Dạy Con Tài Chính - Teach Children How To Manage Money
Đây là bộ sách của hai tác giả Lê Thị Linh Trang (Tiến sĩ Tâm lý học) và Ngô Thị Thanh Tiên gồm 6 cuốn.
Mỗi cuốn sách gồm hai chủ đề khác nhau với hững chia sẻ thân tình của các thành viên trong gia đình khi thảo luận các vấn đề xoay quanh việc sử dụng tiền hợp lý.
Dạy Con Tài Chính - Teach Children How To Manage Money
Đây là bộ sách của hai tác giả Lê Thị Linh Trang (Tiến sĩ Tâm lý học) và Ngô Thị Thanh Tiên gồm 6 cuốn.
Mỗi cuốn sách gồm hai chủ đề khác nhau với hững chia sẻ thân tình của các thành viên trong gia đình khi thảo luận các vấn đề xoay quanh việc sử dụng tiền hợp lý.
Dạy Con Tài Chính - Teach Children How To Manage Money
Đây là bộ sách của hai tác giả Lê Thị Linh Trang (Tiến sĩ Tâm lý học) và Ngô Thị Thanh Tiên gồm 6 cuốn.
Mỗi cuốn sách gồm hai chủ đề khác nhau với hững chia sẻ thân tình của các thành viên trong gia đình khi thảo luận các vấn đề xoay quanh việc sử dụng tiền hợp lý.
Dạy Con Tài Chính - Teach Children How To Manage Money
Đây là bộ sách của hai tác giả Lê Thị Linh Trang (Tiến sĩ Tâm lý học) và Ngô Thị Thanh Tiên gồm 6 cuốn.
Mỗi cuốn sách gồm hai chủ đề khác nhau với hững chia sẻ thân tình của các thành viên trong gia đình khi thảo luận các vấn đề xoay quanh việc sử dụng tiền hợp lý.
Cô Bé Ngủ Trên Dây Điện
Truyện chia thành 4 phần chính: Chân dung cô bé, Những câu chuyện kỳ cục, Những bức hình và những câu chuyện, Ngủ trên dây điện. Mạch truyện đi từ bao quát đến cụ thể, ban đầu tác giả phác họa chân dung của “cô bé” qua lời kể của Linh Lan đến với 2 người bạn là Đông Cốt Si và Tiến Khui Lồng, chỉ là những lới đánh giá và cảm nhận sơ qua về một nhân vật bí ẩn – người được Linh Lan đặt cho cái biệt danh là “Cô bé kỳ khôi”.
Ngắn gọn phần chân dung cô bé sẽ mở ra cho người đọc nhiều thú vị, “cô bé” kia là ai? Cô “kỳ khôi” là như thế nào? Đây là điểm dẫn dắt cốt truyện đi vào nội dung chính của tác phẩm ở phần Những câu chuyện kỳ cục.
Nè Cô Bé, Đừng Ngồi Trên Cửa Sổ
Bạn có bao giờ nghe đến câu “Tình yêu sét đánh” chưa? Tôi chắc chắn là bạn đã được nghe ở đâu đó rồi, đúng không? Cũng hợp lý thôi vì chủ đề về tình yêu luôn được bàn tán rất nhiểu và ai rồi cũng sẽ trải qua ít nhất một lần trong đời. Đặc biệt, tình yêu ở lứa tuổi còn khoác chiếc áo trắng tinh khôi luôn là một chủ đề cuốn hút hơn cả. Bởi đó là tình yêu tuổi học trò mang dư vị của sự ngây ngô mới lớn, những rung động chớm nở đầu đời tinh khiết như những giọt sương sớm mai… Và hơn thế, rung động đó sẽ trở thành một phần ký ức không thể quên trong mỗi chúng ta. Tác phẩm Nè cô bé, đừng ngồi trên cửa sổ đêm đến một thế giới như thế.
Nói với một nhân vật tưởng tượng để nói với một tương lai hiện thực về cái chết của văn hóa, cái chết của tâm linh, cái chết của con người, cái chết của hành tinh này, tác giả hẳn sẽ nhận được đồng cảm tri âm bởi ông đã thắp lên một que diêm cho mỗi đêm buồn mất ngủ”.
(Nhà văn - Nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu)
“Nếu gọi đây là một giáo trình tổng hợp về nhân loại học như một “Bách khoa thư” về cuộc sống cũng không sai bởi mỗi lần trò chuyện của người cha với thiên thần nhỏ bé là một bài giảng bao chứa các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức học, xã hội học; thậm chí cả những vấn đề về chính trị học, kinh tế học của thế kỷ XX vắt qua hai thập niên đầu thế kỷ XXI như chiến tranh, toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng tin học… Tôi tin sau khi tác giả hoàn thiện bản thảo và được xuất bản, tác phẩm sẽ có chỗ đứng lâu bền, sang trọng trên kệ sách của mỗi gia đình như một “Bách khoa thư” về cuộc sống dành cho con cháu sau này”
Bộ sách có 2 quyển (quyển bài học , quyển bài tập) gồm những phần sau:
Phần một: Sơ lược về kiến thức chữ Hán, giúp người học hiểu rõ nguồn gốc chữ Hán từ đâu mà có? Bằng cách nào để tạo ra chữ? Cấu tạo chữ; quy tắc viết chữ; Cách xác định bộ thủ; Cách nhớ chữ Hán.
Cuốn sách của tập thể tác giả Lê Huy Khoa, Lê huy Phúc, Lee Youngsub (Chủ biên) và do cầu thủ Lương Xuân Trường hiệu đính, giới thiệu đến bạn đọc khoảng 2000 từ vựng bóng đá bằng tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Hàn
Quyển Thiền truyện được biên soạn dựa trên quyển One Hand Clapping – Zen Stories for All Ages. Nhằm giúp người học dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ, những cấu trúc câu phức tạp được đơn giản hóa, và từ vựng khó được thay thế bằng từ vựng đơn giản hơn. Người học có thể đọc một câu chuyện Thiền, tự mình dịch sang tiếng Việt và đối chiếu với phần dịch tham khảo. Người học cũng có thể kể lại câu chuyện theo ý mình hoặc theo một trật tự khác, đàm thoại với bạn học bằng tiếng Anh, nêu quan điểm phản biện của mình trong nhóm, rút ra bài học về nội tâm và cuộc sống hiện tại, vẽ tranh minh họa cho câu chuyện, sáng tạo những mẩu đàm thoại dựa theo nội dung câu chuyện.
Giấc mơ bay
Tác giả: Châu Hoài Thanh
Tên thật: Nguyễn Thị Thư
Sinh ngày: 10/10/1966
Quê quán: Vĩnh Linh - Quảng Trị
Hiện sống và làm việc ở Thành phố Vũng Tàu.
Giấc mơ bay
Trẻ nhỏ luôn hồn nhiên trong suy nghĩ lẫn hành động, và ngay cả trong giấc mơ thì vẫn không tồn tại thứ rào cản nào có thể làm mờ đi những tâm hồn thuần khiết ấy với ngập tràn tình yêu thương dành cho gia đình, bè bạn,…. cũng như những ước ao nhỏ bé mà đôi khi người lớn vô tình lướt qua giữa bộn bề lo toan cuộc sống.
Đến với tập truyện dài thiếu nhi "Giấc mơ bay" vừa được Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ phát hành nhằm phục vụ nhóm độc giả là các em học sinh độ tuổi từ 6 đến 12 trong dịp nghỉ Hè 2020, chúng ta sẽ có dịp đồng cảm với nhân vật chính là cậu bé trai nhà nghèo tên Hiếu và người bạn Gấu vốn được mệnh danh là cậu bé sung sướng qua những tình tiết, nội dung được tác giả Châu Hoài Thanh lật tả nhẹ nhàng, sâu lắng.
Nội dung thấm đẫm tình cảm của truyện cùng lối hành văn rất chân phương của tác giả vốn dĩ là một nhà giáo nữ, đôi khi cũng có thể khiến người lớn rơi nước mắt nếu có dịp đọc cùng bọn trẻ bởi trong thông điệp mà Giấc mơ bay muốn truyền tải "dưới ánh mắt con trẻ, sự hồn nhiên, khát khao vui đùa, học tập và kết giao hữu hảo, đã và đang dường như không tồn tại cái gọi là khoảng cách giàu nghèo, sang hèn,..." chính là những hàng rào cảm xúc cá nhân mà người lớn đã vô tình tạo ra.
Đó là việc Hiếu luôn nhủ lòng tuyệt đối không được dòm, không được đặt chân sang vỉa hè,, con phố của xóm nhà lầu đối diện cái dãy trọ đủ mọi thành phần mà cậu và mẹ đang sống. Hiếu sợ ma lá, bởi má và ông ngoại, đều có một ác cảm gì đó rất khó hiểu với những người được gọi là nhà giàu.
Bạn của Hiếu trong xóm, ban đầu chỉ là con Hiệp, thằng Huy... và rồi sau đó là sự xuất hiện của Gấu. Căn phòng thiên đường của Gấu, sự cởi mở của cậu bé với thằng bé đầu đường xó chợ như Hiếu, như nguồn sáng cho những vận hội, tư tưởng mới đơm chồi trong Hiếu.
Hiếu biết chữ, do ông nội của Gấu dạy, còn Gấu thì dạng dĩ hơn, hiểu hơn về cuộc sống ngoài kia bước tường của căn nhà to vật vã, và ước mơ của cả hai, xuất phát từ nhịp đập con tim nhân tạo của Gấu, từ sự chân phương mà Hiếu mang lại, từ nhận thức đại đồng Lá lành đùm lá rách, từ dạt dào tình mẫu tử,... là sự ra đời của dự án Ngôi Nhà Chung để những đứa trẻ, những mảnh đời nhỏ khó khăn, đứa mất cha đứa còn mẹ, không được đến trường vì phải phụ mẹ giúp ba mưu sinh,..
Chưa dừng lại ở đó, tác giả Châu Hoài Thanh đã uyển chuyển vào diễn tiến của tình bạn Hiếu - Gấu là những trang nhật ký của cô Ba Vẹo (mẹ Hiếu) và của cả Hiếu.
Những con chữ, những cảm xúc dằn nén trong tâm can, xen lẫn những dòng nước mắt, của sự giận sự thương và cả nỗi nhớ, tất cả mang đến cho người đọc một sự đồng cảm tuyệt đối như câu chuyện về Hiếu, và ba, về má được uyển chuyển hé lật, hấp dẫn đến khôn tả.
Những câu nói của Gấu, ở buổi ra mắt Ngôi Nhà Chung, khiến ai cũng ngấn lệ. Một ngôi nhà, để mọi đứa trẻ như Huy, Hiệp, Hiếu đều có cha có mẹ, được đi học, còn Bà Tư, chị Thiện Nhân, bà ngoại của cô bé Hiệp, cô Ba Vẹo (má Hiếu), chị Ba Sương từ nay không còn là hàng xóm khu trọ, mà trở thành những thành viên trong một gia đình,.. ngập tràn yêu thương.
Và, thật bất ngờ, ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của Gấu lại xuất phát từ một trái tim nhân tạo, và hơn bao giờ hết, qua tập truyện, mọi người chúng ta tự hào rằng, một trái tim, dù nhân tạo, vẫn là trái tim, vẫn đập từng nhịp, vẫn đồng điệu với thế giới này và phản ánh khách quan bản chất cốt lõi của con người, dù già dù trẻ, là tình yêu thương, là sự sẻ chia với bè bạn, gia đình và mọi người xung quanh.
Một truyện dài thiếu nhi, đáng đọc cho cả con trẻ lẫn chúng ta người lớn, dù có thể, chúng ta đang là ba mẹ của vài ba đứa trẻ trạc tuổi Hiếu, và Gấu.
Trích đoạn sách:
Điều thứ hai mà cô nghĩ tới là sẽ đốt ngay mảnh trăng màu huyết và tất cả những trang nhật ký của cô và thằng Hiếu. Cô sẽ tự mình kết thúc chuỗi ngày sống trong mơ hồ của hai thái cực và chính cô cũng sẽ giúp thằng Hiếu quên đi những giấc mơ ám ảnh. Hơn lúc nào hết, Hiếu và lũ trẻ rong đang khát khao tình yêu gia đình. Cô và những người lớn khác sẽ là người giúp lũ trẻ thực hiện niềm khát khao ấy bằng tất cả những gì tất cả những gì có thể.
Hôm nay là ngày sinh nhật con. Mười hai tuổi con mới có ý niệm về điều này. Bánh và nến con đã vẽ sẵn. Con sẽ cho nó thêm phần màu sắc, xanh và đỏ ba nhé. Lớp kem sẽ dày hơn bánh sinh nhật của Gấu. Chiếc bánh không quá lớn để ba phải mất nhiều tiền nhưng nó sẽ cũng không quá nhỏ để đủ phần con chia cho tụi bạn. Ba đốt nến đi. Con sẽ thổi và hát bài mừng sinh nhật. Những ngọn nến lung linh, tỏa sáng khắp gian phòng. Con Hiệp và thằng Huy rồi sẽ phát cuồng khi nhìn thấy điều này ba nhỉ. Ba bắt nhịp đi để con hát. Bài hát chạy dài theo thời gian. Con hay quên, không thuộc hết lời nhưng nhưng tình yêu mà ba dành cho con thì con không bao giờ quên được. Bàn tay ba xòe ra ấm áp. Ba ôm con vào lòng.
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Có bao giờ bạn tin vào định mệnh thông qua những con số? Số 7 đại diện cho một cuộc đời sung túc, vui vẻ, và lạc quan, số 8 là sự cầu toàn, cân bằng giữa cuộc sống hữu tình, và vô tình, số 9 là nhân quả, tình yêu, và niềm tin.
Xây Dựng Đảng - Nhìn Từ Các Vấn Đề Thực Tiễn
Tư tưởng về xây dựng Đảng là một trong những tư tưởng lớn trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng rất rộng, bao gồm nhiều nội dung khác nhau trên các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, tổ chức – cán bộ, đạo đức, … Trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, những chỉ dẫn quý báu của Hồ ChisMinh về xây dựng Đảng vẫn mang tính thời sự nóng hổi.
"Mỗi câu chuyện trong tập truyện ngắn "Kiếp Ba Khía", tác giả đều sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ Nam Bộ một cách dân dã, hài hước, thú vị qua những sự đời, sự người, sự vật...với tính cách riêng, bằng vốn sống tích lũy và sự am hiểu của mình.
