương giả bởi vẻ đẹp quý phái, sang trọng. Loài hoa này còn tượng trưng cho sự duyên dáng, mạnh mẽ. Song, Anh Thảo lại là một cô bé mỏng manh, khéo léo và vô cùng đáng yêu. Cái đáng yêu của Anh Thảo hoàn toàn bẩm sinh, đặc biệt em có thể nói chuyện được với loài vật. Một khả năng kỳ lạ nhưng cũng mang đến cho Anh Thảo không ít phiền phức khi bố mẹ em không cho đó là điều đặc biệt. Trái lại, họ lo lắng khi thường xuyên bắt gặp con gái ngồi nói chuyện với đàn kiến, thậm chí cả những con sâu trong rất nhiều giờ liền.

Cư dân ở đây phân bố không đồng đều, họ sống rải rác trên các sườn đồi, chân núi trong khi mỗi gia đình lại cách nhau khá xa, đi hết nửa ngày nếu may mắn mới nhìn thấy một nóc nhà nên Anh Thảo chẳng có lấy một đứa trẻ để chơi cùng, vì vậy em chỉ còn biết làm bạn với loài vật. Đó là một điều thú vị mà không phải ai cũng có được.

 Trích Lời nguyền của nữ thần Trái Đất:

Em là Cỏ Dại, một cô bé mười hai tuổi nhưng nhỏ nhắn hơn so với những bạn cùng trang lứa, bù lại em rất nhanh nhẹn, khéo léo trong mọi việc và có thể đảm đương được gần như hầu hết những thứ mà một đứa con trai có thể làm như bắn cung, ném lao, phi tiêu đều rất cừ. Cỏ Dại có mái tóc ngắn màu vàng xoăn tít và xù lên trông như đuôi con công, phần đỉnh đầu màu đỏ quạch và nhạt dần cho đến đuôi tóc thì lại chuyển dần thành màu vàng. Em có đôi mắt rất sáng và tinh anh của loài báo. Quần áo em mặc được làm từ sợi cây đay. Da em cũng đen bóng, một màu đen huyền bí. Đúng như tên Cỏ Dại, em có sức sống và ý chí vươn lên mạnh mẽ. Trong lòng em luôn nung nấu một ý nghĩ điên rồ là phải tìm cách hóa giải lời nguyền cho quê hương mình và xin sự tha thứ từ vị nữ thần Trái Đất.

Khi phải chứng kiến tất cả những điều này, vị nữ thần Trái Đất đau đớn đến mức đã nhỏ những giọt lệ to tướng, chúng lăn dài trên má rồi rơi xuống đất tựa hồ những trận mưa đá dữ dội trút xuống, với độ cao và tốc lực mạnh đến nỗi đã tạo thành những hố sâu hun hút (mà sau này theo dân gian người ta gọi đó là những cái giếng hoặc hồ nhỏ). Khi quá trình chia cách hai nơi kết thúc, bà đã gieo một lời nguyền cho vùng đất phía Tây. Từ đây nơi này phải chịu sự soi chiếu vô cùng gay gắt từ Mặt Trời giống như một quả cầu lửa phả xuống hơi nóng, sự oi bức đến ngạt thở.

Những đợt nóng và tần suất cũng được gia tang thêm sau từng năm để con người ở nơi này luôn sống trong khổ sở vì nắng nóng, khô hạn. Sau đó vị nữ thần lui về cánh rừng sâu, bà ẩn mình tại một trang trại nhỏ, sống một cuộc đời buồn khổ và mang lòng oán hận loài người kể từ đó.

 Trích Lạc vào cánh đồng bồ công anh:

Trước mắt bọn trẻ là một cánh đồng hoa bồ công anh, những bông hoa trắng muốt giống như nàng công chúa mặc váy được gió thổi tung lên như những vũ công đang múa ba lê. Cánh đồng hoa được bao quanh bởi những hàng cây trắc bá diệp mọc san sát nhau, những cành cây như những cánh tay vươn dài ôm gọn cánh đồng hoa, như người mẹ vòng tay ôm đứa con nhỏ vào lòng.

Cỏ Dại lẫn Anh Thảo dường như không tin vào mắt mình, cảnh tượng trước mắt quá đỗi xinh đẹp, quá đỗi yên bình so với những gì chúng vừa bỏ lại phía sau lưng. Nơi đây như tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, như một khung cảnh mộng ảo chốn thần tiên.

Cỏ Dại, Anh Thảo cùng nhau tiếp tục đi sâu vào bên trong. Bồ công anh ở đây có thân khá cao, tầm nửa mét, những bông hoa cũng to tròn tương xứng với độ cao mà thân đạt tới, điều này khiến hai đứa trẻ thật sự thích thú. Chúng chạy nhảy, chơi đuổi bắt quanh cánh đồng, tiếng cười lảnh lót vang vọng đến tận trời cao.

ngõ nhà na (dành cho trẻ em từ 3 đến 8 tuổi)

Kho báu của nhà Tom và Ngõ nhà Na là hai tập truyện tranh thiếu nhi với sự kết hợp thú vị giữa tác giả Bùi Sao và họa sĩ Vy Rùa. Đây cũng chính là hai tác phẩm đầu tiên nằm trong Tủ sách trái tim dành cho thiếu thi do NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM vừa khởi động trở lại vào dịp cuối năm 2019.

* Tác giả Bùi Sao, đến từ hành tinh Tí hon. Vì yêu thích trẻ con nên thích viết mấy thứ con con.

* Họa sĩ Vy Rùa, đến từ hành tinh hoạt hình, yêu các bạn nhỏ xinh và thích vẽ mấy thứ lung linh.

 Kho báu của nhà Tom và Ngõ nhà Na sẽ kể cho bé nghe những chuyện thường ngày xảy ra xung quanh chúng ta từ chuyện trong nhà, chuyện ngoài ngõ, chuyện xóm giềng và những người bạn từ thuở nhỏ của bé. Nghe những câu nói, câu hỏi của trẻ con có vẻ ngô nghê nhưng đó là những bước đầu nhận biết và khám phá thế giới của bé đó, ba mẹ ạ!

Ngõ nhà Na thì bắt đầu câu chuyện với một ngõ phố rộn ràng và những ngôi nhà be bé.

Trong ngõ nhà Na, mọi ngôi nhà đều bé xíu xiu.

Vì ngõ nhỏ, nhà nhỏ nên mọi thứ cũng đều nho nhỏ.

À quên, còn có cả con mèo nho nhỏnữa chứ!

Và cả em bé xinh xinh của Na nữa.

.....

Ông nội chở Na đi học bằng chiếc xe đạp xinh xinh... tiếng chuông ring ring nghe vui tai lạ.

Nơi bé Na và gia đình cùng quây quần. Có hàng xóm tốt bụng thường chia sẻ quà bánh, có bạn đồng trang lứa rất vui…. Thế nhưng, một ngày nhà Na phải rời đi. Tâm trạng của bé Na sẽ  ra sao?

Tủ sách trái tim sẽ tiếp nối ở những tác phẩm tiếp theo, chúc ba mẹ và bé đọc truyện vui!

11
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

  • Giới Thiệu
  • Chính Sách Bảo Mật
  • Liên Hệ
  • Email: Taisachebook@gmail.com