Điều trân quý và thán phục, chính là tấm lòng tác giả dành cho quê hương Nam Bộ. Tự trong miền đất ấy ông viết ra yêu thương và đau khổ, sống và chết của con với người, của con với thiên nhiên - một thế giới vừa quen vừa lạ, vừa độc đáo vừa bất ngờ...chứ không vay mượn, đứng ngoài hoặc đứng trên mà viết.
Ở mỗi chuyện, khi kể về loài vật hay con người với giọng văn hóm hỉnh, nhưng có chiều sâu triết lý, Trần Bảo Định ít nhiều đã gửi tâm tình vào đó - khẽ khàng thôi cũng đủ làm người đọc xúc động và ray rứt về tình đất, tình người, tình muôn loài vật đang sống quanh quẩn cùng ta trong cõi nhân gian này"
(Nhà văn Bích Ngân)
Quán thủy thần (Tái bản lần 1 năm 2020)
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2019
Tác giả: Nguyễn Hải Yến
Nguyễn Hải Yến
Quê quán: Lam Sơn, Thanh Miện, Hải Dương.
Hiện là giáo viên trường THCS Thị trấn Gia Lộc, Gia Lộc, Hải Dương
Quán thủy thần
Không tình cờ, 10 truyện, 200 trang in “Quán Thủy Thần” của Yến, truyện nào cũng buồn, dù nỗi buồn có khi đến thắt ruột, có lúc lại sáng trưng, nhẹ thênh, trong vắt, thì mọi cung bậc buồn đau của các nhân vật của Yến, rốt cuộc, cũng dẫn về cái bi kịch của sự phát triển xã hội Việt, hôm qua, hôm nay. Và có lẽ còn dài dài về sau, như bài toán mà người Việt phải giải quyết về văn hóa và phát triển số phận dân tộc mình, trong sự tích hợp văn hóa toàn cầu đầy khốc liệt và phức tạp của thế kỷ 21.
Dường như muốn yên ủi, làm nhẹ bớt sự bi thảm, Yến cố tình đặt cho mỗi truyện ngắn buồn thương của mình một cái tên đẹp đẽ, lãng mạn, với gió, mưa, sương mờ, trời xanh mây trắng, rồi cỏ cây hoa lá: hoa đại đỏ, hoa mơ dại, hoa mẫu đơn trắng, hoa gạo đỏ, rồi giếng mắt rồng, đò giang sông nước, quán xá ven bờ v.v… Và bao trùm trên hết là những câu chuyện đời người đầy đau đớn, khốn cùng, khổ ải bởi chia ly, bởi nhầm lẫn, bởi tuyệt vọng và hy vọng. Và dường như, truyện của Yến còn vương vấn cả tiếng thở dài xót thương của thi hào Nguyễn Du, trong “Truyện Kiều”:
Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc phận cũng là lời chung. Dường như vì thế mà số kiếp của tất thảy nhân vật nữ trong hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Hải Yến đều không thoát khỏi kiếp lênh đênh trong bể khổ, khổ từ cái thai nhi con gái trong bụng mẹ (mẹ phải bỏ thai vì lần thứ ba vẫn sinh một bề con gái), cho đến người thiếu nữ bị xe cán chết trên đường về nhà, rồi đến người vợ bị bạc tình, bị đánh đập vũ phu, bị khinh rẻ, chà đạp, đến cả mẹ chồng, mẹ vợ là những bà lão… cũng không thoát khỏi kiếp lầm than. Nhưng may mắn thay, họ được là nhân vật truyện ngắn của
Nguyễn Hải Yến. Họ được người viết yêu chiều, nựng nịu, san sẻ, cảm thông, kể cả ghét bỏ vì quá tàn ác, bạc bẽo, thì cũng được người viết dành cho sự lý giải thông suốt và cho họ ân hận trong sự hồi tâm. Tất cả những chuyện đời đau khổ, quá ít sướng vui của họ được Yến kể lại bằng một giọng kể thật đôn hậu, ấm tình, từ một điểm nhìn riêng thiết tha thương cảm của Yến, nên Yến đã chọn được những tình huống truyện đắc địa, vừa xinh cho thông điệp muốn gửi gắm. Và xâu chuỗi được rất nhiều chi tiết văn xuôi có giá trị đắp nổi tính cách nhân vật.
Nguyễn Hải Yến quả là một tài năng quan sát đời sống thôn quê và đời sống thị thành không chỉ của vùng châu thổ Bắc Bộ, trong cơn cựa mình mạnh mẽ, tiến lên “công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa” của xã hội Việt Nam hiện đại…
…
Tôi thích những đoạn văn ấm, lênh láng và chi chít những chi tiết lạ, được xâu thành chuỗi óng ánh màu riêng truyện ngắn Nguyễn Hải Yến, như một đoạn văn, trong truyện hay nhất tập: “Quán Thủy Thần”. Sau đề từ đong đầy ý nghĩa khai mở: “Tháng ba ngủ trên triền sóng/ Khát hoa gạo lưng trời/ Xô bến cạn vỡ thành muôn mảnh/ Soi mảnh nào cũng thấy trùng khơi…”,
Yến viết ngay ở phần I, miêu tả ngôi làng có quán Thủy Thần: Từ làng tôi ra cửa sông phải đi qua một con đường đất gồ sống trâu xuyên cánh đồng, bốn mùa hun hút gió. Đến cuối đường, nếu quay đầu nhìn lại sẽ thấy làng mạc tan thành vệt xanh lơ, những hôm ẩm trời lẫn cả vào màu mây đang sà xuống lan như khói, sẽ thấy mình cô đơn đến ngộp thở giữa sắc màu đơn điệu không biết là đất hay là trời nếu như mắt không tìm thấy một điểm dừng – một cây cầu quán cũ, nền đất cao vượt hẳn lên, lặng thinh nằm bên gốc gạo già buông bóng sừng sững, mái ngói âm dương xô từng mảng, quanh năm gió đồng hút qua khe hở chiếc mõ dài hình con cá gỗ treo phía trong cột quá, nghe u u vang và lạnh như tiếng sáo thủy thần”.
Cách tác giả dẫn chuyện dễ thương này quả đã đạt đến giấc mơ mà tác giả mơ màng ngay trong đề từ “Quán Thủy Thần”: Soi mảnh nào cũng thấy trùng khơi…
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái
Nếu trẻ kêu lên được có lẽ chỉ kêu một tiếng: “Mẹ ơi con cần mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha…” (BS. Đỗ Hồng Ngọc. Lời ngỏ: “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”)
Ai chẳng có lần đầu tiên? Lần đầu đi xem phim, lần đầu xa cha mẹ, lần đầu biết yêu thương? Những cái lần đầu tiên như thế thật để lại trong ta bao nhiêu cảm xúc khó tả: vừa vui, vừa bỡ ngỡ, vừa lo sợ sẽ gặp phải sai sót nào đó. Với các bậc làm cha mẹ cũng vậy, đặc biệt là với các bà mẹ sinh con đầu lòng. Cái cảm giác đột nhiên trong mình mang một sinh linh bé nhỏ thật vô cùng thú vị không thể diễn tả nên lời; vừa hạnh phúc vì lần đầu được làm cha, làm mẹ; vừa lo lắng bởi cái lần đầu tiên này hoàn toàn khác với những lần đầu tiên mà họ đã trải qua. Làm mẹ là bản năng của người phụ nữ nhưng như thế không có nghĩa là họ sẽ không có sai sót gì. "VIẾT CHO CÁC BÀ MẸ SINH CON ĐẦU LÒNG" là món quà mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc muốn gửi đến những người làm cha, làm mẹ lần đầu tiên.
Được trải nghiệm làm cha mẹ có lẽ là điều tuyệt vời nhất trong cuộc đời mỗi người. Làm cha mẹ là một bước trưởng thành thực sự, trở thành "người lớn", cơ bản vượt qua cái tuổi bồng bột, bởi khi làm cha mẹ thì thêm nhiều trách nhiệm, thêm gánh nặng ắt phải tự điều chỉnh bản thân để sống tốt với vai trò mới.
Làm cha mẹ thì bắt đầu hiểu được nỗi nhọc nhằn, vất vả để nuôi lớn một đứa con, từ đó biết yêu thương, hiếu đễ với những người sinh ra mình hơn. Làm cha mẹ tự nhiên sinh ra những cảm xúc mới lạ, những cảm giác yêu thương chưa từng có, cũng sự quấn quýt, quý mến, nhớ nhung, khao kháưng hoàn toàn khác với các tình cảm khác.
Tôi đặt tên cho “Tệp tuyển” này là ĐỂ LÀM GÌ bởi vì trong lúc tập hợp một số các bài viết ngắn của mình dưới đây tôi luôn tự hỏi để làm gì, để làm gì… mà vẫn không sao trả lời được!
…………
Rồi một hôm, trong buổi “về thu xếp lại”, tôi gom góp một số bài tùy duyên, tùy hứng, tùy nghi, tùy hỷ … bấy lâu mình thích mà làm thành một “Tệp”, mà tôi gọi là Tạp bút như một món quà lưu niệm dành riêng đọc vui một mình, rồi biết đâu cũng có người đồng điệu, cũng nòi tình mà cùng sẻ chia trong chốn thân quen…
Không ngờ mà khi thu xếp, gom góp lai rai như vậy, tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc lại “nỗi cô đơn uy nghi” của Võ Hồng, “người ta ở bển” của Trần Vấn Lệ, “gọi chiều nước lên” của Trần Hoài Thư, và “lắm nỗi không đành” của Võ Tấn Khanh…
Rồi cũng không thể không cười một mình với “làm mới thơ”, với “vơ vẩn cùng Mây” với “hỏi không đáp, bèn…”
Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”…
Mít ướt. Nó vậy đó. Biết sao.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 2.2020)
Cuốn sách Thành phố Hồ Chí Minh - 45 năm hòa bình, hòa vui và phát triển (1975 - 2020) của hai tác giả PGS. TS. Hà Minh Hồng và PGS. TS. Trần Nam Tiến ghi lại chặng đường đầu tiên nhiều dấu ấn đó. Qua 7 chương sách dài hơn 300 trang, với việc tập hợp, mô tả, lý giải, phân tích quá trình xây dựng và phát triển Thành phố trên một số nhóm lĩnh vực chủ yếu: kinh tế, chính trị, xã hội, cơ sở hạ tầng, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng, giúp bạn Campuchia, đối ngoại và hội nhập; cuốn sách như một cuốn phim quay chậm, phác họa vừa tổng quan, vừa chi tiết về hành trình từng bước vươn lên của thành phố mang tên Bác kể từ những ngày đầu giải phóng với nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tìm cách tháo gỡ khó khăn, xoay xở để lo cơm ăn áo mặc cho nhân dân trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, tiên phong “phá rào” cơ chế, góp phần tạo những tiền đề cho công cuộc Đổi mới và đi đến phát triển hội nhập hôm nay, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đầu tàu kinh tế của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cửa ngõ phía Nam của cả nước. Đi kèm với những phân tích là các số liệu thống kê cụ thể cùng nhiều hình ảnh minh họa làm cho cuốn sách như kể được nhiều hơn, sinh động hơn về từng chặng đường phát triển của Thành phố.
Nhà thơ Hồ Thế Hà sinh ngày 10-6-1955 tại Tỉnh Bình Định, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Thừa Thiên Huế, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Song Tử, cầm tinh con (giáp) dê (Ất Mùi 1955). Hồ Thế Hà xếp hạng nổi tiếng thứ 76058 trên thế giới và thứ 862 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Nhà thơ Hồ Thế Hà quê ở Phù Cát, Bình Định. Ông có bút danh: Hồ Cát Hùng, Hồ Quý Yên.
Ông là Hội viên Hội nhà báo Việt Nam; Hội viên Hội nhà văn Việt Nam; Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Thừa Thiên - Huế; Uỷ viên Hội đồng nghệ thuật Hội LHVNNT Thừa Thiên-Huế.
Hiện ông là Giảng viên văn học Khoa Ngữ văn trường Đại học khoa học Huế.
Vì nghĩa vì tình (Tái bản lần 2 năm 2020)
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Vì nghĩa vì tình
(Tái bản lần 2 năm 2020)
* Người đàn ông mon men đi lại bàn thờ lấy chai rượu đưa lên coi rồi rót ra chén chung mà uống. Người đàn bà xếp ba tấm giấy bạc kỹ lưỡng rồi bỏ vô túi áo nhỏ. Thằng nhỏ nằm trên võng cứ khóc hoài. Người đàn bà bước lại bồng nó đem để trên ván, rồi nhìn coi thì thấy nó mặc quần áo luôn một cái may bằng lụa trắng có sọc xanh, cổ có viền ren. Mặt mày tay chân nó trắng nõn, tóc nó hớt bôm bê nên trước trán vắn mà hai bên với sau ót lại dài.
Người đàn ông uống hai ba chung rượu rồi trở lại ván vỗ đầu thằng nhỏ mà nói rằng: “Đừng có khóc nữa. Nín đi, rồi sáng tao mua bánh tao cho ăn”. Thằng nhỏ sợ nên mắt ngó dớn dác ngoài cửa rồi khóc thút thít mà kêu rằng: “má ơi, má!”.
Người đàn bà cười mà nói rằng: “Má đâu có mà kêu. Mày ở đây với tao, không được về má mày nữa đâu. Má mày là tao đây, còn người này là tía mày biết hôn. Từ hồi đó đến giờ tao mượn người ta nuôi mày bây giờ tao bắt về. Rày sắp lên ở với tía má đây”.
Thằng nhỏ khóc ré lên. Người đàn bà dỗ nó hết sức mà nó không chịu nín. Người đàn ông trợn mắt nộ nó, nó sợ nên thôi khóc, mà nó còn thút thít hoài. Người đàn bà dỗ hỏi nó tên gì, thì nó nói tên Hội, mà vì nó nói nhỏ quá, lại vừa khóc vừa nói, hai người nghe không rõ, nên tưởng nó tên Hồi.
Người đàn bà bồng nó lại võng nằm mà dỗ nó ngủ. Gà trong xóm gáy vang rân; thầy chùa ở đằng chùa Phật thức dậy công phu, dộng chuông boong boong. Người đàn ông nằm ngay trên ván một lát rồi ngủ khò, mà đứa nhỏ đưa trên võng một hồi rồi cũng ngủ.
Thằng nhỏ này tên là Chánh Hội, cha nó là Lý Chánh Tâm, còn mẹ nó là Thái Cẩm Vân. Khi mẹ nó sanh nó ra được ít tháng thì cha nó đi Tây mà học, để mẹ con nó ở nhà với bà nội.
Cha đi học năm năm, lấy bằng cấp Tú tài rồi trở về xứ, vừa bước vô thì gặp cô nó là Lý Tố Nga, vì việc chồng con bối rối nên tự vận mà chết. Cha nó chôn cất cô nó rồi, kế gặp nhiều cái bằng cớ đủ tin mẹ nó lấy trai, lấy một người ở tỉnh Cần Thơ, mà lại tưởng mẹ nó lấy người ấy mà sanh ra nó đó nữa.
Trong lúc tức giận sầu não, cha nó đánh mẹ nó, rồi lại muốn trả thù sâu hiểm, nên thừa dịp bắt đặng ăn trộm trong nhà, mới bồng nó mà giao cho ăn trộm, cho ăn trộm tiền bạc, muốn ăn trộm đem giấu nó cho biệt tích và tập luyện tánh nết nó thế nào đặng chừng khôn lớn nó trở nên một đứa du côn trộm cướp, làm như vậy là có muốn phạt mẹ nó phải sầu não lìa con, và phạt nó là cái dấu tích dâm bôn, là cái duyên cớ làm cho cha nó đau đớn, xấu hổ. Tại như vậy đó, nên nó lọt vào chốn này đây.
Còn người đàn ông với người đàn bà này là hai vợ chồng: chồng tên là Tư Cu, vợ tên Tư Tiền. Vợ chồng thuở nay không có con, có hai chục sào đất với một cái nhà tranh ở cuối xóm Chí Hòa. Tư Cu không làm ruộng, không làm rẫy, thường nói với người trong xóm rằng để đi làm mướn ăn khỏe hơn, nhưng mà ít thấy làm việc gì cho ai trong làng, duy ban ngày thì be be đi xuống miệt Sài Gòn dọ đường rồi ban đêm rình mò coi nhà nào ngủ mê thì đào hầm, khoét vách mà ăn trộm đồ.
*Trời xui khiến thiệt là kỳ. Chánh Hội lìa mẹ, cách mẹ đã lâu, mà bây giờ sum hiệp, nó trìu mến cũng như thuở nay ở chung một nhà. Nó nói chuyện với mẹ mà cũng nói với cha; nó chọc cho hai người phải nói chuyện với nhau, nó muốn cho hai người đều yêu thương nó, nó nói tía lia, nó tính tưng bừng, làm cho Cẩm Vân chừng ăn rồi thì hết giận chồng nữa được.
Trọng Quí muốn thừa dịp này mà làm cho vợ chồng Chánh Tâm hòa hiệp với nhau, nên biểu Chánh Tâm ra khách sạn lấy hành lý đem vô đây mà ở. Chánh Tâm sửa soạn đi, Chánh Hội đòi đi theo, nó lại biểu mẹ nó cũng đi nữa, đặng chỉ cái nhà lầu hồi trước đó cho nó coi. Cẩm Vân dục dặc không chịu đi, mà không muốn cho con đi, ngặt vì Chánh Hội đòi quá, nên nàng phải đội khăn mà đi với chồng con. Trọng Quí ngồi trước với sốp-phơ và Phùng Sanh, thằng Quì ngồi kề một bên còn hai vợ chồng Chánh Tâm với Chánh Hội thì ngồi phía sau.
Xe chạy đường Thuận Kiều, chừng đi ngang qua nhà lầu, thì Chánh Tâm chỉ mà nói với con rằng: “Đó, nhà của mình đó, con. Để ít bữa ba đuổi họ đi rồi ba dọn đồ về đó cho con ở với ba má”. Thằng Hồi gặc đầu và cười. Nó lại ngó thằng Quì và nói với cha nó rằng: “Nè, ba nuôi thằng Quì nữa, nghe hôn ba. Tôi có hứa với nó hễ tôi gặp ba má tôi biểu ba má nuôi luôn nó nữa”.Chánh Tâm gặc đầu, Chánh Hội cười. Nó lại day qua nắm tay má nó mà nói rằng: “Má biểu ba mua cho cái xe hơi cho tôi đi chơi nghe hôn má”. Cẩm Vân ngó Chánh Tâm mà cười. Chánh Tâm cũng cười và nói rằng: “Con muốn xe hơi, để chiều ba mua cho”. Chánh Hội khoái chí bèn với tay vỗ lưng thằng Quì mà hỏi rằng: “Sướng hôn mậy? Chiều nay tao có xe hơi”.
Ra tới khách sạn. Trọng Quí ở lại đó với Phùng Sanh và thằng Quì, còn để Chánh Tâm lấy hành lý đi với Chánh Hội vô Chợ Lớn mà thôi. Cẩm Vân không chịu, cứ theo nài nỉ phải đi hết vô trong nhà nàng mà nghỉ. Trọng Quí lấy làm vui mà thấy Cẩm Vân đã thuận với chồng rồi, chàng không dám trái ý nàng, nên kêu sốp-phơ biểu đi trả tiền phòng và đem hết hành lý xuống xe.
Khi sửa soạn đi, Chánh Tâm bèn nói rằng: “Trong lúc con tôi bị hoạn nạn thì nó nhờ thằng Quì bảo hộ. Công ơn của thằng Quì tôi không thề quên được. Tôi muốn đem nó về tôi nuôi cũng như con tôi vậy, ngặt vì không biết tía nó có ngăn trở hay không. Vậy sẵn dịp đây, tưởng nên đi lên Đất Hộ kiếm cặp rằng Hơn đặng tôi nói chuyện một chút”.
* Mất con lìa vợ gần sáu năm trường rồi, thình lình trong một buổi mà cha con tương phùng, vợ chồng hội hiệp; làm người ai gặp cái cảnh như vậy, dầu tánh tình trầm tịnh đến thế nào đi nữa cũng khó mà giấu cái mừng, cái vui trong lòng được. Chánh Tâm được sum hiệp với vợ con, tuy chàng không lộ cái vẻ mừng của chàng cho ai thấy, nhưng mà chàng cứ ngồi ngó vợ rồi ngó con mà cười hoài. Lâu lâu chàng ngoắt con lại gần rồi ôm mặt nó mà hun, hoặc chàng lại đứng một bên vợ mà coi vợ may áo cho con bận. Chàng hưởng thú hòa hiệp một cách êm ái vậy đó, ngưởi ngoài dòm vô ai cũng tưởng chàng không vui mừng cho lắm duy Cẩm Vân biết tánh ý chồng, nên nàng hiểu cái cử chỉ ấy là cử chỉ khoái lạc của chồng thuở nay.
Khóc thầm - Cha con nghĩa nặng
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Tác phẩm này gồm hai truyện như sau: Khóc thầm - Cha con nghĩa nặng
Trích đoạn Khóc thầm:
*Thu Hà gần chồng có mấy bữa thì thấy tánh ý chồng trái hẳn với tánh ý của cô. Hôm nay ngồi đàm luận việc công ích với nhau, lại thêm thấy khí phách của chồng không giống khí phách của cậu Tú tài đến nhà cô hồi tháng trước. Tuy cô buồn nhưng mà có Công Cẩn ở nhà, tối ngày cô theo nói chuyện chơi với em, nên sự buồn của cô còn có khuây lãng được chút đỉnh. Cách ít bữa sau, tới khai trường Công Cẩn đi học rồi, Thu Hà không còn người thân thiết mà hủ hỉ nữa, tự nhiên phải nói chuyện với chồng. Cô gần gũi chồng chừng nào, cô buồn duyên tủi phận chừng nấy. Vợ thì nắm chặt lòng thành thiệt, chồng thì chuốt ngót tiếng phỉnh phờ, vợ thì ăn một đọi nói một lời, chồng thì nói một đường tính một ngả. Vợ chồng dường ấy, làm sao mà gọi là loan phụng hòa minh.
Cô Thu Hà lấy làm bực bội trong lòng, nhưng mà cô không biết tỏ với ai được. Đã biết trong nhà có cha mẹ, mà nếu mình than thở với cha mẹ, thì làm cha mẹ buồn bực như mình nữa chớ không ích gì. Mà mình than thở làm chi? Mình than thở rồi sửa tánh ý chồng mình lại được hay sao mà than thở? Ôi thôi! mà hồng nhan bạc mạng, căn số vô duyên thì chịu, than thở làm chi.
* Cách ít ngày có trát tòa đòi Vĩnh Thái hầu, đặng tòa xử vụ tên Mau. Đến bữa đi hầu, Thu Hà đòi đi theo. Vĩnh Thái sợ vợ nghe những điều cáo gian trong đơn của chàng, rồi bất bình mà nói bậy giữa tòa thì mình có tội, nên chàng năn nỉ với vợ, xin vợ ở nhà, chàng lại hứa bướng rằng thế nào chàng cũng xin cho thằng Mau khỏi ở tù.
Thu Hà tuy khinh bỉ chồng, song không có lòng làm nhục chồng. Ban đầu cô muốn đi theo lên tòa đặng lóng tai nghe coi như chồng không thiệt tình, chồng còn khai gian mà hại thằng Mau, thì cô sẽ đối nại mà cứu nó. Mà rồi cô nghĩ hễ nín không được, cô nói ra thì còn gì chồng, dầu tòa không buộc chồng về tội đánh thằng Mau có thương tích và tội cáo gian cho nó đi nữa, thì chồng cũng mất thể diện với thiên hạ, cô là vợ mà cô khai tội ác của chồng trước mặt công chúng thì ai coi cô ra gì. Bởi cô nghĩ như vậy nên cô không đòi đi theo nữa.
Vĩnh Thái đi hầu đến trưa chàng mới về. Thu Hà nghe tiếng xe hơi vô sân, cô bước ra có ý muốn biết coi tòa có tha thằng Mau hay không. Vĩnh Thái thấy vợ thì cười ngỏn ngoẻn và nói rằng:
- Tôi xin hết sức mà không được. Tòa kêu án nó bốn tháng tù.
Thu Hà chau mày đáp rằng:
- Nó vô tội mà lập mưu hại được nó như vậy, coi mình độc ác là dường nào
- Tôi xin không được, tại tòa kêu án nó, chớ phải tại tôi hay sao?
- Dầu bữa nay mình có xin cho nó đi nữa, mình cũng không chuộc cái tội ác của mình được. Tôi sợ e mình không khỏi cái quả báo này đâu.
- Hứ, quả báo cái gì? Nó khinh khi tôi thì nó phải ở tù. Có vậy nó mới tởn.
- Nó dại nó nói bậy, thì mình đã đánh nó gần chết rồi, chưa vừa hay sao?
- Tôi không hiểu tại sao mà mình binh thằng Mau quá.
- Phải. Tôi binh thằng Mau. Tôi binh nó là vì nó vô tội. Duy có hạng nguời giả dối độc ác như mình đó thì mới không biết thương ai hết, cứ kiếm chuyện mà chặt đầu lột da người ta, biết hôn?
Vĩnh Thái rùn vai bỏ đi thay áo. Thu Hà ngó theo chồng, cô giận lung lắm.
Đến xế hai vợ chồng ông Hai Sửu dắt nhau ra kiếm Thu Hà mà khóc kể nỗi oan của con. Thu Hà đã động lòng mà lại bối rối, cô không biết liệu phương nào mà làm cho hai vợ chồng ông Hai Sửu bớt buồn, cô mới mở tủ lấy một trăm đồng bạc mà đưa cho và nói rằng:
- Việc đã lỡ rồi. Thôi, hai ông bà đừng có buồn, ở bốn tháng tù cũng không chết đâu mà sợ. Ai ngay ai gian có trời đất làm chứng cho. Vì nó ở với ba tôi nên nó mang hại đó. Vậy tôi cho ông bà một trăm đồng bạc mà thường bốn tháng tù đó.
Hai vợ chồng ông Hai Sửu lấy bạc đi về, mà cũng không hết khóc.
Trích đoạn Cha con nghĩa nặng:
* Trên trời vừng trăng tỏ rạng, trước sân sáng oắc như ban ngày. Trần Văn Sửu thấy thằng Tý ngồi chồm hổm dựa xó hè, gục mặt xuống đất. Anh ta bước lại hỏi: “Làm giống gì mà ngồi đó, con?”. Thằng Tý ngồi trơ trơ không trả lời. Anh ta kéo tay nó đứng dậy thì thấy mặt nó nước mắt chảy ướt dầm. Anh ta bèn hỏi nó rằng: “Sao con khóc vậy con? Con có đau bụng đau dạ gì hôn?”. Thằng Tý lắc đầu lia lịa, mà cũng không chịu nói tại sao nó khóc. Anh ta dắt nó trở vô nhà, biểu nó lên ván nằm ngủ, rồi anh ta cũng leo lên nằm một bên đó.
* Chừng Thị Lựu có nghén con Quyên, chị ta sanh sứa đòi cất nhà riêng mà ở. Trần Văn Sửu không bạc mà cất một cái nhà lá nhỏ ba căn, ở phía bên kia cầu, rồi vợ chồng dọn về mà ở.
Hương thị Tào thương con rể, muốn chúng nó ở chung hủ hỉ cho vui, mà Thị Lựu không biết nghĩ, đành bỏ cha mà ra tư ra riêng, làm cho Hương thị Tào phiền trong lòng, bởi vậy vợ chồng Trần Văn Sửu dọn về nhà mới, Hương thị Tào chẳng hề khi nào thèm bước chân tới cửa.
Trần Văn Sửu tánh thiệt thà hiền hậu, cứ lo củi lục làm ăn, không tranh hơn thua với ai hết. Còn Thị Lựu tánh bồng chành, bốc chách, cứ ăn no dạo xóm tối ngày, không lo giúp đỡ cho chồng mà cũng ít lo việc trong bếp. Đã vậy mà chị ta còn hỗn ẩu với chồng nữa, hễ chồng có nói động tới thì mắng chửi tưng bừng.
Vợ chồng tánh nết khác nhau như vậy mà ở với nhau được, ấy là vì Trần Văn Sửu mỗi việc mỗi nhịn luôn luôn, nhịn cho đến những việc vợ quấy mà cũng không dám nói. Thị Lựu thấy vậy lại càng thêm lừng, ở trong nhà muốn làm việc gì tự ý, đêm như ngày muốn đi đâu cũng tự do, nhứt là trong bốn năm sau đây, chị ta hay trang điểm, hay se sua, nhà thì nghèo mà không biết chị ta làm thế nào có quần áo mới mặc hoài, lại sắm tới vòng đồng, dây chuyền nữa.
Khi đẻ thằng Sung ra rồi, Trần Văn Sửu than với vợ không biết làm sao mướn ruộng cho được mà làm. Thị Lựu hứ một tiếng rồi nói rằng: “Khó dữ hôn! Anh Hương hào Hội hóa đất cho bà Hương quản Tồn cả ngàn công, như muốn làm thì ta nói với ảnh để cho ít chục công mà làm, chớ khó gì”. Trần Văn Sửu nghe vợ nói như vậy thì mừng nên xúi vợ đi hỏi đất liền. Thiệt quả Thị Lựu đi một buổi thì mướn được cho chồng ba chục công đất.
Từ đó đến sau, Trần Văn Sửu mới có ruộng mà làm, mỗi năm té chừng một trăm giạ lúa, vừa đủ cho vợ con ăn mà thôi, nên trong mấy tháng gặt rồi, phải đi làm thuê làm mướn, hoặc đắp đất, hoặc lợp nhà, hoặc chèo ghe, hoặc vác lúa mới có tiền mà mua sắm áo quần, xây xài với thiên hạ.
Mấy người chơn chất, từ miệt Giồng Ké xuống tới Phú Tiên ai thấy gia đạo của Trần Văn Sửu như vậy thì cũng cho là vô phước. Mà Trần Văn Sửu cứ an ổn lo làm ăn như thường, chẳng hề buồn rầu về nỗi vợ con mà cũng chẳng hề than phiền về sự cực khổ.
Biết thủ phận thì khỏi mệt trí, biết nhịn nhục thì được an thân. Ngặt vì người khôn ngoan dầu muốn cho lắm cũng khó làm được, bởi vậy cang thường hay tan rã, gia đình mới khuynh nguy.
Đại nghĩa diệt thân
(Tiểu thuyết lịch sử)
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Đại nghĩa diệt thân
(Tiểu thuyết lịch sử)
*Hồi tưởng lại năm xưa, chúng ta chẳng khỏi ngậm ngùi về nỗi thảm của tổ tiên ta, cách gần một trăm năm hồi trước, phải chịu cái cảnh thê lương nước mất nhà tan, sao dời vật đổi.
Trong lúc ấy trời Đồng Nhâm ở đất Gia Định rung rinh, cây cỏ héo sầu, sanh linh đồ than. Nhắc lại tình cảnh đó để truy niệm đau khổ của người trước, mà cũng đề phòng việc về sau, đặng suy cổ nghiệm kim rồi ung đúc tâm hồn mà giữ gìn non nước, làm như vậy tưởng không phải là làm việc vô ích.
Năm Tự Đức thứ 11, nhằm năm Mậu Ngọ 1858 nước Pháp lại cớ triều đình Việt Nam cấm đạo bèn phái Hải quân Trung tướng Rigault de Genouilly chỉ huy một đoàn thuyền qua đỗ bộ lên đánh hải khẩu Đà Nẵng (Tourane) có một tiểu đoàn binh Tây Ban Nha theo trợ lực. Giặc chiếm Đà Nẵng toan đánh vào đô thành Huế, nhưng gặp binh ta chống ngăn mạnh mẽ nên tiến không nổi.
Qua tháng Giêng năm sau là năm 1859, Trung tướng Rigault de Genouilly bèn đổi chiến lược để một tiểu đoàn ở lại giữ mấy đồn vùng Đà Nẵng, còn bao nhiêu binh thì chở xuống hết thuyền chiến đặng vào miền Nam định xâm chiếm đất Gia Định là vùng có tiếng phì nhiêu phong phú. Binh Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá những phần tàu đóng hai bên sông Đồng Nai, rồi tiến thẳng lên đánh thành Gia Định.
Quan hộ đốc giữ thành Gia Định là cụ Võ Duy Ninh vừa hay tin binh đội Pháp khai chiến thì cụ tức tốc đến các tỉnh kêu binh lên tiếp viện đặng chống với giặc. Viện binh đến chưa kịp còn quân lính trong thành đủ, song thiếu huấn luyện, thiếu tinh thần chiến đấu, bởi vừa không biết cách phòng thủ để cho giặc tự do vào đánh có hai ngày đoạt được thành. Cụ Võ Duy Ninh phải tự tử để cho toàn tiết nghĩa. Giặc tóm thâu tất cả súng đại bác, thuốc đạn bạc tiền và lúa gạo. Rất tiếc thay!
Trung tướng Rigault de Genouilly phân binh, để Trung tá Jauréguiberry ở lại giữ thành Gia Định, còn bao nhiêu binh thì trở ra Đà Nẵng đánh nữa. Cũng không thắng nổi binh ta, lại nhuốm bịnh. Pháp định sai Thiếu tướng Page qua thay thế cho Trung tướng Rigault de Genouilly về Pháp an dưỡng
Kế đó nước Pháp với nước Anh có việc bất hòa với Trung Hoa nên hai nước hội binh đi đánh tàu. Chánh phủ Pháp sai Trung tướng Charner chỉ huy một đoàn chiến thuyền qua Viễn Đông, lại dạy Thiếu tướng Page phải rút binh Đà Nẵng và Gia Định đi theo Trung tướng Charner đặng tiếp chiến.
* Bữa sau ghe ra biển. Ông Giám ngồi nhìn trời cao biển rộng, ông nghĩ cuộc đời như giấc mộng, không có chi thiệt, mà cũng không có chi bền. Núi non cao vọi mà nhiều khi cũng sụp đổ. Sông rạch nước đầy mà có khi cũng cạn khô. Quốc gia đương hung thạnh rồi cũng phải nguy vong. Chồng vợ cha con đương hiệp hòa rồi lại phải ly tán.
Trớ trêu thay!
* Qua canh một Chí Linh mới về tới. Chàng bước vô chào ông Nhiêu và mừng anh. Sáu Tại hỏi ăn cơm chiều rồi hay chưa. Linh nói ăn rồi. Chàng hỏi ông Bảy đã về nói việc cụ Thủ khoa thể nào.
Ông Nhiêu nói ông Bảy về hồi chiều, ông cho hay thiệt quả cụ Thủ khoa bị tàu Tây bắt chở đi hồi sớm mơi rồi. Ông có giáp mặt với hai người chèo ghe họ nói rõ như vậy, không còn nghi ngờ gì được nữa.Chí Linh ngồi buồn hiu.
Ông Nhiêu nói:
- Cha nghe như vậy từ hồi chiều đến giờ cha nản chí, hết muốn lo tính gì nữa. Chuyến này nó thộp được cụ, mà có thêm việc Cổ Chi nữa, thì nó có thả cụ nữa đâu mà mong.
- Con dai quá. Chớ chiều hôm qua con rước cụ với cha vô Cổ Chi coi nghĩa binh ta chiến đấu cho mát ruột, rồi con đưa qua phía bên kia rạch mà vô đồng ở đỡ một đêm, đợi êm rồi đi thì xong quá.
- Trận Cổ Chi con đại thắng phải hôn?
- Con cho mai phục trong ngoài hai lớp, đợi giặc lọt vô giữa rồi hai đầu đánh áp lại, đánh ngã rạp hết. Chúng nó không có thì giờ mà bắn một phát súng. Con lấy được cả thảy hai mươi hai cây súng, lại có đạn nhiều lắm.
- Cha cậy bà Ba đi dọ thám. Hồi chiều bà về nói bà gặp Tây vô đông lắm, kiếm đem thấy về. Bà núp bà coi thì thấy họ võng bốn người, còn khiêng tay mười bảy, cộng hai mươi mốt người. Vậy thì có một người quăng súng chạy khỏi nên con mới lượm được tới hai mươi hai cây. Cha tưởng bốn người võng đó bị thương chớ chưa chết.
- Chết hết cha à, không thế nào sống nổi. Tàn rồi con có cầm đèn con rọi mà coi. Rạp hết, không có một mạng nào cựa quậy. Có một điều làm con hết vui...
- Điều gì?
- Đốc Thành mang lon đội, bị nghĩa binh đâm đổ ruột máu chảy lai láng.
- Đồ bội phản, chết đáng kiếp. Ham chơi dao phải đứt tay chớ sao.
- Đốc Thành chết không nói gì, ngặt quá, không dè anh Hai Đạt cũng chết nữa.
- Có thằng Đạt đi trong đó hay sao?
- Thưa, có. Con có dè đâu. Chiều hôm qua con hỏi cha như gặp anh Đạt con làm sao. Con hỏi đó là hỏi không chắc có ảnh. Chừng rọi coi con phòng hờ, con mới ngó thấy. Con buồn quá. Con có lật con coi kỹ. Ảnh bị roi, chớ không phải bị mác hay chĩa. Lúc hỗn độn ai gặp đâu đánh đó, có biết ai đánh ảnh đâu mà nói.
- Ối! Ai đánh cũng được, cần biết người đánh làm chi. Phàm đánh giặc hễ gặp thì đâm, thì đánh; nếu mình vị tình dục dặc, thì chúng giết mình còn gì. Nhứt là nó có súng nếu con chậm trễ thì nó bắn chết.
- Thiệt con chỉ huy, chớ con không có đánh. Nếu con gặp anh Hai con, thì có lẽ con bắt sống để cứu mạng ảnh. Rủi quá, con không thấy ảnh, nên mới bị người ta hạ.
- Hôm qua con hỏi, cha có nói: “Đại nghĩa diệt thân”. Làm việc đại nghĩa không nên kể tình thân thích. Cụ Thủ Khoa, là bực đại Nho, cụ cũng cho lời cha nói đó là phải. Con không cần hối hận. Thằng Đạt theo giặc tức thì nó là giặc. Con không nỡ giết nó, chắc gì nó dung con. Huống chi nó là thằng bán nước hại dân. Nó chết sớm chừng nào càng đỡ khổ cho dân cho nước chừng nấy. Muốn cứu dân thì phải giết nó chớ sao.
- Cha giận ảnh không nghe lời cha, ảnh bỏ mà đi đường khác, nên cha nói như vậy. Nhưng bề nào ảnh cũng là máu thịt của cha.
Tuy không phải tay con giết ảnh chết, song con chỉ huy trận đánh tức thị con giết, bởi vậy con thắng mà con không vui.
- Cha đã từ thằng Đạt rồi. Cha không nhìn nhận nó là con nữa.
- Cha vì đại nghĩa nên cha dứt tính cha con được. Cha không trách con. Nhưng về ở bên Tịnh Giang xưa rày, con nhận thấy anh Hai Đạt đầu giặc, mẹ không trách ảnh, không trách mà lại yêu ảnh lắm. Chị Hai với vợ con cũng vẫn yêu ảnh như thường. Chuyện này đổ bể mẹ cùng vợ con phiền trách con, chắc là con không thể về ở bển nữa được.
- Con đừng lo. Thằng Đạt chết, cha lãnh trách nhiệm. Ai có trách thì trách cha đây.
Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Tác phẩm này gồm ba truyện như sau: Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Trích Thiệt giả giả thiệt
* Cô Phùng Xuân đương cảm xúc, không thể dằn lòng được nên cô mới thuật rõ tâm sự của cô cho bà Tư nghe, cô lại nói ngày cô mới lại tiệm ở may, cô thầy thuốc Cộn lại bận thử áo, người đó là vợ của người phụ bạc cô hồi trước. Bà Tư chưng hửng, ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Hèn chi bữa cô thầy thuốc Cộn bận thử áo cháu bợ ngợ, mà coi bộ thẹn thùa quá. Người đời nay phần nhiều họ không có tình nghĩa gì hết, miễn có tiền thì thôi. Thứ đờn ông vậy mà ra gì”.
* Cô cười mà nói rằng: “Nếu những lời ông nói đó mà thiệt có như vậy, thì cái quan niệm của ông về đạo vợ chồng kỳ cục quá. Phàm không chịu thì đừng cưới; còn nếu cưới thì phải ở trọn đời, chớ trước khi cưới mà ông đã lập tâm bỏ người ta, ông làm như vậy thì ông coi tiết giá của đờn bà rẻ quá”.
Ông thở ra mà đáp rằng:
- Tại tôi thương cô quá, nên tôi có kể gì là phải quấy.
- Ông thương tôi, sao từ ngày ông thi đậu rồi ông không bước chưn tới nhà mà thăm má tôi?
- Vừa về tới nhà thì cha mẹ ép cưới vợ bên Bạc Liêu. Tôi còn mặt mũi nào mà dám thấy mặt cô.Cô Phùng Xuân bỏ đi bắt ốc nữa, mà bây giờ mặt
cô buồn hiu.
Ông thầy thuốc Cộn, là người thông thạo tâm lý về ái tình, ông thấy cô buồn thì ông biết cô đã hết giận, ông bèn đi dan ra, để cho cô thong thả mà suy nghĩ.
Mấy cô đi trở lộn lại, song còn xa xa thì cô Huyện đã kêu hỏi cô Phùng Xuân bắt ốc được nhiều hay ít. Cô đáp rằng cô bắt được có ít con.
Ông Cộn sợ mấy cô đi tới rồi nói chuyện không được nữa, ông mới sáp lại gần mà nói nhỏ nhỏ rằng: “Cô Tư, bây giờ tôi nghĩ lại tôi nghe lời cha mẹ mà cưới vợ thiệt là tôi dại lắm. Bây giờ tôi mới hiểu tôi thấy cô làm vợ người khác thì không thế nào tôi chịu được. Tôi sẽ bỏ đứt vợ tôi. Tôi xin cô cho tôi biết coi tôi có nên nuôi cái hy vọng một ngày kia sẽ được sum hiệp một nhà với cô hay không? Xin cô đừng trả lời gấp. Cô suy nghĩ ít bữa rồi cô viết thơ cho tôi. Bao thơ cô đề tên tôi, gởi vô nhà thương Chợ Lớn thì tôi được. Miễn là cô nói “được” cho tôi sống với cái hy vọng ấy, dầu phải chờ bao lâu tôi cũng bền lòng mà chờ ”.
Cô Phùng Xuân ngó mấy chị em bạn ở xa xa rồi day qua ngó ông Cộn thì ông đứng nhìn cô, bộ buồn thảm mà quả quyết lắm. Cô thở dài một cái, ngó mông ra khơi, rưng rưng nước mắt, rồi bước chơn đi lại phía mấy chị em bạn kêu. Ông Cộn không dám đi theo, song ông đứng ngó cô và nói rằng: “Xin cô nhớ viết thơ trả lời, về đây tôi trông tin cô hàng ngày”.
* Rõ ràng tuy ông Cộn phụ bạc cô Phùng Xuân mà cưới vợ khác, song tình của cô vẫn còn thương ông như xưa. Ông Phán Thêm thấy vậy rồi nhớ lại hèn chi ngày ông nói mà cưới cô Phùng Xuân, thì cô đáp rằng tình cô đã cạn đã khô, cô sợ lấy chồng rồi cô không tròn đạo làm vợ.
Ông Phán bối rối, không biết bây giờ phải xử trí thế nào.
Có nên cắt nghĩa cho vợ hiểu ông Cộn là một tên bợm bải, lòng không ngay, tình không sạch, rồi khuyên vợ xa lánh ông hay không? Không nên. Ái tình chẳng bao giờ chịu dung nạp những lời cắt nghĩa. Mình chỉ chỗ xấu của ông Cộn thì sợ e vợ cho mình ghen mà nói xấu cho người ta, rồi chẳng những là không chịu cho ông Cộn xấu, mà lại còn chê mình hẹp hòi thấp thỏi nữa.
Có nên ngăn cấm, không cho vợ gần ông Cộn, đặng cho vợ khỏi lỗi đạo can thường hay không? Cũng không nên. Mình ngăn cấm bó buộc vợ, tuy ý mình muốn giữ gìn cho vợ khỏi lạc bước vào đường quấy, nhưng mà ai biết được hảo ý của mình, chi cho khỏi người ta nói, chồng già vợ trẻ sanh chứng ghen tuông, rồi vợ mình đã không thương mình mà lại còn oán mình nữa.
Có nên kiếm chỗ u nhàn thanh tịnh, cất nhà mà ở với vợ, đặng vợ chồng xa lánh mùi trần, khỏi nhiễm khói tục, riêng hưởng hạnh phúc gia đình chút đỉnh hay không? Cũng không nên. Vợ mình tuổi còn xuân xanh, chẳng khác nào một cái bông hường đương nở.
Nếu mình đem cái bông xinh đẹp ấy mà giấu kín một chỗ, để thưởng thức một mình, thì té ra mình vị kỷ quá, mình đã mang tội hẹp hòi, mà lại uổng cái bông xinh đẹp không ai được ngó thấy. Huống chi mình cưới vợ, mình đã có hứa với vợ rằng mình sẽ làm cho vợ vui vẻ trọn đời, có lẽ nào bây giờ mình quên lời hứa ấy, mình lo làm cho mình được vừa lòng, còn vợ thì ưu sầu khô héo.
Không được. Mình không nên phụ lời ước với vợ. Thế nào mình cũng phải lo làm cho được vợ vui vẻ, dầu sự vui vẻ của vợ phản chiếu ra sầu thảm cho mình đi nữa, mình cũng phải cam chịu. Cái tình của mình nó ở tại chỗ đó. Tình phải có khổ, có uất, thì mới sâu, mới cao. Mà bây giờ phải làm thế nào cho vợ được vui vẻ mà khỏi nhơ danh phạm nghĩa? Đó là một vấn đề ông Phán Thêm trưng ra đã mấy tuần lễ mà ông chưa giải quyết được.
Còn cô Phùng Xuân thì cô cũng cứ lờ đờ lững đững, cô cũng cứ buồn bực hoài, nhưng vì sự buồn bực của cô không có cửa ra, nên cô không biết đến chừng nào mới dứt được.
Trích Đóa hoa rừng
* Gần một tháng nay, hễ nói với Quế thì cậu Sáu xưng “tôi” và kêu Quế bằng “cô”. Hôm nay cậu đổi mà dung tiếng “qua” và tiếng “em”, hai tiếng ấy làm rung động cả tâm hồn Quế, nên Quế biến sắc trong lòng nghi, ngại, sợ, lo, lộn xộn. Quế quăng bó bẫy trên đám chồi, thủng thẳng ngồi xuống, ngồi chồm hổm trước mặt cậu Sáu. Cậu chong mắt nhìn Quế, nhìn mà không nói chi nữa hết.
* Cậu Sáu lặng thinh ngồi nhắm đóa hoa rừng một hồi, rồi cậu lắc đầu mà nói: “Chắc nay mai qua sẽ xa em; không biết xa rồi có gần lại được nữa hay không. Qua gặp em, trời xui khiến qua đem lòng thương em, qua thương như qua thương sự sống của qua vậy”.
“Khoảng đời của qua gần một tháng nay là khoảng đời vui vẻ, sung sướng, khỏe khoắn, an ổn nhứt, thuở nay qua chưa được biết. Qua muốn kéo khoảng đời nầy ra, cho thiệt dài, đặng luôn luôn sống một bên em, không thèm nhớ tới nhơn tình sự thế. Ngặt qua thiếu phước nên Phật Trời cho qua hưởng sung sướng một chút mà thôi không để qua hưởng lâu. Vậy trong giăng rừng Đường Long nầy đã quen mặt qua và bên cây dầu ngã đây chứng nhận lời qua, bữa nay qua nói cho em biết rằng dầu qua đi, song luôn luôn em ở trong tâm trí qua, chắc chắn không giây phút nào qua quên em được”.
Cậu Sáu không nói nữa. Quế liếc mặt dòm cậu thấy hai hàng nước mắt chảy dài xuống gò má cậu. Quế cũng khóc, đưa cánh tay quẹt nước mắt và thỏ thẻ hỏi: “Cậu đi đâu?”.
Cậu Sáu chau mày dụ dự rồi thở ra mà đáp: “Có biết đi đâu mà nói!”...
Quế nói tiếp: “Vậy mà tôi tưởng cậu về nhà chớ”.
Cậu Sáu ngó sững Quế, ngó chớ không nói nữa.
Quế thỏ thẻ: “Như cậu còn đi chơi nữa, thôi cậu nói với má tôi đặng dắt tôi theo nấu cơm cho cậu ăn”.
Cậu Sáu thở một hơi dài rồi lắc đầu đáp, đáp lớn: “Không được… Không thế được… Qua không nên làm khổ cho thân em”.
Cậu Sáu lấy cái khăn trắng trong túi áo ra với lau mặt cho Quế rồi cậu đứng dậy, nắm cánh tay Quế kéo đứng lên, và kéo vào nói: “Qua bậy lắm!…Nói làm chi cho em buồn… Qua ở đây, ở với em không đi đâu hết. Thôi em vui đi, đừng buồn nữa”.
Trích Một đời tài sắc:
* Hai người đều trẻ tuổi, bước đường đời còn dài. Những người theo phái vật chất thì họ đoán Thiện Ý bị song tình đưa đẩy rồi chàng sẽ theo đuổi làm cho Xuân Hương phải từ cửa Phật mà vào Động Tiên. Còn những người theo phái tinh thần thì họ đoán Thiện Ý tuy mang túi tình trịu trịu, song tình chàng cao thượng, nên không lẽ chàng dùng cái tình ấy mà đánh đổ cái tiết của chàng kính trọng đó bao giờ.
* Cô đương xần bần trong hoa viên, bỗng có chú thường xuyên ở nhà việc làng đem một tờ nhựt báo với một cái thơ lại giao cho cô. Cô cầm cái thơ mà coi ngoài bao, thấy đề tên cô, cô chắc là thơ của chị em bạn học gởi. Cô cám ơn chú thường xuyên rồi thủng thẳng trở vô nhà. Cô men men đi lại cái bàn viết đặng đọc thơ. Cô vừa ngồi lại thì thấy chơn dung của Hà Thiện Ý để trên bàn viết, cô liếc mắt ngó mà cười rồi thủng thẳng lấy cái dao rọc giấy mà rọc cái bao thơ cô mới được đó. Cô lấy cái thơ ra mà coi thì thơ như vầy:
Thạnh Hòa. Le 10 Aout 1933
Em Xuân Hương rất yêu dấu ôi!
“Mấy anh em học ở bên Tây, thấy má anh viết thơ cho anh, thường hay khen tài đức của em và khuyên anh ráng học cho thành danh, đặng chừng trở về xứ sánh duyên cùng em cho xứng đáng.
“Hồi nhỏ anh có giáp mặt em mấy lần mà không có nói chuyện gì với nhau. Từ khi anh đi Tây thì sẵn có tấm hình trong rương, hễ buồn thì anh lấy ra anh nhìn. Anh nhớ cái hình đó nung chí cho anh mới thành danh được.”
Hôm anh qua thăm chú thím, anh muốn tỏ lời tạ ơn em, song anh bợ ngợ không mở miệng được. Vì vậy nên anh phải viết bức thơ này mà bày tỏ cái tình của anh đối với em cho em biết và hứa chắc với em rằng anh sẽ hết lòng kính yêu bao bọc em trọn đời, cho tới chừng nào chết mới dứt”.
HÀ THIỆN Ý
Cô Xuân Hương đọc thơ rồi, cô xếp kỹ lưỡng mà bỏ vào túi. Cô với lấy cái hình của Thiện Ý trên bàn viết, cầm mà nhìn và miệng chúm chím cười.
* Hoàng Kiết móc túi lấy thuốc ra hút, coi bộ ngồi mết mà nói chuyện dần lân. Cô Xuân Hương bèn đứng dậy đi mở tủ lấy thuốc và hộp quẹt để trên bàn, rồi cô lại bàn viết mà đứng, không ngồi nữa. Hoàng Kiết hiểu ý chủ nhà muốn đuổi mình, nên chàng đứng dậy mà nói rằng: “Thôi, tôi xin kiếu cô tôi về. Để bữa nào có ông Hội đồng ở nhà rồi tôi sẽ qua ở nói chuyện chơi lâu”.
Hoàng Kiết từ cô rồi bước ra sân. Cô Xuân Hương đi theo ra đứng tại cửa giữa. Hoàng Kiết ngó quanh quất, thấy bên tay trái có mấy liếp hường trổ màu, mà bông nào cũng lớn thì day vô nói cô: “Cô trồng hường trổ bông đẹp quá. Xin cô cho phép tôi coi một chút. Tôi có tánh ái hoa, nên thấy hoa không thể đi được”. Chàng đi lại mấy liếp hường rờ rẫm từng bông, rồi lại day vô ngó cô Xuân Hương mà nói rằng:
- Yêu hoa thì phải để hoa trên nhành mà xem. Ngặt vì tôi không ở đây được mà xem, biết làm sao. Vậy xin cô cho phép tôi hái một bông đem về Rạch Giá làm kỷ niệm cái ngày tôi có phước mà được đến Cái Tắc.
Cô Xuân Hương gặc đầu mà thôi, chớ cô không đáp một tiếng chi hết.
Hoàng Kiết hái một cái bông hường trắng còn hàm tiếu, giắt tại túi trên áo, ngó cô Xuân Hương mà cười, rồi dở nón cúi đầu mà từ và bước lên xe.
Cô Xuân Hương trở vô, sắc mặt có vẻ buồn.
* Cô Xuân Hương nghe nói như vậy thì cô cười ngất. Ông Hội đồng tưởng nói ra cô buồn, chớ ông không dè nó cười, bởi vậy ông lấy làm lạ, ông ngó con trân trân. Cô Xuân Hương lập nghiêm lại, cô ngồi suy nghĩ một hồi rồi hỏi rằng: “Người ta nói như vậy mà coi ý bác Tổng thế nào?”.
Ông Hội đồng nín khe một lát rồi ông thở dài một cái rồi nói chậm rãi rằng: “Ý anh Tổng muốn ba làm sui với ông Huyện Trương Hà đặng cứu hết hai nhà”.
Cô Xuân Hương vùng đứng dậy hỏi lớn rằng: “Ba nói sao? Bác Tổng xúi ba gả con cho Trương Hoàng Kiết hay sao?”. Cô đứng nhìn cha trân trân. Ông Hội đồng day mặt nhìn chỗ khác.
Cô Xuân Hương gục gặc đầu và cười và nói rằng: “Mà cũng phải lắm. Nếu không làm như vậy thì có phương gì cứu hết được”. Cô thủng thẳng ngồi lại, nín khe mà suy nghĩ một hồi lâu rồi cô chậm rãi hỏi rằng:
- Bác Tổng muốn như vậy, còn ý ba thế nào, ba chịu hay không?
- Cái đó tự nơi con liệu. Con đành đâu thì ba gả đó không ép duyên con.
Cô Xuân Hương suy nghĩ một hồi nữa rồi cô nói rằng: “Việc này là việc quan hệ, con xin phép ba cho con suy nghĩ một đôi ngày rồi con sẽ trả lời”.
Ông Hội đồng biết con đau đớn trong lòng lắm, nên ông lặng thinh, không nói chi nữa.
Hai cha con vô nhà đóng cửa đi ngủ. Ông Hội đồng vô mùng nằm êm ru, nhưng mà ông không nhắm mắt được. Còn cô Xuân Hương cô vô phòng riêng của cô, cô đốt đèn để trên cái bàn nhỏ rồi cô ngồi ngó ngọn đèn, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Làm thân con gái thuở nay lo ăn học, quyết học cho nên danh, đặng trước đẹp mặt nở mày cho cha mẹ, sau lấy chồng đồng tâm đồng chí. Thuở nay ôm ấp cái hy vọng làm tròn ơn tròn thảo với kẻ có công sanh thành, giữ trọn nghĩa trọn tình với người cha mẹ đã chọn lựa.
Nay học đã nên danh rồi, chỉ còn cái căn duyên nữa, nếu căn duyên xuôi thuận, thì đường đời đấm ấm, tiền tình rực rỡ, vui vẻ biết chừng nào.
Nào dè, đời tài sắc là đời đắng cay, kiếp con người là kiếp thống khổ, nếu trọn tình thì phải mất hiếu, nếu trọn hiếu thì phải mất tình, biết liệu làm sao bây giờ? Quyết nắm chặt lời giao ước của cha mẹ hai bên, tuy Thiện Ý chưa có lễ gì, nhưng mà bấy lâu nay cha mẹ thường chỉ người đó là nói là chồng mình, thì bây giờ mình biết một người đó mà thôi, dầu thế nào mình cũng quyết kết bạn trăm năm với người đó, chớ mình không đành nơi nào khác.
Quyết như vậy thì mình trọn nghĩa trọn tình; cha chả mà quyết như vậy thì mình được phần mình, rồi hai cái gia đình đều toang hoang hết, mẹ mình buồn rầu chắc chết gấp, hai em mình không tiền mà học nữa, cha chồng mình nhục nhã ắt phải vô chùa mà tu.
Vui phận mình mà buồn nhiều người, vui làm sao cho đặng? Rõ ràng bên hiếu nặng hơn bên tình nhiều lắm. Thí một đời mình trả thảo cho cha mẹ, lại trả thảo luôn cho bên chồng nữa, thì còn dụ dự nổi gì. Huống chi cha chồng mình cũng muốn cậy mình thì thân mình phải vui mà thí, chớ sao lại buồn rầu.
Cái đời mình hữu dụng là nhờ có dịp này, chẳng nên bỏ qua cái dịp tốt ấy. Mình coi kinh Phật thường thấy câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc; tan tức là hiệp, hiệp tức là tan”.
Chắc kiếp này con tội lỗi nhiều, nên Phật Trời mới khiến căn duyên mình lỡ dở. Vậy kiếp này mình nên chịu khổ về nỗi “tan” đặng kiếp sau mình được hưởng cái “hiệp”.
Cô Xuân Hương suy nghĩ tới đó rồi trong lòng cô thơ thới, nước mắt hết chảy ra nữa. Cô dẹp đèn mà đi ngủ.
Sáng bữa sau, cô vui vẻ như thường, cha lấy làm kỳ, còn mẹ với hai em không dè trong nhà có việc biến. Tối lại, cô đợi trong nhà ngủ hết, cô mới thưa với cha rằng: “Thưa ba, việc ba tỏ với con hôm qua đó, con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con đành làm dâu ông Huyện Trương Hà. Vậy con xin ba trả lời hứa làm sui với người ta đi”.
Ông Hội đồng Nghiệp nhìn con, ông rưng rưng nước mắt mà nói rằng: “Ba biết con đau đớn lung lắm… Mà ba còn đau đớn nhiều hơn con nữa… Gia bần tri hiếu tử. Con trả ơn sanh thành nặng nề hơn người ta biết bao nhiêu!”
Elena Pucillo Truong là một trường hợp văn chương thú vị, một từ trường cuốn vào mình một vài chất nào đó của Ý và một vài chất của Việt.Chị là người Ý, sống ở Việt Nam, sống trong giao cảm với đất, nắng gió và người ở góc trời xa lạ mà thân thiết này, đơn sơ mà rắc rối này, bi cảm mà hay cười này.Đầy cảm hứng, chị cầm bút. Truyện ngắn và tản văn. Ở đâu cũng man mác một niềm giao cảm với Đời - như - một - hạnh - ngộ. Và Đông Tây hòa hợp vào một giai điệu tình yêu (Nhà văn Nhật Chiêu)
"Quyển sách được người đọc đón nhận bằng sự trìu mến và ngỡ ngàng. Trìu mến, trước tiên là do cách thể hiện nhẹ nhàng mà sâu lắng ở mỗi câu chuyện được kể, ở từng cảm xúc được ghi lại. Và ngỡ ngàng, bởi tác giả không chỉ là một tiến sĩ ngôn ngữ và văn học của Trường đại học Milano với trí tuệ và sự mẫn cảm của một người đàn bà phương Tây nồng hậu mà Elena còn là một cô dâu Việt (Nhà văn Bích Ngân)
Hạnh phúc nhiều lúc cũng đơn giản như từ nhà ra cánh đồng của người nông dân, từ trên núi xuống nương rẫy của đồng bào rẻo cao. Hạnh phúc sẵn có nhưng nhiều lúc tôi tìm những thứ nhầm tưởng sẽ mang lại hạnh phúc nhiều hơn nữa bằng ngã kiến và tình chấp trong nỗi hào nhoáng của danh vọng để rồi mang vác nặng nề khiến hành trình trở về nương cõi nhiệm mầu vốn là nguồn cội hạnh phúc vô biên của kiếp người trở nên xa vợi.
Ai cũng đi tìm quả hạnh phúc song phần nhiều đang thực hành sống với nhân khổ đau, bởi lẽ điều mầu nhiệm còn ẩn nơi vùng mờ tâm thức ta. Sự viết dẫu là chia sẻ chân lý không chừng cõng nghiệp nặng nề. Bởi ngôn ngữ vốn có sau hiện tượng để gọi tên sự vi diệu chứ ngôn ngữ không là sản phẩm có trước để chụp vào những huyền nhiệm cuộc sống. Mọi khái niệm và quy luật rút ra tuồng như chúng ta tạo cây cảnh và ngắm nghía qua lăng kính hẹp của vọng tâm. Ngôn ngữ luôn luôn được sản sinh vẫn bất lực trước sự biến hóa linh động của thiên nhiên, và quá trình dựng lập ngã chấp trong tôi luôn khởi từ việc nhốt hư không vào lâu đài ảo tưởng.
Nhụy Nguyên
--- Nếu bảo con người sống trên Trái đất, là chưa đúng. Trái đất cũng là một hành tinh lơ lửng giữa trời, nên con người cũng đang trụ giữa hư không, mới đúng. Con người thực chất đang lơ lửng giữa trời. Nghĩa là con người ở trên trời, chứ không phải dưới đất để bảo trời xa quá.
Người ta vẫn thắc mắc, ngày nay phi thuyền đã bay thấu trời xanh vẫn không thấy cõi Thánh và Niết bàn đâu cả. Thực tế chúng ta nhìn mặt trăng mặt trời to bằng quả bóng thì ngược lại, ở mặt trăng nhìn xuống trái đất cũng nhỏ như vậy. Nếu phi thuyền bay ra ngoài không gian thì trái đất chưa lớn bằng một hạt bụi. Con cá ở đại dương mênh mông, dĩ nhiên nó sẽ phán chuyện con người chỉ thở bằng không khí là hoang tưởng. Cũng như nhiều người khó thể tin cùng không gian ở trái đất lại “dung chứa” vô vàn cảnh giới khác nhau; các cảnh giới đan lồng, chồng lên nhau song cảnh giới này không phương hại cảnh giới khác. ---
--- Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích khai mở trí tuệ. Giới hạn của con người cần ở trong lễ nghĩa luân thường, tránh sa vào cái thấp hèn, vì nó là nghiệp dẫn khiến tâm không định; tâm không định sẽ không sanh trí tuệ, không sanh trí tuệ sẽ không soi chiếu trở lại thứ ánh sáng khiến người ta bước lên tầng thanh cao hưởng pháp vị diệu màu. ---
--- Vũ trụ vô biên, một khi ta đứng trên sự tung hô là lúc sắp “đội trần”. Ngôn ngữ thế gian khó thông huyền nghĩa thánh huấn. Ngay đến bình phẩm thế tục, ngôn ngữ cũng không bao hàm hết nghĩa. Cô đơn, từ này thiển nghĩ xuất phát từ phương Tây, lúc cái đích của con người là bước trên thảm nệm vinh hoa chứ không chịu đi trên lưỡi dao bén sự thật. Trong dòng phim kiếm hiệp có cụm từ “cao thủ cô đơn”.
Xét trên bình diện xã hội, đây là ưu điểm, nhược điểm là sự cô đơn ấy luôn đối diện với bế tắc, ngõ cụt. Một khi ai đó tiệm cận chân lý tối thượng chính là họ lội ngược dòng đời tìm bản lai diện mục, đối diện “cô đơn”. Nhưng sự cô đơn này dung chứa hỷ lạc. Lùi xa với dòng đời thấy trời cao biển rộng. Càng hỷ lạc càng cô đơn, càng cô đơn càng hỷ lạc, con đường phía trước càng mở ánh sáng.
Đời nhiều chuyện lạ, và dường như chỉ có những chuyện chưa xảy ra, chứ chẳng chuyện gì sẽ không xảy ra. Nhiều chuyện như thần thoại cổ tích song lại ứng hợp với khoa học và triết học đỉnh cao thời đại. ---
--- Có gì lạ khi nhân loại tìm thấy những thành phố chìm dưới đại dương. Một cơn đại hồng thủy có thể sẽ bóp méo trái đất, chỗ cao lún xuống chỗ trũng trồi lên.
Tôi và nhiều người đã đốt hết chín mươi phần trăm thời gian vô ngần quý giá để tạo nên những lâu đài cát. Công sức biển trời của con dã tràng trong một giây bị sóng nghiệp lực xóa sạch. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại góp phần tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ác chướng. Khoa học từng đo được mức độ biểu cảm nhạy bén của nước. Nếu ta hòa ái với nước, bức ảnh chụp nước kết tinh đẹp như hoa tuyết; nếu khinh khi sân hận, nước kết tinh xấu như một quả thối. Cơ thể người nước chiếm từ 50 - 70%, là “nói” lên điều gì? Tác phẩm Vạn vật của Vũ trụ Hồng trần của giáo sư Eddington đưa ra một kết luận: “Nếu chúng ta loại bỏ hết các khoảng trống không trong thân thể con người và góp lại những chánh điện tử và điện tử của con người làm thành một khối thì xác thân chỉ còn nhỏ bằng hạt bụi, phải dùng kính phóng đại mới vừa đủ thấy mà thôi”. Ngạc nhiên. Hiểu bản thể của nước, con người sẽ trân trọng mình hơn, yêu thương mình và yêu thương mọi người hơn. Chúng ta không bắt cái thân giả tạm này luôn bị tra tấn bởi bia rượu quá liều, không phải lơ ngơ trong các chất gây nghiện như ma túy cần sa. Yêu bản thân không phải tỉa tót, chăm chút tô son điểm phấn và không được phép ai vấy bẩn lên mình. Biết yêu bản thân là giữ tâm trong sạch, phụng hành điều thiện dẫu nhỏ như việc hại kiến dán. Thể tướng từ đó đẹp ra, thân giảm bệnh, trí tuệ khai; lấy phúc ấy tiếp tục hành thiện trong lặng lẽ, là mở ra một tương lai xán lạn.
Nhân gian như một giấc mộng lớn. Nhưng nhiều người từ mê lại tạo thêm nhiều cảnh mê. Tôn vinh xướng họa phần con, nhấn dìm phần người, tồn tại ngắn mà tích nghiệp vô biên không ra khỏi mê lộ của tâm. Tìm lại chân như trước nhất biết yêu người khác và mở rộng đến cả loài vật. Một đạo sư Ấn Độ trong tác phẩm rất ngắn nhưng quan trọng đã khuyên nhủ người đời: “Nếu người đó thật sự có điều xấu mà con nghĩ, thì con đang làm cho nó mạnh hơn và nuôi dưỡng tính xấu đó; và như vậy con đang làm cho bạn con trở nên xấu xa thay vì tốt lành hơn”. Nước biết được đáp án là công trình tiến bộ vĩ đại, tác giả là tiến sĩ Masaru Emoto, nhận xét: “Tâm của bạn tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ tốt; tâm của bạn không tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ không tốt”.
Vui mà tâm không thanh tịnh, thì lúc nỗi buồn ập tới cũng khiến ta ưu sầu, mất thăng bằng và, sụp đổ. Cho nên luyện tâm, trước hết phải bình lặng ở sự thành đạt hanh thông, bởi những điều đó khiến tâm kiêu mạn nổi lên xem trời bằng vung rồi chung quy hướng chúng ta vào đau khổ. Nếu ai lấy một triết gia, một nhà văn hay nhà gì đó lẫy lừng làm thần tượng, bất chấp đạo lý loay xoay cố vươn cho bằng họ để “đứng trên mọi người” âu chỉ là sự tụt hậu và đang nhún dây tư tưởng vào cõi vô tận. Tôi và bạn cùng hướng vào nội giới. Câu khắc trên ngưỡng cửa thánh điện Delphes: “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết vũ trụ và các vị Thượng đế”.
????“Trải qua bao đời nay, người bình dân miền sông nước Cửu Long sống chan hòa bên những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt. Đời sống thôn quê thật bình yên dưới những mái lá đơn sơ, ven những dòng sông, con rạch.
????Từ khi đứa trẻ được sinh ra, được cha mẹ nuôi nấng trưởng thành, rồi dựng vợ gả chồng, cất nhà ra riêng,… cho đến khi già yếu rồi ngày nào đó “theo ông theo bà” về với tổ tiên. Song hành với mỗi chặng đường đời ấy là những dấu ấn khó phai mờ: đó là những tục cúng đầy tháng, thôi nôi, coi vợ, ở rể, cất nhà, cúng cơm,...
???? Những nghi lễ gắn liền với phong tục, tập quán ấy, giờ đây, có những nét hiện còn gìn giữ, lưu truyền và cũng có nhiều điều dần phôi pha theo năm tháng.
????Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống, khó lòng mà cưỡng lại được, dù rằng những người hoài cổ sẽ cảm thấy luyến tiếc, hụt hẫng,...”.
"Văn bia là di sản văn hóa - lịch sử quý giá. Văn bia giúp chúng ta nhận biết được lịch sử, văn hóa vùng đất, cộng đồng người của một thời quá khứ. Trong thời gian qua, một số tỉnh, thành phố đã tổ chức sưu tầm, nghiên cứu văn bia của địa phương. Đó là việc làm có tính cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và và thực tiễn. Công trình nghiên cứu khoa học "Văn bia Hán Nôm Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cứu và giới thiệu" của tác giả Phạm Ngọc Hường là một đóng góp tích cực về việc sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm của Thành phố Hồ Chí Minh cũng như các địa phương trong cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện lưu giữ nhiều thể loại văn tự văn bia, tron đó văn bia Hán Nôm chiếm tỷ lệ lớn, nên tác giả công trình đã tập trung vào việc khảo cứu các văn bia Hán Nôm của Thành phố
Công trình "Văn bia Hán Nôm Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cứu và giới thiệu" có nội dung khá phong phú. Không chỉ đề cập đến các dữ liệu văn hóa, lịch sử địa phương mà còn gợi mở nhiều suy nghĩ rộng hơn về con người và vùng đất phương Nam trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là một tụ điểm lớn. Công trình đã góp phần định hướng cho việc nghiên cứu văn bia nhằm để hiểu hơn quá khứ, từ đó tìm thấy những bài học, kinh nghiệm cho cuộc sống hiện tại và hướng tới tương lai".
Tác giả Tôn Thất Thọ xuất thân là một nhà giáo, nguyên là Hiệu trưởng trường Trung học sơ sở ở Bình Phước, anh còn có bút danh Tôn Châu Quân, cộng tác viên th ường xuyên của tạp chí Xưa và Nay trong hơn mười năm qua. Tính đến nay, số bài viết của anh trên tạp chí đã vượt qua con số 100. Hầu hết các bài viết đều ngắn gọn, nhưng súc tích, chứa đựng nhiều nội dung có tính gợi mở, cũng như chứng minh làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử.
Viết về đề tài lịch sử của các triều đại không thể không quan tâm đến giai thoại lịch sử. Bởi trong quá khứ và kể cả hiện tại, có những giai thoại lịch sử đã vô tình trở thành sự kiện lịch sử. Nhiều giai thoại được lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ đó, được mọi người nhắc đi nhắc lại trên nhiều lĩnh vực, và đến một lúc nào đó, được các nhà nghiên cứu ghi chép lại, thế là giai thoại đã trở thành sự kiện, mặc dù các nội dung đó không dựa trên một chứng cứ khoa học, hoặc tư liệu lịch sử nào. Các giai thoại như “Câu chuyện lá cờ khăn gói”, “Cây đèn treo ngược”, “Vua quan triều Nguyễn cho than đá là quái vật”,… cũng như một số ghi chép liên quan đến Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Phan Đình Phùng… đều nằm trong thực trạng đó. Với nguồn tài liệu phong phú từ tủ sách gia đình, cũng như sự hỗ trợ của nhiều nhà nghiên cứu, biên khảo, bạn bè,… tác giả đã tập hợp, kết nối nhiều nguồn tư liệu khác nhau, và bằng phương pháp tư duy khoa học theo đặc trưng bộ môn, người viết đã chứng minh và trả lại sự thật trong nhiều trường hợp thường được gọi là giai thoại lịch sử.
Cũng từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, và bằng cái nhìn khách quan, tác giả đã giúp người đọc đánh giá lại công trạng của nhiều nhân vật lịch sử nhà Nguyễn như Thượng thư Tôn Thất Hiệp, người đắp Đại đồn Chí Hòa đầu tiên khi quân Pháp xâm chiếm Gia Định, và một số nhân vật lịch sử khác mà trong một thời gian dài, do thiếu tài liệu nên sự đánh giá, nhận xét ít nhiều sai lạc. Những bài viết liên quan đến các nhân vật như Trần Văn Kỷ đầu đời Gia Long, Đốc học Định Tường Phan Hiển Đạo, Phan Tòng thời kháng Pháp,… đã được đông đảo bạn đọc quan tâm và ghi nhận.
Bên cạnh các bài viết về các nhân vật lịch sử, một số vấn đề về địa danh các địa phương cũng đã được tác giả lý giải dựa trên nhiều nguồn tư liệu, để từ đó người đọc rút ra những nhận định của mình.
Theo dòng triều Nguyễn không hoàn toàn là một công trình nghiên cứu, mà chỉ tập hợp các bài viết đã đăng trên tạp chí Xưa và Nay với những câu chuyện lịch sử riêng lẻ. Tuy nhiên nội dung của nó cũng góp phần cung cấp các sự kiện lịch sử dưới góc nhìn khách quan, công bằng và khoa học.
Hy vọng sách sẽ cung cấp nhiều kiến thức lịch sử bổ ích, góp phần phổ biến kiến thức lịch sử đến nhiều đối tượng bạn đọc.
Trân trọng giới thiệu!
NGUYỄN HẠNH
Văn hóa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức - một cách hữu thức cũng như vô thức - của các cá nhân và các cộng đồng. Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động tạo trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Vì vậy văn hóa nhất định sẽ ghi dấu ấn của mình lên hoạt động kinh tế của con người và xác định những mặt mạnh mặt yếu riêng của các quá trình sản xuất trong một xã hội.
Đó là những điều rút ra từ các kinh nghiệm tiêu cực lẫn tích cực của mọi nước. Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định xẩy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế và văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động cơ và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa...
Từ nay trở đi, văn hóa cần coi mình là một nguồn gốc cổ xúy trực tiếp cho phát triển, và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội"
"Dấu ấn khơi dòng văn hóa Việt" viết về những danh nhân đã có công dựng xây và bồi đắp nền văn hóa của dân tộc Việt Nam từ thời dựng nước cho tới những năm cuối thế kỷ XIX, đó là các vua Hùng, bốn vị "tứ bất tử", ông tổ các ngành nghề, là những người có công khai mở nền âm nhạc, hội họa, điện ảnh, thơ ca... hiện đại.
Cuốn sách gồm 5 chương:
Chương 1: Vua Hùng và Tứ Bất Tử
Chương 2: Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam
Chương 3: Những danh tài sáng tạo tiên phon
Chương 4: Vài cột mốc khơi dòng nghệ thuật hiện đại
Trời có trăng, và những vì sao đã ló dạng, nhưng tôi thích nhất là dò dẫm xuống trong bóng tối. Ở đó cũng kín đáo hơn. Giờ đây, mặt đất và không khí có vẻ yên tĩnh làm sao!
Khí lạnh đang ùa tới, có sương muối trên mặt đất, thỉnh thoảng một cọng cỏ kêu xào xạc, một con chuột kêu ré lên, một con quạ bay vọt lên những đỉnh cây, rối tất cả lại trở nên yên tĩnh. Có mái tóc nào vàng như tóc của nàng không?
Chắc chắn là không. Nàng bẩm sinh là một sự diệu kỳ, từ đầu tới chân, đôi môi nàng là một thứ đáng yêu chín mọng, và trò chơi của những chú chuồn chuồn trong mái tóc của nàng.
Giá mà người ta có thể rút ra từ trong túi xách một cái vương miện và trao nó cho nàng. Tôi sẽ tìm một cái vỏ sò hồng ở đâu đó và khắc nó thành một cái móng tay, và tặng nàng cái tẩu để nàng trao cho chồng nàng làm quà...vâng."
“Dường như trục thời gian vừa bị đảo ngược và không phải Hoàng Cúc đang đứng nhìn những người mới tới mà cô đang sống lại cái hôm đầu tiên gia đình cô tới đây. Từng phút, từng phút, những sự việc cứ lặp lại theo đúng diễn tiến cũ.
Điều khác biệt duy nhất đó là cô có thể quan sát mọi chuyện từ một góc nhìn toàn cảnh, quan sát cả chính mình và bố mẹ.
Hoàng Cúc thấy mọi thứ không còn cái vẻ kinh khủng nữa. Và nếu có ai đó trong số những gương mặt lo âu xung quanh hỏi Hoàng Cúc “Tôi biết phải làm gì bây giờ?” thì cô sẽ trả lời rằng “Hãy bình tĩnh! Mọi việc không tồi tệ như chúng ta nghĩ!”.
Phải chăng, chỉ cần có độ lùi của thời gian và cái thứ có tên “trải nghiệm”, con người ta có thể sẽ nhìn sự việc bằng một con mắt hoàn toàn khác? Khi ấy, những gì được gọi là “bi-kịch”, là “không-thể-tưởng-tượng-nổi” bỗng chốc trở nên một chuyện tầm phào?”
"Câu chuyện này không hẳn thật mới, nhưng tại sao lại cuốn hút? Phải chăng tác giả đã biết chọn những trường đoạn, những chi tiết dắt nhất - phục chế được đời sống thị dân ở khu phố nghèo, đến miền Trung gió cát, nhà tù Côn Đảo...cùng những trận đánh đã đi vào trang sử, được kể với giọng điệu và ngôn ngữ văn chương.
Những nhân vật trong "Nụ cười chim sắt" lần lượt hiện lên, tạo ấn tượng cho người đọc. Số phận họ được thể hiện không chỉ bằng lòng quả cam, xả thân cho nghiệp lớn mà còn mang tính cách dung dị trong đời sống thường nhật lúc bấy giờ. Có thể nói rằng, khi nhà văn có tài phản ánh hiện thực, sẽ có tác phẩm hay"
(Nhà văn - Đại tá Nguyễn Quốc Trung)
Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết là những liên tưởng thú vị, cảm nhận tinh tế, cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp ở những nơi mà tác giả có dịp đặt chân đến trên bước đường “lãng du” của mình. Đó là Hy Lạp với thánh địa Delphi dìu dặt giữa mộng và thực, đó là Pháp với dòng sông Seine chảy trôi dưới cầu Mirabeau, vũ điệu Flamenco ở Barcelona, đến lăng mộ TJ Mahal nổi tiếng ở Ấn Độ, Hoa Thanh Trì với bức tượng Dương Quý Phi đẹp ngọc ngà, tháp Đại Nhạn ghi dấu công lao dịch kinh Phật của Đường Tam Tạng, hoa anh đào rộ nở trên đất Nhật Bản…
Đó còn là tình cảm sâu sắc, đậm đà với đất nước qua những lần ra Hà Nội viếng Văn Miếu Quốc Tử Giám, qua những dòng sông cây cầu trên khắp mọi miền Tổ quốc… Đọc cuốn sách, ta như được phiêu lưu khắp thế giới, như được tận mắt chứng kiến cũng như có những am hiểu về lịch sử và quá trình hình thành của nhiều danh lam thắng cảnh, hiểu được cuộc đời của các bậc vĩ nhân.
Có câu ví “Hãy cho bền chí câu cua, Dầu ai câu chạch câu rùa mặc ai!”. Và nghề “câu cua” của tôi là thu mót từ tập sách, cuốn sách bày bán bên lề, và “câu cua” cũng là lối viết bên lề tờ sách.
… Đọc sách cho nhiều nhưng đọc rồi quên hết thì bổ ích vào đâu và bổ ích cho ai? Sách dạy khôn, đọc lắm cũng nhàm. Biết mà không trao lại người khác thì cái hiểu biết kia chẳng hóa ra vô dụng? Vậy xin ghi thêm mấy hàng nầy. Là của riêng thâu lượm bấy lâu nay, cũng thuộc loại bên lề sách cũ
Tôi đã 92 tuổi đầu, chỉ chờ ngày xuống lỗ và đã hết ham vừa danh vừa lợi,…nay tôi lại quyết viết mươi trang cà kê cho được hả hơi, vả lại tôi đã hết thời giờ tra cứu tài liệu cũ, vậy tôi xin người đọc hiểu cho tôi, đây là tôi thố lộ tất cả chân tình, tôi tỏ bày riêng cái nghe thấy cạn hẹp của một tên may thời còn sót lại và đã được mớ người trẻ và người cao kiến muốn biết chút lòng kẻ sống dai nầy thôi.
Vương Hồng Sển
LỜI NÓI ĐẦU
Con Cóc là cậu ông Trời
Hễ ai đánh nó thì Trời đánh cho.
Mỗi khi Cóc nghiến răng thì Trời sắp đổ mưa to. Trong sự đơn giản nhất, con người đã tìm ra cách lý giải các hiện tượng tự nhiên vô cùng phong phú qua những thông điệp đẹp đẽ được gợi lên từ cổ tích. Những cổ tích từngàn xưa đó được tái hiện sinh động qua những gì tinh tế nhất, chọn lọc nhất trong Tuyển tập Truyện cổ tích do Nguyễn Hướng Dương (nguyên Giám đốc Thư viện sách nói dành cho người khiếm thị) biên soạn. Nguyễn Hướng Dương (1971 - 2018), bị liệt cả đôi chân năm chị hai mươi lăm tuổi do tai nạn giao thông. Lúc còn sống, chị từng thu âm các băng đĩa sách nói để trao tặng cho người khiếm thị với 450.000 băng casstte và CD trong chương trình sách nói mà thư viện của chị thực hiện. Ngoài ra, chị còn là người sáng lập nhiều chương trình quỹ từ thiện nâng đỡ, thắp sáng niềm tin cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Với tâm huyết và nghị lực lớn lao để tạo nên những giá trị có ích cho cuộc đời, Nguyễn Hướng Dương thiết tha mong muốn mang đến cho thiếu nhi những câu chuyện cổ tích được trình bày bằng lối văn phong và ngôn từ trong sáng, dễ hiểu, không có những tình tiết mâu thuẫn giữa cái thiện - cái ác... Chị đã âm thầm tập hợp, biên soạn lại từng câu chuyện.
Sau khi chị mất, bản thảo được gia đình chị trao tặng cho Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ khai thác và xuất bản.
Tuyển tập Truyện cổ tích tổng hợp khá phổ quát những câu chuyện thuộc đa thể loại như: cổ tích, truyền thuyết, dân gian, ngụ ngôn... của Việt Nam và các nước trên thế giới. Các truyện được sắp xếp theo thứ tự tên truyện từ A đến Z để thuận tiện cho bạn đọc tra cứu. Lối kể chuyện tự nhiên, gần gũi, tình tiết thú vị, hợp tình hợp lý. Mỗi câu chuyện là mỗi sắc thái đời sống, mỗi bài học luân lý cương thường khác nhau nhưng tất cả đều ẩn chứa những quy luật sống của vạn vật, quy luật nhân - quả. Những câu chuyện cổ tích như những giấc mơ, những cuộc phiêu lưu, những ước nguyện đẹp được dân gian mãi lưu truyền cho đến nay. Đó là món quà quý giá nhất mà nhân loại đã gửi gắm đến chúng ta. Không có niềm tin vào điều kỳ diệu và sự công bằng, luân lý trong càn khôn trời đất, làm sao con người có thêm sức mạnh để vượt qua những mất mát, tai ương mà sống tốt, sống đẹp?
Nếu cổ tích là những giấc mơ, thì Tuyển tập Truyện cổ tích chính là giấc mơ, tâm nguyện của Nguyễn Hướng Dương vẫn còn tiếp diễn mãi, luân chuyển mãi với đời như vầng dương rạng rỡ và ấm áp.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - VĂN NGHỆ
Trích Con mối làm chứng:
Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia sống rất nghèo khổ. Họ có một đứa con trai khoảng chín mười tuổi nhưng thông minh lanh lợi hơn người. Một năm nọ, mùa màng thất bát, cả nhà lâm vào cảnh đói kém, hai vợ chồng phải đi vay nhà cụ Bá cả vốn lẫn lời lên tới ba mươi quan tiền. Hạn vay đã hết mà họ vẫn không có đủ tiền để trả. Chủ nợ mấy lần cho người đến đòi, hai vợ chồng lần nào cũng van nài xin khất, chừng nào gom đủ tiền sẽ trả.
Một hôm, đích thân cụ Bá tới nhà thúc nợ. Tới nơi,
thấy đứa bé đang ngồi chơi một mình ngoài sân, lão hỏi:
- Ê, thằng nhỏ kia, cha mẹ mày đâu? Bộ tính quỵt
nợ của tao luôn hả? Tao nói cho mà biết, không thoát khỏi
tay tao đâu.
- Thưa ông, cha mẹ con không có nhà.
- Cha mẹ mày đi đâu, hả?
- Dạ, cha con đi chém cây sống, trồng cây chết; mẹ con đi bán gió mua que.
- Hả? Mày nói cái gì? Mày nói cha mày chém cái gì? Trồng cái gì?
- Chém cây sống, trồng cây chết.
- Vậy nghĩa là làm sao? Còn mẹ mày... mày nói mua
cái gì, bán cái gì?
- Dạ, bán gió mua que.
- Chà, cái thằng này, mày nói cái gì mà nghe lạ đời quá vậy. Chém cây sống, trồng cây chết... rồi còn bán gió mua que... Nè, mày phải cắt nghĩa cho tao nghe coi, như vậy là cha mẹ mày làm cái gì mới được chớ!
Em bé tủm tỉm cười:
- Ông cứ đoán đi, dễ ẹc à!
Cụ Bá nghĩ mãi không ra, bèn nói:
- Hừ mày nói cái gì khó hiểu quá, tao đoán hoài không ra. Thôi, bây giờ mày nói đi.
- Nhưng mà ông phải cho con cái gì, con mới nói.
- Mày cứ nói đi, tao nghe có lý thì tao xóa hết nợ cho
nhà mày.
- Có thiệt vậy không ông? Ông đừng có xí gạt con
đó nha!
- Thiệt chứ sao không! Hổng lẽ tao đi nói xạo với một thằng con nít như mày sao?
- Nhưng mà phải có người làm chứng mới được.
Lão chủ nợ nghĩ bụng: “Thằng này còn nhỏ mà khôn quá chừng. Mình phải kiếm cách gì giả lả cho qua thì nó mới nói”. Vừa lúc đó, thấy một con mối bò ra đớp mồi, lão bèn nói:
- À, con mối này nè. Được đó, để tao kêu con mối làm chứng, mày trả lời cho tao đi, nếu đúng, tao sẽ xóa nợ cho cha mẹ mày.
Lúc bấy giờ, em bé mới thong thả nói:
- Thưa ông, cha con đi cắt lúa hổng phải chém cây sống, trồng mạ xuống là trồng cây chết sao. Còn mẹ con đi bán quạt mua tre, mà bán quạt mua tre tức là bán gió mua que chớ còn gì nữa.
- Ha ha, hay, hay, hay! Thằng nhỏ này khôn thiệt.
Trích Em bé thông minh:
Không bao lâu sau, có viên quan của nước láng giềng đi sứ sang nước ta. Để thăm dò xem bên này có nhân tài hay không, ông bèn đưa ra một câu đố. Viên sứ thần cầm một cái vỏ ốc rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ xuyên qua ruột ốc, từ đầu này sang đầu bên kia.
Các quan đại thần ai nấy đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để xâu... Thôi thì đủ cách, nhưng tất cả đều vô hiệu. Đến lượt các quan trạng, các nhà thông thái được triệu vào cũng đành lắc đầu, bó tay. Chợt nhớ đến em bé thông minh hôm nọ, nhà vua lập tức sai người đi tìm.
Khi viên quan của triều đình phóng ngựa đến trước cửa nhà em, thì em còn đang đùa nghịch ngoài sân. Không đợi viên quan hỏi, em bé hát lên rằng:
Tang tình tang! Tính tình tang.
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng.
Bên thì lấy giấy mà bưng.
Bên thì bôi mỡ, kiến mừng kiến sang!
Tang tình tang! Tính tình tang.
Rồi nói:
- Dạ thưa, ông cứ theo cách đó mà làm là được.
Quả nhiên, con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua được ruột ốc trước cặp mắt kinh ngạc và khâm phục của sứ giả nước láng giềng.
Về sau, em bé thông minh ấy thi đỗ trạng nguyên, một lòng một dạ giúp vua trị vì đất nước.
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
Tác giả: Nam Phong tùng thư - Phạm Quỳnh chủ nhiệm
Bộ sách Phạm Quỳnh do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM phối hợp thực hiện.
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
“Tiểu thuyết đã là một truyện bịa đặt ra, thì phần cốt yếu trong phép làm tiểu thuyết là sự kết cấu. Kết cấu là thế nào? Kết cấu là tự không gây dựng ra, bày vẽ ra, đặt để ra, xếp các nhân vật, các tình tiết, cho có đầu đuôi, có sau trước, có mành mối, có ngành ngọn, nói tóm lại là đặt thành một truyện hiển nhiên như truyện thật, khiến cho người đọc đương lúc đọc mơ màng tưởng tượng như là việc có thực vậy. Tài nhà làm tiểu thuyết phần nhiều là ở cái tài kết cấu đó”.
“Mục đích tôi trong bài diễn thuyết này là muốn chứng rõ rằng tiếng quốc âm ta phong phú dường nào, và cái văn chương truyền khẩu của ta thanh tú biết bao nhiêu. Tiếng An-Nam ta hay lắm, các ngài ạ. Người ngoại quốc cũng phải khen là một thứ tiếng êm như ru, vui như hát, mỗi vần đánh ra năm dấu, đọc thành sáu giọng khác nhau, như trong cung đàn vậy. Tưởng không có mấy thứ tiếng hòa bình êm ái bằng tiếng ta. Vậy thì bọn ta phải nên trân trọng lấy cái quốc âm quí báu ấy, ra công tập luyện trau dồi cho mỗi ngày một hay một đẹp hơn lên, dù ta học chữ Tây hay chữ Tàu, ta cũng chớ nên quên bỏ tiếng Tổ quốc, là cái tiếng từ khi lọt lòng ra đã học nói, và đến khi hấp hối chết cũng còn nói".
Mấy năm nay ở nước ta, người làm tiểu thuyết, người đọc tiểu thuyết đã thấy nhiều. Phàm buổi mới đầu, lấy đâu được tốt. Cho nên người làm tiểu thuyết còn ít thấy hay, mà người đọc tiểu thuyết cũng chưa được sành. Lối tiểu thuyết trong văn chương ta thật là chưa có phương châm, chưa có định thể vậy. Đương lúc bây giờ, nên giải nghĩa rõ tiểu thuyết là gì, và bàn qua về phép làm tiểu thuyết ở các nước Âu Mĩ thế nào, tưởng cũng có thể giúp cho nghề tiểu thuyết ở nước ta được một đôi phần vậy.
--- 1 ---
Tiểu thuyết là một thể văn chương thịnh hành nhất đời nay. Trong các sách xuất bản ở các nước hiện bây giờ, quá nửa là sách tiểu thuyết. Trong các báo hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, không bao giờ là không có một phần tiểu thuyết. Tiểu thuyết thịnh hành như thế thời chắc là người đời ưa tiểu thuyết và lối tiểu thuyết là hợp với tính tình tư tưởng của phần nhiều người ta. Xét lịch sử, lối tiểu thuyết có đã lâu: ở nước Tàu thì thịnh hành từ đời nhà Nguyên; ở nước Pháp thì phôi thai từ thế kỷ thứ 13, 14; nhưng thành thể tài như ngày nay là mới bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, nghĩa là trong khoảng hơn một trăm năm nay. Cho nên các sách lịch sử văn học Âu châu đều nói rằng “thế kỷ thứ 19 là thế kỷ tiểu thuyết” (le 19e siècle est le siècle du roman).
Nay cứ lý hội các tính cách chung của tiểu thuyết đời nay thì có thể giải nghĩa tiểu thuyết như thế này: Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú. Như vậy, thì phạm vi của tiểu thuyết rộng lắm: phàm sách gì không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo cứu, sách thi ca, thì là tiểu thuyết cả, mà tiểu thuyết có khi lại gồm được cả các lối kia, vì trong một bộ tiểu thuyết, cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh, chỗ khuyên răn. Cứ nghĩa hai chữ “tiểu thuyết” (……) trong sách Tàu thời lại rộng lắm nữa: phàm sách gì không phải là “chính thư” (nghĩa là sách để học, như kinh, truyện, sử, vân vân), đều là tiểu thuyết cả, nhưng tiểu thuyết đây tức là tạp thuyết, có khác với nghĩa tiểu thuyết như bây giờ. Tiểu thuyết bây giờ thì như trên kia đã giải phải là một truyện đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo lối tự sự, như lời nói thường, nhưng cũng có một đôi khi viết bằng lối vận văn, như Truyện Kiều (song ít lắm, có lẽ không đâu có lối tiểu thuyết bằng vận văn giống như các “truyện” ta). Nói tóm lại, tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị. Ấy cái tính cách chung của tiểu thuyết là thế. Còn thể thức thì thật là thiên hình vạn trạng. Một nhà làm sách khảo về lịch sử lối tiểu thuyết trong văn chương nước Pháp, đã nói rằng: “Lối tiểu thuyết như ông thần “biến tướng” trong truyện Hi Lạp đời xưa, thay hình đổi dạng đủ cách để làm cho người ta được hứng thú. Hoặc kể truyện phong tình êm ái mà khiến cho lòng ta phải cảm động; hoặc thuật truyện anh hùng hào kiệt mà khiến cho trí ta phải mơ màng. Hoặc tả tính tình rất tinh tế, họa chân cảnh rất xảo kỳ, đều là làm khoái trá cho tinh thần ta cả. Có khi đem ta ra ngoài những nơi kẻ chợ nhà quê mắt đã trông lắm lấy làm nhàm, mà đưa tới những phương xa cõi lạ có chim kêu vượn hót, cây đẹp cỏ thơm. Người ta chẳng qua là một lũ con trẻ lớn, cho nên dẫu là người đa tình đa cảm hay là người hiếu học hiếu kỳ, đọc tiểu thuyết cũng phải thích, vì tiểu thuyết khéo bày đặt những truyện vui truyện lạ cho ai nấy cũng phải mê”. (Véritable Protée, le roman revêt toutes les forines pour nous séduire. Il émeut notre coeur ou notre imagination avec de douces histoires d’amour et des aventures héroĩques. Il charme notre esprit par des minutieuses analyses de l’âmeet par des peintures savantes de la réalité. Il nous entraine enfin loin des villes banales et des pays trop connus vers ces lointaines contrées où d’étranges oiseaux chantent sur des arbres merveilleux. Et que I’on soit un rêveur, que I’on aime la science et la psychologie, que I’on ait une humeur aventureuse, peu importe! Le roman sait toujours conquérir les grands enfants que nous sommes en offrant à chacun ce qui flatte sa manie ou sa passion). (L.LEVRAULT. Les genres littéraires: le Roman).
Hình thức tiểu thuyết đã bất nhất như thế, thì nghề làm tiểu thuyết cũng không có phép tắc nhất định được. Thi ca có phép tắc của thi ca, diễn kịch có phép tắc của diễn kịch, ai chuyên nghề ấy, phải biết cho sành, mới khỏi lầm lẫn. Nhưng phép tắc của tiểu thuyết thì khó lòng mà giải thích cho tường được. Hoặc nói rằng tiểu thuyết cốt đặt truyện cho khéo, kể ra cho hay, là phép tắc của tiểu thuyết thì nói thế cũng chưa đủ định phương châm cho nghề tiểu thuyết được. Song tuy tiểu thuyết thiên hình vạn trạng thật, mà không phải là không có thể chia ra mấy chủng loại lớn, gồm lại mấy phương pháp ấy là nhất định, những chủng loại ấy là bất dịch, mà nên cho là biểu cái đại khái mà thôi. Vậy trước xin bàn qua về phương pháp chung của tiểu thuyết, rồi phân ra mấy chủng loại lớn mà xét riêng về mỗi loại như sau này, không dám tự phụ làm sách chỉ nam cho những nhà soạn tiểu thuyết cùng những người đọc tiểu thuyết, nhưng gọi là giải nghĩa qua về một lối văn chương mới nhóm lên ở nước ta bây giờ và sau này chắc là phát đạt to.
Lời nói đầu
Những thập niên cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, trong đó, phương tiện quan trọng để phổ biến và hoàn thiện chữ quốc ngữ chính là báo chí quốc ngữ. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm ra đời ngày 01/7/1917 là một trong số đó.
Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay sau khi đỗ đầu bằng Thành chung ông đã được bổ làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ (1908), sớm tham gia Đông Dương tạp chí (1913), có nhiều bài báo được độc giả đương thời chú ý. Vì nền tảng tư chất học thuật và những đóng góp, trải nghiệm thực tế đó mà Phạm Quỳnh được giao cho phụ trách Nam phong tạp chí.
Tạp chí tồn tại trong hơn 17 năm, từ tháng 07/1917 đến tháng 12/1934, chủ trương “thổ nạp Á - Âu, điều hòa tân cựu”, với tôn chỉ rất rõ ràng:Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật Đông Tây kim cổ; luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn…
Các tác giả của Nam Phong tạp chí khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương,lịch sử của Á Đông và châu Âu, dịch những tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, đăng những sáng tác đương đại… Tinh thần tranh biện, phản biện, lý luận đề cao cái mới trên Nam Phong tạp chíđược đánh giá là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc nhưng vẫn có giá trị bảo tồn văn hóa, văn học truyền thống. Nhiều bài viết có tính học thuật khá cao, đến nay vẫn được tham khảo.
Ban Biên tập Nam phong tạp chí thành lập nhà xuất bản riêng, lấy tên là Nam Phong tùng thư, cùng có chung tôn chỉ, mục đích: “… dùng chữ quốc ngữ làm lợi khí để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một lên cao”. Nam phong tùng thư in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng.
Đến hôm nay, những cuốn sách tuổi đời gần trăm năm, trong đó có sách của Nam Phong tùng thư vẫn còn nằm đâu đó trong bộ sưu tập của những người đam mê sách hay được bảo quản tại hệ thống thư viện. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc, giảng viên, học sinh, sinh viên đã đến thư viện tìm đọc những cuốn sách này để tìm hiểu chữ quốc ngữ thuở ban đầu ra sao, các bậc trí thức ngày xưa đã bước đầu tham dự vào lĩnh vực học thuật, văn hóa, khoa học thế giới như thế nào… Nhưng số lượng sách có một thế kỷ tuổi đời như vậy được lưu giữ ít ỏi và quá cũ, rất khó để nhiều lượt bạn đọc có thể tiếp cận và sử dụng.
Với mong muốn khôi phục lại những cuốn sách xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ phối hợp với Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chọn lọc và in lại một số tập sách. Đầu tiên chúng tôi chọn ra mắt bạn đọc ba cuốn sách của Nam Phong tùng thư do Phạm Quỳnh biên dịch, biên soạn, gồm:
• Lịch sử thế giới
• Lịch sử và học thuyết của Voltaire
• Khảo về tiểu thuyết - Tục ngữ ca dao
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi