Có những khoảnh khắc trong cuộc đời mỗi chúng ta thấy nhớ nhà, nhớ tuổi thơ, nhớ con đò nhỏ lâu rồi không có khách qua sông nên nằm buồn bến nước, nhớ cánh đồng và cánh cò trắng "chở luôn nước mắt cay nồng của cha", nhớ những người thân yêu vẫn hằng ngày ngóng vọng ta về.
Đôi khi chúng ta nhận ra mình đang cô đơn giữa thành phố đông người, đôi chân đã mệt nhoài, khóe mắt đã cay và nụ cười không còn hồn nhiên như những ngày chỉ biết nói cười chẳng cần lo nghĩ.
Đến một lúc nào đó, chuyện về quê sẽ trở thành xa lạ với chúng ta. Về quê không đơn giản chỉ là ngồi trên chiếc xuồng ba lá chông chênh để má bơi đưa ta đi trên những dòng sông đẹp; không phải vài ba bước đã sang cây cầu tre lắt lẻo nghiêng mùa nắng mưa; không phải cứ nhắm mắt lại là thấy mình nằm ngủ trên rơm rạ quê nhà... Đến một lúc nào đó, vê quê sẽ là ước ao lớn nhất trong vô vàn những ao ước đời người, không chọn gì chỉ mong an trú...
Nếu khát khao đủ lớn, chúng ta đều có thể ngược về quá khứ tìm lại dấu yêu dang dở năm nào, để được sống lại ấu thơ, để được bình an và rồi vững chân bước tiếp. Tác giả gọi đó là: Ngược chiều thiên di!
Về thể loại, các bài viết có tính chất pha tạp giữa tùy bút, bút ký và truyện ngắn, với độ dài ngắn rất khác nhau. Nội dung chủ yếu kể lại những câu chuyện đời thường thuộc nhiều loại hình sinh hoạt khác nhau của người dân tỉnh lẻ trong bối cảnh lịch sử chuyển đổi sau 30 tháng 4 năm 1975. Có những bài rất gần với chuyện tiếu lâm nông thôn, đọc lên không thể không tức cười (như “Tưởng bở”…), nhưng cũng có vài câu chuyện phản ảnh hiện thực xã hội gây cho người đọc thật nhiều suy nghĩ bức xúc về hoàn cảnh sống khó khăn nghiệt ngã của một số người dân trong giai đoạn chuyển hình kỳ lịch sử (như “Bông sứ cùi”…). Điều này cho thấy tác giả có phần thiết tha tâm huyết trước thực tế cuộc đời, mà nhịp đập trái tim luôn hướng về những người cùng khổ, chứ không phải chỉ là một kẻ đứng ngoài nhận xét với thái độ hồn nhiên hoàn toàn.
Cách kể chuyện của Kim Chi rất tự nhiên mà duyên dáng, nhiều chỗ không kém phần lém lỉnh, nhưng mấy ưu điểm vừa kể này vẫn không đi ngược lại với sự sâu sắc cần có của thể loại tản văn, cho thấy tác giả có óc quan sát nhận định rất tinh tế các sự kiện diễn biến cũng như về tâm lý, tính cách nhân vật, hiểu biết rất rõ như đi guốc trong bụng tâm lý, phong tục tập quán, lối sống của người dân địa phương thuộc nhiều thành phần, nghề nghiệp và tuổi tác khác nhau. Tập tản văn nhỏ này vì thế chắc chắn sẽ mang lại cho người đọc một số điều thú vị, ngoài việc đọc giải trí ra, nó có thể cung cấp cho chúng ta không chỉ bức tranh toàn cảnh của một vùng thuộc miền Tây Nam Bộ, mà một số từ ngữ, tiếng lóng địa phương được tác giả sử dụng rất nhuần nhuyễn còn có tác dụng bổ sung nguồn văn liệu cho những nhà biên soạn từ điển.
Đổi Mới Giáo Dục Đạo Lý Dân Tộc Và Ý Thức Công Dân Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Thành Phố Hồ Chí Minh Qua Dạy Học Các Môn Xã Hội - Nhân Văn
Gần hai mươi năm theo nghiệp viết báo ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạ Tri đã chọn nẻo đường văn hóa - du lịch ẩm thực với niềm đam mê to lớn mà, theo lời chính anh thì “không kém phần khắc nghiệt.” Nhưng nhờ vậy, anh cho ra mắt tập tùy bút ẩm thực đầu tiên của mình. Ngược Xuôi Bến Khoái tập hợp tròm trèm 50 bài viết về những đặc sản hai miền Trung và Nam bộ. Điều thú vị là qua đó, tập tùy bút ẩm thực này đã hé lộ một phần tinh hoa của ẩm thực triều Nguyễn - vốn trước nay, ít có người tiếp cận xuyên suốt và chuyển tải lại với ngôn từ dễ hiểu. Đồng thời, còn đưa ra nhiều giải pháp chế biến khá đơn giản mà tinh diệu, giúp bữa cơm gia đình thêm mới lạ, ngon lành hơn. Uyển chuyển với bộ ba gia vị vừa quen vừa lạ: trà - tương - mắm, nhằm thổi bùng ngọn lửa huyền biến - khơi nguồn sáng tạo cho nhiều ông/ bà tiên bếp.
Một cuốn sách về vấn đề giáo dục với nhiều cảnh tỉnh của một người làm thầy giáo từ năm 14 tuổi, với hoài bão nung nấu về một Việt Nam hưng thịnh dựa trên nền giáo dục truyền thống và hiện đại, không đứt gãy trong chiều dài lịch sử dân tộc. Niềm tin và sự đam mê học hỏi của trẻ con đều đến từ sự gương mẫu của người lớn.
Đừng Coi Thường Sự Lười Học Của Con Người!, một cuốn sách không phải để mua, mà để đọc; không phải để học, mà là để hỏi. Đọc để biết tại sao một tài xế Uber của thế kỷ 21 lại “kết nối” với vua Quang Trung của thế kỷ 18, và tại sao Nobel hòa bình trẻ nhất Malala người Pakistan lại là “hậu thân” của cụ Phan Châu Trinh. Đọc để chia sẻ lời cảnh báo từng vang lên trên diễn đàn Quốc Hội: Giáo dục sụp đổ đồng nghĩa với sụp đổ quốc gia. “Đừng coi thường” bài học “tổ quốc lâm nguy” thường xuyên của người Mỹ, và cảm nhận “gót chân Achilles” của Trung Quốc là giáo dục nông thôn.
Hãy cùng tác giả đặt câu hỏi: Tai sao Việt Nam cần một Hội nghị Diên Hồng thượng đỉnh về giáo dục, và phải học lại bài học xưa cũ về tôn sư trọng đao, trong khi phải đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai? Và hãy cùng tác giả chiêm nghiệm lại về tình thầy trò và tình bạn học quan trọng như thế nào trong hình thành nhân cách một con người.
Không cuốn sách nào có thể thích hợp hơn trong thời đại dịch.
Cuốn sách dành cho các nhà nghiên cứu và những ai yêu mến Đà Lạt. Sách do NXB Tổng Hợp TPHCM và Viện Viễn đông Bác Cổ ÉFEO thực hiện.
Đây là công trình sưu tầm, sao lục trong thời gian dài của hai chuyên gia người Pháp là Olivier Tessier và Pascal Bourdeaux tại 4 quốc gia là Việt Nam, Pháp, Nhật và Thụy Sĩ. Bên cạnh đó còn có nhiều hình ảnh trong bộ sưu tập cá nhân của tác giả Tam Thái.
Mục đích của cuốn sách là phác ra mối liên hệ giữa vấn đề bảo tồn di sản và triển vọng quy hoạch đô thị bằng cách cung cấp cho người đọc cái nhìn về lịch sử thành phố qua bản đồ. Góc tiếp cận này nhanh chóng thể hiện sự phù hợp và độc đáo của mình trong việc làm sáng rõ cả một mảng trong lịch sử của vùng, nhất là những điểm còn đang được tranh luận hiện nay về những thách thức và phương pháp cần áp dụng vào mục đích giữ gìn di sản đô thị.
Tập sách là tập hợp những giấc mơ của con người trước số phận và cuộc sống. Có giấc mơ đẹp đẽ đầy hy vọng, có cả cơn ác mộng ám ảnh không thể quên. Những giấc mơ bắt đầu từ hiện thực (giấc mơ kiếm tiền, giấc mơ sống yên ổn, giấc mơ tha thứ cho nhau...) chuyển mình qua từng cảm xúc mơ hồ (giấc mơ về tổn thương quá khứ, giấc mơ về những ký ức đau buồn...), tiến đến những câu chuyện huyền ảo (mượn giấc mơ để thể hiện sự phản kháng thực tại). Mơ, mà mở mắt. Nó nửa thực, nửa ảo; khi bi kịch áp lên vai con người sức nặng. Từng câu chuyện là từng giấc mơ riêng, phản ánh những khát vọng và nỗi sợ. Nhưng suy cho cùng, đó vừa là điểm tựa, vừa là lối thoát. Vì sau cơn mơ, người ta sẽ phải tỉnh dậy.
Trích đoạn:
Dưới chân cầu nói dối
Thế giới của riêng cô có ngày bị xâm phạm bởi một người đàn ông. Kẻ lạ mặt đang thoải mái ngồi hút thuốc trên chiếc xe cần cẩu rỉ sét. Điếu thuốc tàn, anh thẳng tay quăng xuống. Cô hốt hoảng chạy lại, giơ gót giày cao gót định giẫm tắt. Gặp lá ướt, gót giày trượt đi, cô té xuống đất ê ẩm. Anh cười khùng khục, không có vẻ gì sẽ bước xuống đỡ cô dậy. Cô tự mình đứng lên, sau khi đã trút bực bội cho tàn thuốc tắt ngấm, chống nạnh quắc mắt nhìn kẻ xâm lấn không gian riêng của mình:
- Ê anh kia, vô chỗ của người ta rồi còn xả rác hả? Lỡ cháy thì sao?
- Ờ, xin lỗi. - Anh nhìn quanh, đúng là nhiều lá khô thật, một tàn thuốc có thể sẽ gây họa. Tuột khỏi xe cần cẩu, anh nổi hứng muốn trêu chọc cô gái trước mặt mình một chút. - Chỗ của cô? Cô mua nó rồi hả?
- Ờ thì chưa. - Cô sững ra, không ngờ anh hỏi câu này. Chắc hẳn đây là loại đàn ông giàu có đáng ghét, thích định giá sở hữu bằng tiền.
- Vậy là sắp mua? - Anh rút điếu thuốc, châm lửa rít khói.
- Không.
- Có ý định mua?
- Không luôn.
- Vậy lấy gì để nói chỗ này của cô hả cô nương lùn tè? - Anh ngửa cổ, mở miệng thả đám khói để chúng bay về trời, cố tình giữ một vẻ mặt đáng ghét.
- Thì tôi tìm ra nó đầu tiên.
- Cô nhún vai, lấy trong túi xách ra tấm bạt ni lông trải xuống đất. - Và tôi cao gần mét bảy nha. Nếu anh muốn, tôi sẽ chia sẻ chỗ này với anh.
Không cần cô mời, anh tự nhiên bước tới ngồi lên chỗ còn trống trên tấm bạt. Cô gái tiếp tục lôi ra một hộp nho khô, chai nước suối, vài ổ bánh mì ngọt. Mở nắp nghiêng hộp về phía anh, cô hất cằm, ăn cho vui.
- Không lên cơn với tôi nữa hả? - Anh bỏ một ít nho khô vào miệng, thay cho khói thuốc. Chúng ngọt tới mức va đập vào cổ họng, nhưng anh vẫn còn thấy sót chút đắng.
- Không. Hơi đâu giận người dưng khi tôi đã nổi điên cả ngày, và mỗi ngày với đủ loại người rồi. - Cô mở nắp chai nước, uống ừng ực không ngần ngại. - Ở đây, tôi muốn mình thoải mái. Và vì thoải mái, nên tôi ở đây.
Anh im lặng nhìn cô, thích thú trước sự kỳ quặc đang toát ra. Có thể vì chưa biết gì về nhau, cô tạo cho anh cảm giác dễ chịu.
- Cô ở đây làm gì?
- Tắm hoàng hôn. - Cô tấn công tới ổ bánh mì ngọt, đưa một nửa cho anh. - Ăn không? Ngon hơn thứ hôi rình anh đang ngậm đó.
Anh bật cười đón lấy, lẩm bẩm, gì mà tắm hoàng hôn, điên thiệt chứ. Nhưng nụ cười của anh xao động, bị kéo bung ra sắp đứt, khi cô quay sang hỏi:
- Anh là ai, làm gì, ở đâu tới đây?
- Tôi... - Anh cau mày, sự khó chịu dần hiện trên mặt. Anh không muốn người ta biết nhiều về mình, để từ đó đào sâu vào những thứ anh đang không muốn đối diện.
- Khờ ghê, đâu ai bắt anh nói thiệt. - Cô lấy bánh mì kẹp nho khô, bỏ vô miệng nhai nhồm nhoàm.
- Anh có thể nói dối, nếu muốn. Như tôi, một cô ca sĩ mới nổi đã chán với lịch diễn dày đặc và đám antifan khốn nạn nên trốn ra đây.
TẢN BỘ TRONG VƯỜN ĐOẢN THI
Phan Thị Thu Hiền
Nếu so với sonnet, thể thơ ngắn nổi tiếng, quen thuộc nhất của văn học châu Âu (bài thơ trong hình thức cổ điển có 10 dòng với 140 âm tiết) thì các thể thơ ngắn nhất đồng thời nổi tiếng bậc nhất của văn học Đông Á nhỏ nhắn hơn nhiều.
Bên cạnh tuyệt cú (bài thơ 20 hoặc 28 âm tiết) vốn xuất phát từ Trung Hoa nhưng dần trở thành gần như một gia tài chung trong văn học chữ Hán của khu vực, được thi nhân cả ở Korea, Nhật Bản, Việt Nam thưởng thức và sáng tác thì mỗi nền văn học dân tộc lại có hình thức đoản thi độc đáo, trong ngôn ngữ, văn tự riêng của mình. Có thể kể sijocủa Korea (hình thức quy chuẩn chừng 45 âm tiết), lục bát của Việt Nam (bài thơ 2 câu chỉ gồm 14 âm tiết), haikucủa Nhật Bản (17 âm tiết).Tuyệt cú tương đương với thể rubai (bài thơ cũng 4 dòng) của Ba Tư (Tây Á). Lục bát hai câu thì gần gũi với hình thức bài thơ một sloka (2 dòng, tổng cộng 32 âm tiết) trong văn học Ấn Độ (Nam Á).
Tuy nhiên, có lẽ khắp thế giới không tìm được một khu vực nào khác phong nhiêu các đoản thi, say mê nồng nhiệt và sở trường đặc biệt về các thể thơ này như ở Đông Á.
Các nền văn học Đông Á đều khởi đầu bằng thơ ca. Song, những thể thơ ngắn tiêu biểu không tự nhiên có được ngay thuở ban sơ, mà thường xuất hiện khá muộn về sau.
Tuyệt cú hình thành khoảng thế kỷ VI; sijo, lục bát định hình như một thể thơ vào khoảng thế kỷ XIV; haiku được khai sinh như một hình thức độc lập vào giữa thế kỷ XVII.
Tất cả đều cho thấy con đường đến đoản thi là hành trình trưởng thành, thuần thục của mỗi nền văn học.
Tuy phần lớn các thể thơ ngắn Đông Á đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc sâu xa từ bài ca (dân gian), nhưng quan hệ giữa “thi” và “ca” được tiếp nối ở sijo, lục bát lâu dài, chặt chẽ hơn so với tuyệt cú, haiku.
Có thể hình dung tuyệt cú của Trung Hoa như một thế giới tương hỗ chặt chẽ Âm-Dương, hài hòa, đối xứng; haiku của Nhật Bản xây dựng thế cân bằng lệch, cực Dương; trong khi lục bát của Việt Nam cực Âm, nhịp nhàng, uyển chuyển; sijo của Korea mềm mại, linh hoạt.
Như vậy, những bài thơ bốn dòng, ba dòng, hai dòng, hay một dòng của tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku, nhìn trên bề mặt, có kết cấu hết sức đa dạng. Tuy nhiên, cấu trúc sâu tạo nghĩa của các thể thơ này lại đồng quy một cách lạ lùng. Cách này hay cách khác, các đoản thi thành công luôn có một bản lề khép lại tâm cảnh/ ý cảnh của phần đầu bài thơ và đột ngột xoay chuyển mở ra trong câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng một tâm cảnh/ ý cảnh khác, mới mẻ tinh khôi, dù cả hai vẫn không ngừng là một thế giới… Toàn bộ phần đầu bài thơ tích tụ, chất dồn năng lượng cho sự thăng hoa, bùng nổ ở câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng.
So sánh với thơ ngắn của các nền văn học khác như vậy, có thể nhận thấy đặc trưng của các đoản thi Đông Á trong sự nhuần nhị, tự nhiên dung nhập cảnh và tình, hòa quyện trữ tình và triết lý, hàm súc mà dư ba.
Tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku cùng hàm súc, giàu sức gợi, nhưng thi pháp của mỗi thể thơ lại mang sắc thái khác nhau.
Tóm lại, tuyệt cú của Trung Hoa, haiku của Nhật Bản, sijo của Korea và lục bát của Việt Nam chia sẻ khá nhiều đặc điểm tương đồng có tính loại hình và có tính khu vực. Cả bốn thể thơ đều hàm súc, giàu sức khơi gợi. Cả bốn thể thơ, với những cách thức và mức độ khác nhau đều chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa Á Đông (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo...).
Bên cạnh những đặc điểm chung, tuyệt cú, haiku, sijo, lục bát, mỗi thể lại có những đặc trưng biểu hiện bản sắc dân tộc độc đáo. Sijo và lục bát có nhiều điểm gần gũi nhau hơn so với tuyệt cú và haiku. Trong khi tuyệt cú và haikucổ điển, hàn lâm, luật thi nghiêm ngặt thì sijovà lục bát tự nhiên, năng động hơn. Tuyệt cú và haikuchủ yếu là tiếng thơ vô ngã, lôi cuốn bằng sự sắc sảo, chiều sâu tôn giáo - triết học, đậm đà phong vị Thiền tông. Sijo và lục bát lại cất lên lời ca mang giọng điệu trữ tình, nồng nàn sắc thái cá nhân, chinh phục nhờ những vẻ đẹp biến ảo của tâm hồn.
Bộ sách tinh tuyển văn chương Đông Á đã xuất bản:
Những mái lều ẩn cư trong văn chương Đông Á (2013)
Những kỳ nữ trong thơ ca Đông Á (2014)
Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á (2014)
Thi tăng Đông Á (2017)
Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông Á (2017)
Thượng Hải – Tokyo – Hà Nội – Seoul trong văn chương Đông Á đầu thế kỷ XX (2017)
Đoản thi Đông Á (2020)
Các trích đoạn:
Mai hoa tuyệt cú
梅花绝句
陆游
闻道梅花坼晓风,
雪堆遍满四山中。
何方可化身千亿,
一树梅花一放翁。
Phiên âm:
MAI HOA TUYỆT CÚ
Lục Du (1)
Văn đạo mai hoa sách hiểu phong,
Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung.
Hà phương khả hóa thân thiên ức,
Nhất thụ mai tiền nhất Phóng Ông.
Dịch thơ:
Thơ tuyệt cú về hoa mai
Nghe gió sớm về mai nở bông,
Như làn tuyết phủ khắp non trùng.
Cách chi thân hóa thành muôn ức,
Bên mỗi gốc mai một Phóng Ông.
1. Lục Du (1125 – 1210) tự là Vụ Quan, hiệu là Phóng Ông, quê ở Sơn Âm (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Xuất thân trong gia đình quan lại, sớm tiếp thu được truyền thống văn hóa tốt đẹp và hoài bão ý chí yêu nước. Ông từng thi đỗ tiến sĩ nhưng bị đánh trượt; sau đó ông tòng quân chỉ huy quân đội ở một số địa phương. Lục Du là nhà thơ yêu nước vĩ đại thời Nam Tống, văn võ kiêm toàn, luôn chủ trương chống quân Kim xâm lược.
Ông có tài cả về thơ, từ, tản văn, lại sở trường về sử học. Bình sinh ông sáng tác gần ba vạn bài thơ, nay còn lại hơn 9.000 bài. Thơ ông có nội dung phong phú, tính hiện thực cao và chứa chan tinh thần yêu nước. Phong cách thơ ông trầm hùng, hào phóng; ông sành tất cả các thể thơ, nhất là thất ngôn luật thi.
Tác phẩm có Kiếm Nam thi cảo, Vị Nam văn tập, Phóng Ông từ.
“Đừng bán bảo hiểm - Hãy trao giải pháp” là cuốn sách tâm huyết của tác giả Pilot Nguyễn, người đã trưởng thành từ một tư vấn viên, nền tảng để anh có những trải nghiệm hữu dụng cho những vị trí quản lý cao cấp sau này.
Cuốn sách nói về công việc của người tư vấn viên tài chính, bắt đầu từ cách nhìn nhận vai trò đến thái độ, những kỹ năng cần thiết của một người đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, dựa vào mô thức thành công đã qua kiểm chứng: Kiến thức + Thái độ + Kỹ năng + Thói quen (KASH)(1). Đây không phải là một cuốn sách hàn lâm nói về nghề nghiệp. Nó đơn giản là sự kết hợp hài hòa của những kinh nghiệm mang tính học thuật từ sách vở quốc tế và những trải nghiệm thực tế của ngành bảo hiểm nhân thọ trên dưới 20 năm qua tại thị trường Việt Nam.
Lời văn nhẹ nhàng, lập luận đậm màu sắc thực tiễn và hướng đến kết quả. Thiết nghĩ, cuốn cẩm nang này phù hợp cho các tư vấn viên làm việc dưới một năm vì nó tương tự như một giáo trình cơ bản mang tính mở rộng. Ngoài ra, cuốn sách này cũng hữu ích cả cho những người làm việc lâu năm hơn trong nghề, vì qua đó, người đọc sẽ có cơ hội ôn lại những kiến thức, kỹ năng mà mình chưa chú tâm học hỏi trong khóa huấn luyện khởi nghiệp, hoặc chưa đủ niềm tin vào những lý thuyết mình được truyền thụ khi ấy, hoặc chưa đủ trải nghiệm để xác định giá trị thực tế lúc mình mới ra nghề.
Cuốn sách này có thể đóng góp một phần nhất định vào việc định hướng làm nghề một cách chuyên nghiệp trong ngành bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
Trân trọng giới thiệu.
---------------------------------------------------
1. K: Knowledge
A: Attitude
S: Skills
Đào Văn Đồng
Trợ tá Phó Chủ tịch Manulife Việt Nam
Vào dịp nghỉ hè, đôi bạn Mo Ma và Ma Mơ về quê chơi, được làm quen và kết thân với Mi Mi, cùng chú chó Mư Mư; rồi tình cờ gặp được Ông Già Tí Hon. Vậy là “Siêu phi đội 5M” được thành lập. Từ đó, có dịp là Siêu Phi Đội lên đường đi thám hiểm, phiêu lưu khắp nơi, với mọi thời gian mình thích. Như trở về thời tiền sử, thời cổ đại, rồi hướng tới thời tương lai… Ở những danh lam thắng cảnh của nước ta, trên thế giới và vượt ra cả vũ trụ bao la…
Trên hành trình phiêu lưu thám hiểm, bên cạnh được thưởng ngoạn những cảnh quan thiên nhiên hoang sơ tuyệt đẹp, Siêu Phi Đội gặp phải không ít chướng ngại gây khó dễ, cản đường. Nhưng tất cả không thể làm Siêu Phi Đội nản chí, chùn bước. Bằng trí thông minh, sự sáng tạo, lòng quả cảm và sự đồng lòng của tất cả các thành viên, cuối cùng những chướng ngại đều bị khuất phục. Những cuộc phiêu lưu, thám hiểm hoàn thành một cách xuất sắc. Các bạn nhỏ được mở mang tầm mắt, được học nhiều điều quý giá, và càng gắn kết tình bạn bè, tình ông cháu thắm thiết!
Ngành Dược ngày nay được xem như một phần của khoa học xã hội, bởi lẽ có rất nhiều yếu tố xã hội tác động đến việc sử dụng thuốc.
Cùng với sự phát triển của xã hội, quan điểm về sử dụng thuốc đã có nhiều thay đổi. Nếu như trước đây, người dân xem thuốc là một công cụ chữa bệnh, thì ngày nay, thuốc còn có thể được sử dụng như một giải pháp để phòng bệnh hoặc phục vụ cho nhiều mục đích khác liên quan đến việc cải thiện tình trạng sức khỏe.
Dược xã hội là một lĩnh vực quan trọng của khoa học sức khỏe, liên quan đến việc nghiên cứu những vấn đề về sử dụng thuốc của người dân trong cộng đồng, xoay quanh các yếu tố có thể tác động hoặc có ảnh hưởng đến tính an toàn, tính hợp lý và hiệu quả khi sử dụng thuốc của người dân.
Cuốn sách này ra đời với mong muốn gởi đến bạn đọc một vài nhận định liên quan đến quá trình thuốc được đưa vào sử dụng trong thực tế để trả lời cho câu hỏi “Làm thế nào để đảm bảo việc sử dụng thuốc được an toàn, hợp lý, và hiệu quả?”.
PGS. TS. DS. Hoàng Thy Nhạc Vũ
Ký ức về một miền hạnh phúc
Đức Hiển (1)
Trở về dưới cội tùng xưa. Nằm nghe ngàn thu miên man rớt đầy vạt nắng. Trở về thăm mái nhà xưa, đường rêu mờ gót chân em qua đây một mùa.
Trở về gởi lại ngàn sau. Niềm vinh dự đã đi qua kiếp người rộng lớn…
Nay nữa đã hơn 100 ngày mất của Vũ Đức Sao Biển, cầm trên tay tập bản thảo cuối cùng của ông, bất giác tôi lại nhớ bài Cõi tiêu dao ông viết.Tập sách như đưa ta trở về những ngày nguyên sơ nhất của tâm hồn, khi mà tất cả những nỗi lo cuộc đời và nỗi buồn thế sự chưa xâm lấn. Nơi đó, ta sống hồn nhiên cùng cây cỏ, bạn bè, góc vườn, con chó con mèo như ngày xưa bé.
1. Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, Phó Tổng Biên tập Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh là đồng nghiệp nhiều năm, là bạn nhỏ và là hàng xóm của nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển.
Quê nhà yêu dấu là cuốn sách mà từ thiếu nhi đến người già ai cũng có thể đọc và thấy mình trong đó. Những câu chuyện giản dị đến độ ta có thể nghĩ không cần phải viết ra nữa. Nhưng, cũng giản dị đến mức ta tự vấn lòng rằng sao lại không viết nó ra, không chia sẻ sự rung cảm nguyên sơ ấy? Rằng, văn chương đâu phải cái gì quá to tát vĩ đại. Đọc, thích, và cảm thấy như một cơn gió lành cho tâm hồn bình yên, cho muộn phiền được gột rửa bởi những vui buồn giản dị.
Nếu có chút gì khổ đau, day dứt trong đó, cám cảnh thiệt thòi trong đó, thì đó là khi ta đọc Nguyệt cầm. Nỗi cô đơn, nỗi khát khao của một người con gái lỡ thì như bị thổi cháy lên từ lò than ngún khi nghe tiếng đàn của một người ngụ cư mới dọn về ở, vọng từ bên kia dòng kênh. Nó day dứt đến độ ngày nọ chị bơi xuồng qua và tìm đến để làm quen. Đến rồi, chị lặng lẽ về khi biết vì sao tiếng đàn ấy da diết thế: Anh ta bị mù, nên bao nhiêu nỗi lòng gởi hết vào tiếng nguyệt cầm.
Không giống với những hồi ức hằn sâu bởi mất mát, đói nghèo, thiệt thòi mà ta gặp trong nhiều tác phẩm khác, Quê nhà yêu dấucủa Vũ Đức Sao Biển là làng quê xứ Quảng nghèo mà đẫm tình, mà tha thiết, mà “giàu có” những hạnh phúc bởi những ký ức mộc mạc. Một ngọn khói lam chiều bên mái tranh cũng đủ gợi những bữa cơm đoàn tụ mà sau này khi trở thành một trung niên mồ côi, ông không còn tìm lại được; cái lạnh thấu xương mùa gió bấc cũng đem về nỗi nhớ những đêm cả nhà quây quần bên ngọn đèn dầu lạc, dầu mù u với nồi khoai sắn, với mùi củi dương đốn từ nổng cát cháy tí tách bổ sung nhiệt lượng vì cái chăn quá mỏng (Mùa đông).
Đọc sách, ẩn sau những câu chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt là chất chứa một điều lớn hơn: Sức sống văn hóa của làng quê Việt, mà ở Quảng Nam, cái sức sống ấy như mãnh liệt hơn. Ở nơi mà máy bay trên đầu, giặc ruồng dưới đất người ta vẫn họp chợ. Không có gì để bán để mua, vẫn cứ họp chợ bằng bất cứ thứ gì có thể trao đổi được.
Mới hay, người ta đến chợ vì nhu cầu gặp gỡ, chứ không hẳn vì nhu cầu mua bán trao đổi. Người ta họp chợ làng để giữ cái mạch sống, cái sinh khí của làng (Phiên chợ).
Không lập ngôn, cũng chẳng có mỹ từ, tác giả cứ nhẩn nha kể chuyện, còn người nghe thì tùy vào tâm trạng, vốn sống để mà chỉ nghe chơi hoặc quy chiếu rồi nghĩ sao thì nghĩ. Như trong Người và chim, những ngày chăm con trai trong bệnh viện, ông quan sát cái tổ chim trên nhánh cây ngoài bậu cửa, trông chờ cái tổ ấm của đôi chim được đan xây, ngày nó đẻ và ấp trứng… Rồi ngày con trai xuất viện, ông đã buộc vào cái cửa thông gió một sợi thép để yên tâm rằng sẽ không có ai sau đó mở cái ô cửa ấy, như cách giữ bình yên cho chúng đón đôi chim nhỏ ra đời. Hành vi ấy của nhân vật khiến người đọc yên tâm hơn về tương lai của “gia đình chim”. Nó cũng sẽ khiến người đọc quan tâm và nâng niu thiên nhiên hơn từ những trang viết đó.
Tuổi thơ nghèo, đói và vất vả; làng quê nghèo khổ với giặc giã và thiên tai hạn hán, rồi bão lũ, song hơn hết “tuổi thơ tôi rất đỗi thơ mộng và ngọt ngào”. Tập sách như chút lòng gởi quê nhà, như một sự tri ân cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển. Ấy là sự tri ân cánh đồng cho lúa chín, là ơn nghĩa quê nhà cho mình ký ức đẹp tươi; là ơn bậc sinh thành đã tảo tần nuôi lớn cả bầy con; là ơn thiên nhiên cho con người từ sinh kế, thú vui lẫn những khi lòng tĩnh lặng như nhiều câu chuyện về những chuyến đi câu (Câu cá U Minh Thượng, Câu cá sông quê, Bùa câu cá). Mỗi sắc hoa trong tập sách cũng là một mảnh ghép giúp ta hiểu thêm tâm hồn tác giả (Bóng hoa sim; Bâng khuâng màu hoa cải).
Giờ thì tâm hồn ông Sao Biển đang viễn du về lại với quê nhà, đang hóng gió dòng Trường Giang hay ngược sông Thu Bồn lên Hòn Kẽm Đá Dừng, rong ruổi chiều thu Mỹ Sơn hay về Tiên Phước, hay theo con sáo về miệt Hậu Giang, Bạc Liêu nơi ông sống một thời trai trẻ.
Tôi không nghĩ tập sách sẽ là một tác phẩm để ta kỳ vọng như một dấu ấn văn chương. Nhưng chắc chắn với những ai yêu mến nhà văn, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển thì Quê nhà yêu dấu là một lời tâm tình để ta hiểu hơn tâm hồn tác giả. Đọc tập sách này sẽ hiểu và yêu hơn văn chương, âm nhạc của ông, hiểu thêm về con người ông. Hơn thế, nó nhắc ta:
Ai cũng có một quê nhà để thương nhớ, ai cũng có ký ức để vỗ về. Vì vậy Quê nhà yêu dấu không còn là chốn riêng của tác giả, nó là chốn bình yên cho cả người đọc sách.
Sài Gòn, Thu, Canh Tý 2020
Trích đoạn Phiên chợ
Họp chợ là họp cho vui chứ thực tế người ta không mua bán gì nhiều mà đôi khi cũng không có tiền để mua bán. Có lẽ, người làng họp chợ như là một nhu cầu chứng minh mình còn sống, làng còn sinh khí.
Năm nào cũng vậy, những ngày cận Tết, trời Tam Kỳ lạnh căm căm. Làng tuy có tên là Kim Đới - đai vàng, nhưng không ai có được một bộ đồ lành lặn tử tế, chứ đừng nói tới chuyện có được một chiếc nhẫn vàng hay thắt đai lưng bằng vàng làm trang sức. Người dân trong làng chỉ mặc một thứ quần áo màu đen, cái màu truyền thống do tiệm nhuộm của ông Đồng nhuộm cho một loại vải tự túc, dệt bằng tay của thời kháng chiến. Nắng mưa dãi dầu làm cho màu đen trên vai và lưng của mỗi người đều bạc thếch. Vậy là ai cũng như ai, ai cũng giống ai, từ thằng bé như tôi, đến chị phụ nữ, đến người già. Ai cũng mặc một màu đen bạc thếch ra chợ.
Chợ họp vào buổi chạng vạng, dưới rừng dương liễu, nơi ngó ngang qua cái trường Xóm, gần một mả đá vôi. Máy bay năm đầu của Pháp bay ngang qua vùng này, thấy trường Xóm lợp mái ngói đỏ, đã bắn đại liên ào ạt xuống đó. Trận không kích không làm cho ai chết hay bị thương bởi trường Xóm không có thầy dạy, cũng không có học trò học.
Nó chỉ đứng ở khoảng trống đó cho có lệ bởi những người xây lên nó đã bỏ đi hết. Những người thầy, những người có chữ nghĩa đã rời làng đi kháng chiến đâu đó trên Tam Kỳ. Làng Kim Đới chỉ còn ông bà già, trẻ con và phụ nữ ở lại.
Tuy vậy, họ vẫn họp chợ Tết. Trời lạnh căm. Những người ra chợ đầu quấn khăn, co người lại, hai tay thủ vào trong túi áo. Tội nghiệp nhất vẫn là đôi chân. Ai cũng đi chân trần trên nền cát ẩm ướt. Có người nhà ở gần chợ đem theo một cái ghế vuông, ngồi co chân lên ghế đã là hạnh phúc lắm rồi. Ai nói cũng ra khói. Có thể trông làn hơi khói thoát ra khỏi miệng người, ta hiểu được người ấy nói nhiều hay ít, dài hay ngắn.
Trích đoạn Mùa đông
Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm lá trên đồi. Tôi và người anh ruột đem đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất đốt.
Mưa cứ rả rích, mãi cả đêm vẫn không tạnh. Ở trong nhà, tôi hình như không nghe được tiếng mưa nhưng nó vẫn có đấy. Những giọt mưa nhỏ như sợi tơ từ mái tranh rơi xuống tấm liếp cửa, rồi từ liếp cửa rơi xuống hiên nhà, tạo thành những lỗ trũng nhỏ chứa nước. Giọt nước rơi xuống, cứ thánh thót, đều đều và buồn bã.
Trời thật lạnh. Cái lạnh bén như một lưỡi dao sắc, tưởng có thể cắt đứt thịt da. Tấm mền xi-ta nội hóa dệt ở đâu đó trên Tam Kỳ, thường được gọi là xi-ta bà Tân, không đủ để chống lạnh. Đã mặc ở trong một cái áo dài tay, ở ngoài thêm một áo ngắn, đắp tấm mền xi-ta mà tôi vẫn cứ lạnh. Cái lạnh như đâu từ trong xương tủy, trong cột sống lạnh ra. Nó làm cho những ngón tay, ngón chân cóng lại. Nó làm cho hai vành tai và cái lỗ mũi tê buốt.
Tôi nghe người lớn nói ở đâu đó trời quá lạnh khiến người ta rụng luôn lỗ mũi. Tôi chỉ sợ rụng mất mũi bởi nếu như vậy thì khuôn mặt sẽ xấu lắm.
Những đêm lạnh, tôi thường hay bị sổ mũi nhưng sờ lên mặt mình tôi lại rất vui bởi mũi mình vẫn còn đó.
Nhà đóng cửa im ỉm, chỉ chừa một khoảng nhỏ cho không khí vào, đủ để thở. Qua khoảng trống đó, tôi chỉ có thể nhìn thấy một không gian xam xám nhờ nhờ vào ban ngày. Sang đến ban đêm, cái khoảng trống ấy cũng tối thui. Trong cái lạnh, không khí tưởng đã đặc quánh lại, tràn đầy hơi ẩm ướt.
Mùa đông, có lẽ vạt sim trên nổng cao là lạnh nhất. Phía dưới những cội sim già là các gò mả. Tội nghiệp cho những người đã qua đời. Họ phải nằm dưới mưa, trong cát ướt chờ suốt ba tháng để tới mùa khô tạnh ráo. Không ai đủ can đảm lên nổng để thắp cây hương cho họ trong suốt mùa đông rét mướt này. Thiếu cây hương, thiếu cái mùi khói thơm nhẹ nhàng quyện trong gió, vùng gò mả càng lạnh thêm.
Nước mưa thẩm thấu vào nổng, chảy ra một dòng nước thật trong. Dòng nước ấy chảy vào các bờ sát, thành một cái kinh nhỏ đổ thẳng ra vạt ruộng. Không biết tự bao giờ, một đoàn cá rô thóc tròn cỡ hạt mít bơi tung tăng trong dòng nước ấy.
Nếu là ở mùa khác, tôi và anh Rứt hàng xóm đã be bờ, làm lờ bắt chúng. Nhưng mùa đông, bước xuống khe nước chịu lạnh không nổi, hai chúng tôi đành thua.
Ruộng đã gặt xong hết, chỉ còn trơ những gốc rạ. Một vùng bình nguyên nhỏ hiếm hoi chỉ còn những vạt dương liễu co ro trong mưa. Cây dương liễu thật cam chịu. Nó lớn lên trong cái làng cát này bao nhiêu đời, cong lưng chịu giông bão mùa đông, khát cổ chịu nóng nực mùa hè mà vẫn sống. Nó gần như là biểu tượng của một đời lao động cần cù mà ngoan cường. Mùa xuân tới mùa thu, gió mát về, nó reo vi vu. Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm lá trên đồi. Tôi và người anh ruột đem đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất đốt. Đời cây dương liễu không cần ai chăm bón. Nó cứ lặng lẽ hy sinh và hy sinh...
Trong thế kỷ 21, công nghệ lao nhanh về phía trước, nhân loại sáng tạo ngày càng nhiều phát minh mới để cải thiện cuộc sống, nhưng điều này không có nghĩa con người trở nên thông minh hơn và có trách nhiệm hơn. Trong “Tin nóng", Dmitry Glukhovsky đã đẩy tình huống đến mức phi lý, khéo léo che giấu những chủ đề đau đớn dưới phép ẩn dụ về sự xuất hiện của một nền văn minh khác...
Anna Starobinets viết về những thứ hoàn toàn khác nhau, chạm đến nhiều vấn đề: gia đình, tôn giáo, du hành về quá khứ, người ngoài hành tinh, việc nuôi dạy trẻ em và sự du cư của linh hồn. Nhưng tất cả những vấn đề này không nằm trong các cốt truyện thông thường, mà là theo cách riêng của cô, độc đáo, hoàn toàn không giống bất cứ thứ gì. Truyện ngắn "Người thực" nằm trong tuyển tập Tuổi giao thời, cuốn sách chứa đựng tất cả những gì cần có của văn chương kinh dị thực sự - những chi tiết đóng băng tâm hồn, đen tối trong sự mù mờ đa nghĩa của nó, những trò chơi và thủ thuật tâm lý, cái chết, huyền thoại...
Truyện ngắn "Rừng" của Zakhar Prilepin được giới thiệu trong tuyển tập này là một tự truyện, chất đầy những gam màu cảm xúc và trải nghiệm của một cậu bé nhớ về cha mình, với tình yêu thương vô bờ, qua lăng kính của chuyến phiêu lưu trên một dòng sông giữa khu rừng đáng kinh ngạc và sợ hãi... Zakhar Prilepin có thể rất khác biệt, một số nhà phê bình chỉ ra phong cách nam tính mạnh mẽ, ngòi bút nam tính mạnh mẽ của ông, trong khi những người khác gọi tác phẩm của ông là văn xuôi dịu dàng nhất, tinh tế nhất, tao nhã nhất...
Trong "Vết mực của Nabokov", chỉ trên vài trang giấy, trước mắt chúng ta thoáng qua một cuộc đời, thậm chí vài cuộc đời. Tiếp tục các chủ đề truyền thống của văn học Nga, với sự chú trọng đến các khía cạnh đạo đức của thế giới quan, Mikhail Shishkin cho thấy hai nhận thức khác nhau với những giá trị khác nhau và sự chọn lựa con đường của mỗi người. Giấy quỳ trong câu chuyện là thái độ đối với Nabokov, người mà hình ảnh chạy xuyên suốt toàn bộ cốt truyện, làm cho tác phẩm trở nên trọn vẹn.
Cuốn sách "Nhà lãnh đạo nhạy bén" cung cấp kế hoạch chi tiết cho việc tạo ra một tổ chức nhạy bén hơn, nhưng không hề né tránh đánh giá việc đó có thể khó khăn đến mức độ nào. Simon Hayward diễn giải cách thức nếu các nhà lãnh đạo áp dụng những phương pháp làm việc nhạy bén - bao gồm đặt ưu tiên không khoan nhượng, hợp tác và làm việc theo đội nhóm, tạo ra một văn hóa học hỏi và đổi mới theo định hướng khách hàng - họ sẽ thích nghi và không ngừng phát triển phù hợp với một thế giới kinh doanh phức tạp.
️Việc xây dựng một phong cách làm việc nhạy bén ở cấp độ doanh nghiệp là một thách thức không nhỏ và cần một sự chuyển đổi cả về tư duy và hành vi từ các nhà lãnh đạo nếu muốn nó bền vững. Cuốn sách "Nhà lãnh đạo nhạy bén" chỉ ra phương pháp giúp bạn làm điều đó.
Đây là quyển từ vựng y học song ngữ Hàn - Việt đầu tiên tập hợp khá đầy đủ các khái niệm dịch tễ, tên các loại bệnh, triệu chứng, tên các loại thiết bị y tế, cơ quan y tế, hệ thống phòng ban của bệnh viện, cơ quan phòng chống dịch, phương pháp trị liệu, y học truyền thống và hiện đại...
Cuốn sách này là công trình tập hợp những bài viết của ba tôi - nghệ sĩ ưu tú, đạo diễn sân khấu Nguyễn Ngọc Bạch (1922 - 1985) trong suốt cuộc đời 40 năm hoạt động sân khấu của ông, bắt đầu từ “mùa thu rồi ngày hăm ba” (8-1945) cho đến khi ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh (10-1985).
Từ năm 1980, khi sức khoẻ và trí tuệ còn sung mãn, ba tôi đã bắt tay vào công việc được ông coi là quan trọng nhất đời mình: Đó là biên soạn một công trình có tính tổng kết cuộc đời hoạt động sân khấu của ông, cũng là ghi dấu ấn giai đoạn hình thành và phát triển sân khấu cách mạng Nam Bộ - quê hương mà ông vô cùng yêu quý! Tư liệu của công trình ông đã cẩn thận thu thập, gìn giữ suốt từ những năm kháng chiến chống Pháp đến tận lúc bấy giờ. Đó là các mẩu truyện, một số vở kịch ngắn, những đoạn hồi ký, đề cương nghiên cứu và nhất là các tập nhật ký của ba tôi trải dài năm tháng theo những chuyến lưu diễn ở mọi miền đất nước…
Nguyễn Thị Hậu
Tác phẩm tập hợp những truyện ngắn của tác giả trong hơn mười năm qua. Ở mỗi truyện, tác giả đã cố gắng dựng lên ít nhất một nét riêng tư, một cảnh đời, một số phận hoặc một vấn đề day dứt, một trải nghiệm đớn đau, thậm chí là một khám phá về những góc khuất của cuộc sống. Không chỉ mang màu sắc trữ tình, hay sự khám phá hiện thực, một số câu chuyện ở đây còn mong muốn đưa người đọc phiêu du vào thế giới của tưởng tượng, của liên tưởng xa xăm hoặc đặt con người đối diện với thế giới chìm lấp trong bản thân mình.
Tác giả: Iris Lê
Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.
“Thay lời tri ân đến những đồng nghiệp của tôi, đã và đang chiến đấu với giặc Covid – 19, quyển sách này như một tập nhật ký, ghi lại hiện thực đau đớn của một giai kỳ mang tính lịch sử kéo theo những sự kiện vô tiền khoáng hậu, và những mất mát lớn về nhân mạng, tổn thất về kinh tế nặng nề. Hy vọng, Covid – 19 sẽ để lại nhiều bài học cho thế giới và là tiền đề để có những kế hoạch phòng chống và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn trong tương lai”. – Iris Lê
Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời Covid-19)
Tựa
1. Khi nhận lời biên tập và viết Tựacho một tác giả mới, thú thật, bao giờ tôi cũng âu lo. Lo rằng, tác phẩm ấy có “sạch nước cản”, có xứng đáng để giới thiệu với công chúng? Lần này, với tiểu thuyết (hay tự truyện?) của Iris Lê, tâm trạng này vẫn không có gì khác trước. Và tôi đã đọc. Kỳ lạ, ngay từ đầu những dòng chữ của cô có sức hấp dẫn và cuốn hút mãnh liệt. Tôi đọc một hơi. Tôi đọc một lèo. Gấp lại trang bản thảo. Gió hun hút về chiều. Ngoài kia, chiều đã sẫm. Đột nhiên, mơ hồ thấy đâu đó có chút ánh sáng dẫu le lói nhưng vẫn rực rỡ đến nao lòng.
Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái của Iris Lê đã đem đến cho tôi cảm giác ấy.
2. Có thể nói rằng, đây là một trong những cuốn sách lấy bối cảnh khi toàn thế giới đang đối đầu, choáng váng với đại dịch COVID-19 đã khiến người đọc ngẫm nghĩ mãi. Iris Lê đã viết với tư cách là người trong cuộc - thông qua nhân vật Mia đấy chăng? Tôi nghĩ thế. Bạn có nghĩ thế?
Hãy đọc đi. Đọc để thấu hiểu thêm tấm lòng của các y, bác sĩ đã tận tụy phục vụ người bệnh. Iris Lê kể thật chi tiết, dù nhỏ nhất từ cách đeo mặt nạ N95 đến lúc phải xa gia đình nhằm tránh lây nhiễm; từ lúc phải đối mặt với sự kỳ thị của người chung quanh đến những buồn vui trong nghề y...
Mà, câu chuyện không chỉ có thế.
Ở đây, còn là những suy tư thầm kín, những suy nghĩ của người Việt xa xứ trong va chạm bản sắc văn hóa khi ngụ cư ở nước ngoài; là sự xáo trộn trong quan hệ cùng một cộng đồng đã diễn ra trong “mùa diệt vong” - mùa COVID; là tình người nương vào nhau trong những ngày tháng đen tối ấy. Từng mẩu chuyện nhỏ đầy kịch tính khiến có lúc ta nhói lòng, thở dài… Iris Lê đã kể lại nhẹ nhàng, không “lên gân”, nhờ thế, bức tranh nhiều tâm trạng, nhiều cảm xúc đã quyện vào nhau hài hòa để lôi cuốn con mắt người đọc phải lướt theo, bám theo từng dòng chữ…
Có thể nói, đây là một tiểu thuyết đáng chú ý khi viết về chủ đề “có nỗi buồn gieo mầm nhân ái”. Ánh sáng nhân ái đó, có lúc mờ đi, nhạt dần nhưng chắc chắn không biến mất trong đời sống này. Vâng, những ngày COVID-19 tại Việt Nam, trong nỗi âu lo của từng nhà, từng người, chúng ta đã chứng kiến nhiều tấm lòng thơm thảo đang cùng cộng đồng chung tay sẻ ngọt chia bùi. Một trong những “sáng chế” ấn tượng, phù hợp với quy định phòng chống dịch, với tôi vẫn là chiếc máy phát gạo miễn phí có tên gọi “ATM gạo” hoạt động 24/24. Hay trong giai đoạn 2 phòng chống dịch tại Việt Nam. “ATM gạo” lại trở thành “ATM khẩu trang”.
Còn tại Úc thế nào?
Iris Lê cho biết: “Bên cạnh những mảng màu đen trong bức tranh toàn cảnh về đại dịch COVID-19 còn có những điểm sáng, dù là rất nhỏ nhưng vẫn đủ để khiến người chiến sĩ nơi tuyến đầu thấy ấm lòng. Đó là những khách sạn bắt đầu mở cửa tài trợ chỗ ở miễn phí cho các y tá và bác sĩ trực tiếp chăm sóc bệnh nhân COVID-19.
Đó là những chiến dịch “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook với hơn chục nghìn lượt thích và theo dõi ở từng bang của xứ sở chuột túi. Tất cả bắt nguồn tại Perth, khi Chris Nicholas bắt đầu một nhóm “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook: “Tôi và mẹ tôi muốn nhận nuôi những nhân viên y tế. Mẹ tôi là một đầu bếp giỏi. Tôi là một giáo viên hưu trí, con cái đã lớn và ở riêng. Nếu bạn cần chúng tôi giúp nấu ăn, đi chợ, giữ trẻ em, hay đảm nhận việc giặt giũ, dắt chó đi dạo, thì hãy liên hệ với chúng tôi qua tài khoản này.
Cảm ơn bạn vì đã ở trong số những người đứng đầu chiến tuyến, chúng tôi luôn nghĩ đến bạn”.Và đó chỉ là một trong số hàng trăm, hàng nghìn những mẩu tin khác tương tự như vậy. Vào những thời điểm đen tối nhất, khi cảm thấy bị kéo xuống đáy của vũng bùn tuyệt vọng, Mia lại click vào những trang Facebook ấy, và cô bất giác mỉm cười, cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”.
Những ngọn lửa nhỏ ấy, bao giờ cũng hiện diện quanh ta. Đọc xong nhật ký Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời COVID - 19), một lần nữa điều hướng thiện này lại càng được xác tín đầy thuyết phục. Các nhân vật như Mia, Xie Liu, Anna, Joan, Faith, mẹ của Mia... trở nên gần gũi trong tình cảm người đọc là còn vì lẽ đó.
3. Đọc một tác phẩm gần như đầu tay của tác giả mới, bao giờ tôi cũng nghĩ về hành trình về sau của họ. Có thể nhìn thấy bằng phán đoán lý tính. Nhìn thấy bằng sự linh cảm. Với Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, tôi linh cảm Iris Lê sẽ còn đi xa nữa, nếu cô bền bỉ nhận lấy công việc viết lách như khí trời để thở, chứ không vì lý do gì khác. Nếu thế, từ đây, cộng đồng viết văn ở hải ngoại đã có thêm một tác giả mới, xứng đáng được gọi nhà văn. Được biết Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.
Nếu Iris Lê trở thành nhà văn, điều này có nghĩa gì không? Tôi không biết. Nhưng biết chắc chắn rằng, dù ở chân trời góc biển nào, chúng ta vẫn cần có thêm nhiều nhà văn viết bằng tiếng Việt. Cần lắm. Qua Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, từ sử dụng tiếng Việt đến nỗi lòng của người Việt xa xứ, Iris Lê đã khiến ta “cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”, lẽ nào ta lại dửng dưng? Hãy nhận lấy. Tôi tin bạn sẽ hài lòng.
LÊ MINH QUỐC (9/8/2020)
Trích đoạn:
CHƯƠNG 1 - Vỡ trận
Mia cảm thấy trời đất như quay cuồng. Bọng đái cô căng đầy, đè vào thành bụng đau anh ách nhưng cơ thể bên trong lại đang kêu gào vì thiếu nước, khô héo như một cái cây mùa nắng hạn. Nhiều giờ đồng hồ đóng mình trong mớ đồ bảo hộ lỉnh kỉnh, dày như vải bố, hai bên gò má của cô hằn lên hai lằn của chiếc mặt nạ N95. Nhìn thoáng qua, trông như hai vết bớt kỳ dị bẩm sinh. Cách đeo mặt nạ đúng là không được để không khí thoát ra ngoài, cũng vì thế mà tạo nên những vết lằn chằng chịt trên gương mặt thanh tú ấy. Nếu ai đã từng sử dụng qua mặt nạ N95 một cách đúng chuẩn sẽ hiểu cảm giác khó thở và đau đớn, khi hai cạnh của chiếc mặt nạ buộc phải được kéo căng và siết chặt vào hai bên gò má. Chỉ cần đeo một vài phút, vùng da ấy sẽ đỏ rát, chứ đừng nói đến đeo trong nhiều giờ đồng hồ liên tục. Thời tiết của Úc đang vào thu, nhiệt độ trung bình là 15 độ C nhưng trên gương mặt Mia vẫn lấm tấm mồ hôi vì nóng.
Thật là kinh khủng khi phải tự ngửi hơi thở sặc mùi hành tỏi của chính mình trong một thời gian dài. Mia đã phải ăn qua loa một chiếc bánh burger của cửa hàng McDonald trước giờ vào ca. Các cửa hàng ăn nhanh luôn mọc rải rác trên đường đi, giá lại rẻ. Tuy nhiên ở thời điểm này, chỉ có một phần tư số cửa hàng mua vẫn còn hoạt động, nhưng cũng chỉ cho thực khách lái xe mang về chứ không được ăn tại chỗ.
Đôi khi Mia tự nhìn mình trong gương và giật mình. Mới có ba tháng mà mọi thứ đã thay đổi một cách chóng mặt như thế sao? Một Mia xinh đẹp, nổi tiếng là hoa khôi của Khoa Bệnh Truyền nhiễm của bệnh viện Westmead, bệnh viện lớn nhất nước Úc, giờ đây đã tàn tạ đến nỗi không còn có thể nhận ra. Gương mặt hơi vuông cá tính kết hợp độc đáo với đôi gò má đầy đặn của trẻ thơ, làn da căng mướt không tì vết và sắc da tươi tắn như búp hoa vừa uống những giọt sương mai, giờ đã được thay bằng một cái đầu lâu khô quắt, hai trũng má hõm sâu. Căng lên trên khung đầu lâu ấy là lớp da xỉn màu, tái nhợt, lấm tấm mụn vì cà phê và những đêm mất ngủ. Đó là chưa kể đến những vết lằn chằng chịt được tạo ra bởi sự ma sát giữa những chiếc nón, những chiếc kính bảo hộ và khẩu trang siết chặt ma sát với làn da mỏng manh.
….
Cô gái mạnh mẽ ấy gần đây đã khóc rất nhiều, khóc vì kiệt sức, khóc vì phẫn nộ với thời thế và cảm thấy bản thân mình lực bất tòng tâm. Việc phải tăng giờ làm, làm ca kéo dài 12 tiếng, liên tục phải đóng mình trong đồ bảo hộ kín mít từ đầu đến chân vừa nóng vừa khó thở khiến đội ngũ y tế phải chịu đựng một lượng áp lực kinh khủng trong mùa dịch. Chưa kể đến việc phải tiếp xúc gần như cả ngày với những người bệnh truyền nhiễm làm tăng thêm sức nặng của sự căng thẳng. Tập thể nhân viên y tế của Úc không chỉ hoang mang vì thực trạng nội tại mà còn bị tra tấn tinh thần bởi nỗi ám ảnh nước Úc rồi sẽ đi vào vết xe đổ của các cường quốc khác như Ý, Anh, Mỹ v.v...Song song với sự căng thẳng từ việc chiến đấu với dịch bệnh, COVID-19 đã kéo theo muôn vàn những nỗi lo toan khác, những nỗi lo toan rất đời thường…
Trở Về Từ Iraq
Đây là cuốn sách thứ ba của tác giả, điểm chung là tính chân thực và sự tinh tế, từ những chi tiết tưởng chừng rất nhỏ trong đời sống mà tác giả phát hiện, chắt lọc và chuyển tải. Mỗi câu chuyện đời sống chân thực là một lát cắt phô ra những thớ, những vân đọng lại trong thân một cội gỗ già. Nó nổi lên và lấp lánh như chứng tích thời gian được hun qua nắng gió, mồ hôi và những trải nghiệm cuộc đời của một người lao động chăm chỉ, thiện lương. Bút ký của Trần Kiêm Hạ hấp dẫn người đọc như khi ta nhìn một vân gỗ, vân đá đẹp, như chén trà Bắc…
Giá trị nhất của tác phẩm này ở chỗ nó kết tinh từ cuộc sống của một con người yêu lao động, yêu quê hương đất nước và trân quý các giá trị truyền thống của gia đình, của quê hương.
Hơn 20 bút ký riêng biệt trong một tập sách không tới 200 trang, đọc xong độc giả sẽ có cảm giác mình vừa gấp lại một bộ tiểu thuyết vậy.
Văn Học Trung Đại Việt Nam Nhìn Từ Thể Loại Tiểu Thuyết Truyền Kỳ Chữ Hán
Là một bộ phận thuộc văn học trung đại Việt Nam, tiểu thuyết chữ Hán, trong đó tiêu biểu là tiểu thuyết truyền kỳ có vị trí hết sức quan trọng trong buổi đầu văn học viết Việt Nam được viết bằng chữ Hán.
Chữ Hán là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, được du nhập và sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên, cùng với chính sách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Đến thế kỷ thứ X, Việt Nam bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ. Nhưng người Việt vẫn sử dụng chữ Hán làm văn tự của mình. Vì thế, sự ra đời của các thể loại văn học chữ Hán Việt Nam, trong đó có tiểu thuyết truyền kỳ Hán văn không thể không có nguồn gốc và ảnh hưởng từ những tác phẩm cùng loại ở Trung Quốc.
Thực tế, những tác phẩm truyền kỳ chữ Hán Việt Nam vốn tiếp thu từ thể loại truyện kỳ ảo Trung Quốc, mà tác phẩm tiêu biểu nhất hiện còn ở Việt Nam là Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông thế kỷ XV và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thế kỷ XVI...
Tuy nhiên, những tác phẩm truyền kỳ này của Việt Nam lại có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với nền văn hóa, văn học dân tộc, đặc biệt là với văn học dân gian. Tiêu biểu như Thánh Tông di thảo bao gồm đó những truyện truyền kỳ đậm đà bản sắc dân tộc, trong có nhiều truyện mang tính ngụ ngôn; cùng Truyền kỳ mạn lục là những câu chuyện kể về nhiều nhân vật, nhiều sự kiện kỳ lạ xảy ra từ thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Nếu Thánh Tổng di thảo là tác phẩm văn chương truyền kỳ đánh dấu mốc quan trọng về sự trưởng thành của văn học chữ Hán Việt Nam thế kỷ XV thì sang thế kỷ thứ XVI, Truyền kỳ mạn lục là một thành tựu lớn lao của văn học viết trung đại Việt Nam. Những tác phẩm truyền kỳ trên có sức ảnh hưởng rộng rãi cả về nghệ thuật và nội dung tư tưởng với các tác phẩm văn học, lịch sử Hán văn về sau.
Thực tế , sự ra đời của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ Hán văn Việt Nam khẳng định bước phát triển nhảy vọt về chất của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam. Vì thế thể loại văn học này được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu.
Tập sách là kết quả học tập và nghiên cứu chuyên sâu của tác giả trong nhiều năm qua (phát triển từ đề tài "Việt Nam ngũ chủng Hán văn truyền kỳ tiểu thuyết nghiên cứu", thực hiện và bảo vệ ở Trường Đại học Nguyễn Trí tại Đài Loan), lại được sự giúp đỡ, chỉ dẫn của nhiều học giả, chuyên gia trong lĩnh vực này, chắc chắn sẽ là tài liệu bổ ích với những người quan tâm đến văn học và ngữ văn Hán Nôm Việt Nam.
Mục đích của đề tài được xác định là “mong muốn nhìn nhận một cách hệ thống về đặc điểm và giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán Việt Nam, cùng những nét đặc sắc mà truyền kỳ đã cống hiến cho một nền văn học trung đại Việt Nam qua góc nhìn nghệ thuật sáng tác. Trên cơ sở đó, chuyên luận góp phần khẳng định giá trị và vị trí của tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán Việt Nam trong nền văn học trung đại Việt Nam, cũng như vị trí quan trọng của nền văn học chữ Hán Việt Nam trong văn học trung đại ở các nước cùng sử dụng và ảnh hưởng văn hóa chữ Hán.
- Trích Lời tựa
Tác giả: Vũ Hạnh
Tên thật Nguyễn Đức Dũng
Sinh ngày 15/07/1926
Quê quán: xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, Quảng Nam
Bút danh khác: Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, Minh Hữu, Nguyên Phủ, A.Pazzi
Các tác phẩm đã xuất bản:
Tuyển tập: Bút máu, Chất Ngọc, Vượt thác, Người chồng thời đại.
Truyện dài: Lửa rừng, cô gái Xà – Niêng, Tính sổ cuộc đời, Con chó hào hùng, Ngôi trường đi xuống.
Tiểu luận, phê bình: Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu văn nghệ, Cha mẹ bơ vơ, Tuổi trẻ nổi loạn, Người Việt cao quý.
Quá trình hoạt động:
Năm 1945: Tham gia Mặt trận Việt Minh, thành lập đoàn Kịch võ trang tuyên truyền trong Ủy ban Tổng khởi nghĩa giành chính quyền huyện Thăng Bình.
Năm 1946: Khi thực dân Pháp quay lại mong tái chiếm Việt Nam, ông thành lập đoàn Kịch Tuyên truyền kháng chiến, rồi tiếp tục dạy văn ở các trường Thăng Bình, Quế Châu, Phan Chu Trinh.
Năm 1954: Sau Hiệp định Genève, ở lại hoạt động, đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình và nhà lao Hội An.
Năm 1956: Cuối 1956, thoát khỏi nhà lao Hội An, vào Sài Gòn, đấu tranh bằng con đường báo chí, được Khu ủy Sài Gòn – Gia Định giao nhiệm vụ hoạt động đơn tuyến công khai ở nội thành Sài Gòn, với bí danh là Ba Thật.
Năm 1966: Vũ Hạnh là Tổng thư ký Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc, một tổ chức cách mạng thành lập ngay giữa thủ đô ngụy quyền.
Năm 1969: Khi Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam sắp thành lập, ông được giao nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nhưng trước khi ra vùng Giải phóng một ngày thì bị địch bắt. Đây là lần tù thứ tư trong năm lần dưới chế độ cũ.
Năm 1975: Sau 30/04/1975, ông là Tổng Thư ký Hội Liên hiệp – Văn học Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2007: Được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Bút máu
“Bút máu là tập truyện ngắn đặc sắc trong cuộc đời năm chục năm cầm bút của Vũ Hạnh. Bú máu như là tuyên ngôn của tác giả về văn chương nghệ thuật. Mười hai truyện ngắn trong tập sách này toát lên ý chí, nghị lực, lòng nhân ái của một nhà văn dấn thân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đọc Bút máu, dù là viết về chuyện xưa hay là trực tiếp nói chuyện đương thời, tôi cảm nhận văn chương Vũ Hạnh luôn tươi rói niềm tin vào cuộc sống, cào tình người; Vũ Hạnh không bao giờ lẫn lộn, thỏa hiệp giữa chính và tà, nhân nghĩa và phi nhân…” - Nhà văn Triệu Xuân
Trích đoạn:
Bút máu
Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, Sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm, đang nằm nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn, Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh bèn gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày Sinh tỉnh dậy, lòng lại khát khao cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư, nhưng vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số oan hồn đòi mạng. Từ đó, Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng có giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua tội ác mờ mịt nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ đến vật dục mà quên ái tình, khêu cho thiên hạ tiếc điều tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích, biết đâu chẳng dồn chất thành ngàn dãy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
Câu chuyện anh Tư đem hết số tiền dành dụm xây mộ cho cha, mẹ mình, làm quà kính tặng người thầy dạy củ khiến cho Ba Chữ phải suy nghĩ nhiều. Nơi người nông dân còn trẻ tuổi này có những ý tưởng khác với thói tục, và khác biệt ấy mang đậm tính chất hợp lý, hợp tình. Ba Chữ không có trình độ suy diễn xa hơn về các sự việc, song anh mơ hồ cảm nhận là những người Việt tìm về khai thác vùng đất miền Nam mới mẻ, rộng lớn và còn khá hoang vu này đã do hoàn cảnh tác động mà có, nhiều sự cải cách, nhiều sự sáng tạo, họ luôn tìm kiếm mới lạ trong cách suy tưởng, cũng như trong mọi sinh hoạt.
Tranh tường Khmer kế thừa thành tựu nghệ thuật tạo hình truyền thống mà trực tiếp là nghệ thuật trang trí nội ngoại thất tự viện, tranh cuộn trên vải/ preah bot, tranh vẽ trên giấy bìa "kờrăng". Do đó, tranh tường Khmer, độc đáo không chỉ về mặt đề tài mà cả về đặc trưng hình họa, màu sắc và phong cách tạo hình nghệ thuật. Chính vì vậy, tranh tường Khmer cần được tìm hiểu một cách nghiêm túc cả về nội dung và kỹ thuật để có sự hiểu biết đầy đủ. Bên cạnh đó, thông qua những bức tranh tường Khmer cho thấy thị hiếu thẩm mỹ và cái nhìn mỹ thuật không chỉ của người nghệ nhân tạo tác mà đó còn là của cả cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long này.
Phương pháp phê bình điện ảnh
Tác giả: Trần Luân Kim
Nhà nghiên cứu, lý luận phê bình Điện ảnh
Nguyên Viện trưởng Viện phim Việt Nam
Đã xuất bản 10 cuốn sách, trong đó 6 cuốn sách, trong đó 6 cuốn là đồng tác giả
Phương pháp phê bình điện ảnh
Lý luận - phê bình điện ảnh đồng hành và hỗ trợ sáng tác điện ảnh
Quyển sách Phương pháp phê bình điện ảnh của tác giả Trần Luân Kim đã đạt giải Nhì Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 2012 – 2017, gồm 4 phần: Chế tác phim truyện - Sơ thuật mấy vấn đề cơ bản; Phê bình phim truyện - Phương pháp và nội dung; Thực hành phê bình phim; Những bài phê bình phim.
Mở đầu
Là nghệ thuật tổng hợp nhiều cấp độ, nội hàm ĐIỆN ẢNH bao chứa các nội dung hoạt động với nhiều chuyên ngành khác biệt nhau. Trong đó, mỗi hoạt động hoặc mỗi chuyên ngành đều dung nạp khối lượng lớn kiến thức cùng hệ thống thủ pháp và kỹ năng thể hiện nghệ thuật hết sức phong phú, đa dạng. Lĩnh vực LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH ĐIỆN ẢNH, vì thế cũng trở nên đặc biệt rộng lớn và phức tạp.
Con đường tiếp cận, nghiên cứu điện ảnh thông qua lý luận - phê bình là con đường dài nhiều chặng, xuyên suốt các lĩnh vực hoạt động tổng hợp của điện ảnh; từ các yếu tố liên quan đến văn học, nghệ thuật tạo hình, dàn dựng cảnh, xử lý không gian thời gian, chọn lọc âm thanh, nghệ thuật diễn xuất... đến các vấn đề thuộc về tài chính, thương mại, cùng các lĩnh vực khác như vật liệu ghi hình, kỹ thuật tiền kỳ, hậu kỳ, phương thức quảng bá, v.v... Riêng lĩnh vực nghệ thuật, để nghiên cứu thấu suốt nghệ thuật điện ảnh, người ta không thể không đề cập tới hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp như mỹ học điện ảnh, tâm lý điện ảnh, ký hiệu điện ảnh, lịch sử điện ảnh, xã hội học điện ảnh,... Phạm vi rộng lớn của nội hàm điện ảnh đặt công tác lý luận phê bình điện ảnh vào một vị thế vừa chông chênh khó nhọc, vừa tinh vi lý thú.
Lý luận điện ảnh và phê bình điện ảnh là hai phạm trù gắn kết, hỗ trợ nhau chặt chẽ, không thể tách rời. Chính vì vậy, trước khi đề cập sâu lĩnh vực phê bình điện ảnh, thiết tưởng, tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật điện ảnh có mối liên quan trực tiếp đến phương pháp phê bình điện ảnh, là việc cần thiết.
Tác phẩm điện ảnh (rộng hơn là tác phẩm nghe - nhìn) tác động trực tiếp đến quảng đại công chúng, do đó lý luận điện ảnh có mối tương quan mật thiết với tiến trình phát triển xã hội. Sự đa dạng, phức tạp của xã hội, vì thế cũng in dấu đậm nét lên sự đa dạng, phức tạp của lý luận điện ảnh. Hoàn cảnh và các điều kiện khác nhau của xã hội quyết định đặc trưng cơ bản của lý luận điện ảnh. Lý luận điện ảnh phụ thuộc vào hình tượng điện ảnh, và hình tượng điện ảnh cũng đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc của xã hội, tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến nhận thức xã hội, tạo nên nguồn tác động hữu ích hai chiều. Từ đó có thể xác định rằng, lý luận điện ảnh là môi giới tích cực giữa hình tượng điện ảnh với xã hội. Cũng có thể nói khác: hình tượng điện ảnh là chốn ký thác tinh thần và tình cảm của các cá thể trong xã hội; qua đó mà thấu hiểu mình thông qua việc tham chiếu hình tượng điện ảnh.
Hình tượng điện ảnh là những mảnh vụn được kết nối từ lịch sử lịch sử của quá khứ và hiện tại. Chúng được ghép lại, qua lý luận phê bình điện ảnh, giúp ta nhận diện một phần lịch sử. Lý luận điện ảnh giải phẫu hình tượng điện ảnh, và góp phần kích thích lịch sử phát triển. Khi một hình tượng điện ảnh được đông đảo công chúng hoan nghênh, chứng tỏ nó đã làm tròn nhiệm vụ phản ánh một tâm lý xã hội tương đối phổ biến nào đó. Thông qua phân tích hình tượng, người ta có thể phát hiện và lý giải những mạch tâm lý ẩn chìm, và từ đó có thể cảm nhận nhịp đập của xã hội.
Lý luận điện ảnh đóng vai trò trọng yếu trong việc giải mã những ẩn tàng của nghệ thuật biểu đạt điện ảnh. Nghệ thuật điện ảnh thông qua hư cấu, tạo ra những dạng thái và hình tượng xã hội; được lý luận điện ảnh soi chiếu, phản ánh.
Lý luận - Phê bình điện ảnh là cây cầu, nối liền nghệ thuật điện ảnh với công chúng và xã hội. Vai trò quan trọng của lý luận điện ảnh là hướng đạo sự xuất hiện các hình tượng khác nhau; đồng thời luận giải xác đáng các hình tượng đó trước công chúng.
Giới lý luận điện ảnh phân chia nội hàm lý luận điện ảnh ra hai mảng chính: lý luận truyền thống và lý luận hiện đại. Lý luận điện ảnh truyền thống lấy phân tích tinh thần và phê bình hình thái ý thức làm trụ cột. Nó chủ yếu đề cập đến tác giả, tính hiện thực, tính giáo dục và tính thẩm mỹ. Lý luận điện ảnh hiện đại chủ yếu sử dụng hệ thống lý luận về ký hiệu học, về phân tích tinh thần, phê bình hình thái ý thức, chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hậu hiện đại... Lý luận điện ảnh hiện đại khởi phát cuộc cải cách phương pháp tư duy, quan sát điện ảnh từ góc độ ký hiệu học. Dòng lý luận này tuy chưa hoàn thiện, song về bản chất, mang tính phê phán và cải cách rất đậm nét. Nó đào sâu các vấn đề về bản tính điện ảnh cùng mối quan hệ giữa điện ảnh với xã hội, làm thay đổi quan niệm truyền thống về bản chất của mối quan hệ giữa nghệ thuật điện ảnh với hiện thực đời sống. Cả hai, lý luận điện ảnh hiện đại và lý luận điện ảnh truyền thống đều cùng song hành tồn tại, hình thành một cấu trúc lý luận tổng hợp. Tuy cả hai không thể hòa vào nhau thành một thể hệ lý luận thống nhất và hoàn chỉnh; song chúng có thể tham chiếu nhau, tạo ra mối quan hệ đa chiều; cung cấp cho xã hội nhiều khả năng lưa chọn, giúp lý giải điện ảnh từ nhiều góc độ phong phú khác nhau.
Ở Việt Nam, lý luận điện ảnh tiến bước chậm trễ. Mặc dù nền điện ảnh dân tộc đã hình thành và phát triển, cho đến nay đã ngót 60 năm, vẫn chưa xây dựng được hệ thống lý luận riêng. Trong nhiều năm, hoạt động điện ảnh Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào đường lối văn nghệ của đất nước cùng hệ thống lý luận chuyên ngành chủ yếu đến từ Liên Xô. Lý luận điện ảnh Việt Nam, như vậy, cũng chưa xây dựng được cơ sở lý thuyết cơ bản, ngay cả ở lĩnh vực thông dụng nhất là nghệ thuật chế tác phim. Trong hoàn cảnh đó, khi một phần lý luận điện ảnh hiện đại từ bên ngoài thâm nhập vào, điện ảnh Việt Nam chưa sẵn sàng điều kiện để tiếp thu chủ động và có chọn lọc. Quan niệm chi phối lâu nay ở ta coi điện ảnh là công cụ nhằm đạt tới các mục tiêu về đạo đức chính trị xã hội; đòi hỏi điện ảnh phải hàm chứa tính xã hội nổi bật, trên thực tế hình thành lý luận điện ảnh và xã hội. Trong điều kiện đó, tính thương mại đơn thuần trong điện ảnh không được khuyến khích, mà đòi hỏi yếu tố thương mại cũng phải phục vụ các mục tiêu lành mạnh của xã hội. Hiện nay, chúng ta cần từng bước hình thành cơ sở lý luận cơ bản cho nền điện ảnh dân tộc. Cần kết hợp lý luận điện ảnh truyền thống với lý luận điện ảnh hiện đại; vận dụng phù hợp với hoạt động thực tiễn; đồng thời đáp ứng tích cực nhu cầu phát triển của điện ảnh nước nhà trong tương lai gần và xa. Theo các bài viết giới thiệu phê bình phim đã được đăng tải trên các phương tiện đại chúng thời gian qua, có thể thấy, đặc điểm phương pháp lý luận của số đông tác giả là không thâm nhập sâu vào cấu trúc mỹ học của bộ phim, mà chỉ dừng sự quan tâm ở nội dung cũng như giá trị, khía cạnh văn học - xã hội của tác phẩm đó. Nhiều tác giả đã chú trọng phân tích hình thái ý thức của tác giả phim và tác phẩm. Và khi phân tích hình thái ý thức thì nhiều tác giả có xu hướng đi sâu vào mối quan hệ giữa dục vọng con người với quy phạm xã hội. Do tồn tại hiện tượng thiên lệch trong phân tích, không lấy ngôn ngữ biểu hiện làm trung tâm, nên phần lớn các bài phê bình phim chưa thực sự đụng chạm đến những vấn đề bản chất của nghệ thuật điện ảnh.
Trích đoạn:
Tính năng giải trí của điện ảnh
Người xem bình thường đều có nhu cầu giải trí khi thưởng thức điện ảnh. Họ coi điện ảnh là phương tiện giải tỏa các áp lực đời sống hàng ngày, an ủi những ước mơ không thể thực hiện được trong đời sống. Có người coi trọng công năng xã hội của điện ảnh, chủ trương gắn liền chức năng giải trí cùng chức năng giáo dục; thực hiện đạo đức hóa, cao thượng hóa, thể chế hóa giải trí.
Song cũng có người chủ trương đơn thuần hóa chức năng giải trí, tuyệt đối hóa vai trò giải trí của điện ảnh, rằng điện ảnh chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ đơn thuần của người xem, không có quan hệ gì với những vấn đề đạo đức xã hội và thẩm mỹ; vì nó đáp ứng bản năng của con người. Họ nhấn mạnh rằng người mua vé đến rạp chỉ cốt để mua vui, mà mua vui thì không cần gì khác ngoài cái lạ, cái khác thường và sự kích động. Đây là quan điểm cực đoan, biểu hiện của sự dễ dãi, bế tắc trong đường hướng và khả năng chế tác những tác phẩm có giá trị đích thực, đủ sức lôi cuốn đông đảo người xem. Giải trí là chính đáng, nhưng luôn cần đi đôi với đạo đức, làm cho con người phấn chấn, thoải mái và hướng thiện hơn.
* Qua kết quả điều tra và nghiên cứu thực tiễn, có thể phân khán giả điện ảnh thành bốn nhóm sau:
1. Phần lớn thích những truyện phim éo le có nhiều tình tiết hoạt náo.
2. Giới nữ say mê những câu chuyện khơi gợi tình cảm, gây động lòng.
3. Một bộ phận thích những cốt truyện hàm chứa không gian, thời gian dài rộng để có điều kiện theo dõi các thân phận và cá tính đặc biệt của nhân vật.
4. Khán giả trí thức chuộng những tác phẩm xây dựng được hình tượng nổi bật và có ý nghĩa sâu lắng, được xử lý nghệ thuật sắc sảo.
* Đối với phim truyện, những yếu tố được phần đông người xem ưa thích thường là:
- Có tựa đề gây chú ý.
- Có sự tham gia của diễn viên nổi tiếng.
- Có nhân vật bất hạnh, tạo thương cảm.
- Có nhân vật người hùng kiệt xuất, đủ tài trí vượt qua mọi chướng ngại hiểm nguy để giành chiến thắng.
- Có nhiều sự kiện căng thẳng gây hồi hộp.
- Tạo được hấp lực, cuốn người xem vào những tình tiết ly kỳ.
- Nghệ thuật thể hiện cao tay giấu kín được các tình tiết trọng yếu, khiến người xem phút chốc lạc bước trong suy đoán của mình.
- Đem đến ấn tượng khó quên sau khi xem xong phim.
Phim làm ra phải có người xem và có càng đông. Đó là quan điểm hợp thời.
Nhân vật điện ảnh
Trong sáng tác và chế tác điện ảnh, nhân vật là nhân tố trung tâm. Nói cách khác, khắc họa nhân vật là lao động sáng tạo quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn, tinh tế bậc nhất đối với tác giả điện ảnh.
Nhân vật trong phim vừa là hạt nhân thuật kể, là động lực triển khai cốt truyện; vừa là hạt nhân của xung đột kịch tính, là cơ sở tạo hình của tác phẩm. Nhân vật trong phim được đặt trong đòi hỏi cơ bản là phải đại diện cho một loại người nào đó; phải có tính cách rõ nét, tuyệt nhiên không phải là mẫu người chung chung; được thể hiện nổi bật qua hệ thống tình huống, sự kiện, và đối thoại tiêu biểu. “con người” ở đây được hiểu là con người tự nhiên, con người xã hội. “Nhân vật” ở đây là mẫu người được hư cấu và là ký hiệu của kết cấu kịch, là hình tượng điện ảnh do diễn viên sáng tạo nên. Trong tiềm thức mọi người, nhân vật là diễn viên, là vai diễn.
Miloud cúi xuống phía dưới quầy và phát hiện ra một thằng bé - chừng chín, mười tuổi chăng? - một thằng bé nhỏ xíu đang cố gắng kiễng lên để nhìn thấy ông... Trên nền đất cạnh nó là một chiếc vali nhỏ màu nâu, quai màu trắng hơi nhô lên, như đang đứng đợi xem những sự kiện tiếp theo sẽ diễn ra. Miloud, với một trí thông minh tuyệt đỉnh đã cho rằng cậu lỏi này hẳn là một học sinh nội trú... Người đàn ông và đứa trẻ ngắm nhìn nhau, quan sát nhau, người này ngạc nhiên, kẻ kia lại gần như lo sợ, cứ chiếu theo bộ mặt ốm yếu của nó thì biết, trên đó gắn cặp mắt to đang kêu gào trợ giúp. Thì cũng có cái để mà hoảng loạn đấy chứ: bản mặt đỏ bừng đang cúi về phía nó, cặp mắt gườm gườm, nửa miệng đã trơ lợi, giống hệt như miệng của Pat Hibulaire - con mèo đen to tướng với dáng vẻ tàn ác khiến ai nấy đều kinh hồn trong phim Mickey. Con mèo Pat Hibulaire ấy, nó làm cái khỉ gì trong trường trung học Lyautey nhỉ?
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã sản sinh ra một khối lượng văn bản rất lớn, đa dạng, phong phú cả về hình thức và nội dung như: về lãnh đạo, quản lý; tổ chức hoạt động doanh nghiệp, nhân sự; sản xuất kinh doanh; tài chính, kế toán, hành chính, quản trị. Hệ thống văn bản của doanh nghiệp không chỉ phản ánh quá trình hình thành và phát triển tình hình, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và những bài học kinh nghiệm ban đầu thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới, mà còn phản ánh chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật đúng đắn của Nhà nước Việt Nam về việc tiếp tục xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp hóa đi theo hướng hiện đại hóa vào những năm đầu của thế kỷ XXI.
Về mặt thực tiễn, hệ thống văn bản của doanh nghiệp còn là công cụ, phương tiện hữu ích cho doanh nghiệp lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hàng ngày. Đặc biệt là việc thực hiện chức năng cơ bản của văn phòng doanh nghiệp hiện đại trong thời kỳ bùng nổ thông tin, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 là: thu thập thông tin, xử lý thông tin trợ giúp cho lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp đưa ra những quyết định nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn, sáng tạo nhằm đạt năng suất, lợi nhuận, hiệu quả cao....
Đoạn Trích:
"Tôi may mắn được duyên lành khi nhận tập bản thảo Món ngon quê nhà của Tiến sĩ Dương Hoàng Lộc - người mà tôi rất mến mộ và quý trọng. Tác phẩm lần này của anh viết về ẩm thực đã cuốn hút tôi đọc suốt hai ngày nghỉ cuối tuần bởi sự phong phú về nội dung, sự nhẹ nhàng, hấp dẫn ở cách trình bày, sự trong sáng, ý nhị, trẻ trung của người từng trải nghiệm. Và đặc biệt, tấm chân tình của tác giả dành cho từng món ăn, hương vị của quê nhà rất tha thiết, khoáng hoạt mà chuẩn xác, dễ thấm vào lòng người.
Ăn uống hẳn nhiên là một nhu cầu tự nhiên và chính đáng, là điều kiện tất yếu của sự sống. Mọi sinh vật đều phải ăn để sống, nhưng thú vị là chỉ có loài người mới biết nấu ăn. Không chỉ biết nấu ăn, con người còn có một ngàn lẻ một cách ăn và cách chế biến món ăn khác nhau...."
Không cổ kính như Hà Nội, trầm mặc như Huế, Sài Gòn mang trong mình tính năng động của một thành phố trẻ ở mảnh đất phương Nam. Trải qua hơn 300 năm lịch sử, Sài Gòn đã để lại trong nó nhiều dấu ấn văn hóa, đó là những địa danh, di tích, nhân vật, chợ búa, phố xá cùng với những nét tín ngưỡng, ẩm thực, tính cách… vừa dung dị mà cũng rất đời thường. Những nét hiện đại song hành cùng với các “cổ tích”, làm nên một “hồn cốt” riêng của Sài Gòn. Một Sài Gòn bao dung, rộng mở với những lớp cư dân đến đây từ mọi miền qua những dòng chảy lịch sử khác nhau. Họ đã không còn phân biệt dân chính gốc hay ngụ cư, tất cả chung tay xây đắp nên một “Hòn ngọc Viễn Đông”. (Nguyễn Thanh Lợi)
Nếu ví cuộc sống là một khuông nhạc thì ở đó, mỗi một con người là một nốt nhạc. Vậy sẽ có người may mắn được làm nốt thăng thì cũng có người lặng lẽ làm một nốt lặng, có người ở nốt bổng thì cũng có người ở nốt trầm. Song dù trầm hay bổng, thì mỗi một nốt nhạc đều có một giá trị nhất định trong khuông nhạc, để tạo nên “bản tình ca cuộc sống” đầy đủ các cung bậc cảm xúc…
22 truyện ngắn, 22 câu chuyện với rất nhiều thân phận con người trong xã hội hiện đại. Những câu chuyện chỉ quanh quẩn đâu đây trong cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ này. Nó như một bản tình ca mà chúng ta hay nghêu ngao hát, đôi khi vì quá quen nên không nhận ra mình đã từng gặp họ hay họ đã từng lướt qua đời mình.
Từ trước đến nay, số lượng tác phẩm văn học về đề tài lịch sử trên văn đàn không hiếm, nhưng những tên tuổi được ghi nhận, được đánh giá cao thì lại không nhiều. Vũ Văn Song Toàn nằm trong nhóm tác giả trẻ kể truyện lịch sử được đánh giá là vô cùng dũng cảm.
Lịch sử là những câu chuyện của ngày hôm qua, nghĩa là những chuyện đã cũ. Chuyện đã cũ lại còn mịt mờ vì bụi thời gian và mờ vì nó từng bị chính những tác nhân lịch sử cố ý xóa mờ. Làm thế nào để sáng tỏ lại những câu chuyện ấy, làm mới lại những câu chuyện ấy? Làm thế nào để tìm ra giá trị đích thực của những “khoảng trống”, những “hố đen” lịch sử ấy? Thiết nghĩ, ngoài lòng dũng cảm, tài năng, sự bén nhạy, tác giả cần phải có một kiến thức lịch sử đủ sâu, đủ rộng và một tấm lòng vị tha.
Tác phẩm là tập hợp những truyện ngắn viết về đề tài lịch sử, những nhân vật lịch sử dưới góc nhìn độc đáo, thú vị của tác giả trẻ Vũ Văn Song Toàn.
"Nếu bạn là một CEO, hãy mua cuốn sách này cho nhóm của mình và dành hẳn một (hoặc hai) ngày nghỉ để tiến hành một cuộc đánh giá trung thực xem bạn chấm điểm như thế nào cho 100 đề xuất của Martin Newman trong việc chuyển dịch văn hóa dịch vụ của mình. Nếu bạn không phải CEO, hãy mua cuốn sách này và đưa nó cho CEO của bạn. (Richard Pennycook - Giám đốc không điều hành và chủ tịch, mảng bán lẻ"
"Một cuốn sách ngắn gọn, thực tế, thú vị và kích thích tư duy, mang lại nhữn cái nhìn thấu hiểu mới mẻ về hành vi người tiêu dùng và cách cải thiện trải nghiệm mà bạn đem đến cho khách hàng"
"Không sóng sánh, đậm đặc rơi như những giọt cà phê phin Việt Nam, nhưng thứ nước hòa tan màu nâu cánh gián của người Ottoman đã kể lại những câu chuyện thật hay và thơm như chất cafein luôn gây nghiện vào mỗi sáng mai thức giấc, hay những khi dừng chân trên đường lang thang qua phố Istanbul hoặc xuôi về phương Nam xứ Thổ …
Trong từng giọt cà phê ấy đã gói nâu tròn một phần nào đó lịch sử và văn hóa của đế chế Ottoman và cả đế chế Constantinople trước đây. Đến xứ Thổ, người lữ hành hay nảy ra sở thích “kỳ lạ” như cách họ đã từng rong chơi theo những cánh hoa tulip từng gây sóng gió tại các quốc gia châu Âu.
“…Những ngón tay run run chạm khẽ vào chiếc ấm đất, màu men tím thẫm ngả sang ánh tối rồi dựng lại ở vệt trắng mờ cong cong như cánh hoa khô… Nó chỉ dùng pha duy nhất một loại trà… Đây là chiếc ấm đất Tử Sa nhưng pha thêm chút tro hoa bưởi… Trà xuân núi Ngọc ướp hương bưởi rừng Thung Mây không chỉ thơm mùi hoa mà còn tròn nguyên vị sương của núi, nó chát đằm mà mượt như lụa, vừa nồng nàn hối hả như thời gian hữu hạn, lại êm và ngọt lửng lơ lững thững như khí xuân chưa muốn giao mùa…”
(Trích Hoa gạo đáy hồ).
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
Tác giả: Trần Thuận
Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học
Sinh ngày 02.12.1957
Quê quán: Thừa Thiên Huế
Từ 1977 – 1986 dạy học ở Thừ Thiên Huế
Từ 1986 – 2008 GIảng dạy tại trường Cao đẳng Sư Phạm, Đại học Bạc Liêu
Từ 2008 đến nay Giảng dạy tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
--- Đặc trưng nổi bật trong văn hóa Nam bộ là sự cộng cư và giao thoa văn hóa giữa các tộc người. Do đặc tính của vùng “đất mới”, quá trình khai phá và tạo dựng diễn ra trong bối cảnh có sự chung tay của nhiều lớp cư dân, của nhiều tộc người, cà cư dân bản địa lẫn di dân từ mọi miền đến đây. Trong bức tranh Nam bộ từ thế kỷ XVII – XVIII, và cả sau này, mỗi tộc người có mặt ở đây, cho dù có khác nhau về văn hóa truyền thống và tôn giáo… nhưng họ vẫn thể hiện được nhiều nét tương đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội…---
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa tập 3 sẽ đề cập đến những vấn đề sau: Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp; Đặc điểm lịch sử vùng đất Bình Dương thời khai phá (thế kỷ XVII - XVIII); Bức tranh văn hóa Nam bộ dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ XVII – XVIII); Chính sách của triều Nguyễn trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đất Nam bộ; Nhà Nguyễn thực thi chủ quyền đối với vùng biển đảo Nam bộ (giai đoạn 1802 - 1858); Vùng đất Ba Giồng trong cuộc chiến giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn ở Gia Định (1776 - 1788); Thương cảng Sài Gòn trong đời sống xã hội Nam kỳ thời thuộc Pháp; Lụa phương Nam; Tục thí giàn ở Nam bộ- Giá trị nhân văn và đôi điều trăn trở; Sài Gòn nửa đầu thế kỷ XIX qua ghi chép của người phương Tây; Sài Gòn trước lúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; Việc xác lập, bảo vệ chủ quyền Côn Đảo và cuộc đấu tranh của tù nhân giải phóng Côn Đảo góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Phụ nữ trong phong trào đô thị ở Sài Gòn góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước…
THAY LỜI NÓI ĐẦU
BẬP BÙNG ÁNH LỬA
Người dân Việt vốn mang trong mình ngọn lửa thiêng dân tộc được hun đúc hàng nghìn năm. Rời đất Tổ vào Nam khẩn hoang, dựng làng, mở cõi, ngọn lửa bập bùng xua đi gian khó, dẫn lối đưa đường tạo thế đứng hiên ngang. Ngọn lửa bập bùng xua bóng đêm đen, cháy cả tâm can nỗi lòng xa xứ, làm khiếp vía kẻ bạo tàn, thiêu rụi lũ xâm lăng, giữ gìn từng tấc đất cha ông đã bao đời gầy dựng.
Kháng chiến trường kỳ ngọn lửa lan nhanh, dân ta quyết phải giành tự do độc lập. Đất nước thanh bình, ngọn lửa thiêng thôi thúc, cháu con kết đoàn vượt mọi phong ba, xây dựng nước non ngày thêm tươi đẹp, để khỏi phụ lòng Tiên Tổ đã thắp sáng lửa tin yêu.
Mấy trăm năm trước, khi vùng đất này còn hoang nhàn đầy lau sậy, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh, đây đó cọp beo còn tung hoành ngang dọc, dấu chân người chỉ lác đác ở triền sông, cuộc Nam tiến cứ diễn ra như một dòng chảy bình thường, tất yếu của lịch sử, đã đưa lưu dân Việt đến đây cùng bà con Khmer đẩy lùi bóng tối. Họ ra công khai phá, tạo lập xóm làng. Năm 1620, cuộc nhân duyên Ngọc Vạn, con gái Phúc Nguyên với quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II mở ra chân trời mới. Prey Nokor, Kas Krobey chỉ là điểm khởi đầu, dấu chân Việt lan rộng dần khắp Gia Định - Đồng Nai. Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh hoàn tất về mặt pháp lý cho vùng đất phía nam Tổ quốc. Ngọn lửa bập bùng từ con cúi mang theo đã thắp sáng lên trong đêm dài tĩnh mịch, xua đuổi nguy cơ, xua đuổi nhọc nhằn. Đất lành chim đậu, nhưng nỗi nhớ cố hương, đau đáu ngày về, cứ trào dâng, quay quắt để tâm tư có cả buồn vui, để dâng lên thành câu hò, điệu hát.
“Ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”(1).
Ngọn lửa bập bùng réo gọi người ơi, quần tụ sẻ chia, chung lưng đấu cật, tạo dựng cuộc đời nơi đất khách xa xôi. Hoa - Việt - Khmer - Chăm,... thắm tình nhân nghĩa. Dẫu khác xa nhau về tập quán ở ăn nhưng cuộc sống lâu dần rồi trở nên quen thuộc. Khát vọng sống yên vui níu bước chân người cho những cuộc hôn nhân đầy thâm giao tình nghĩa ngày càng rộng mở gửi trao. Cónhững con người mang trong mình cả hai, ba dòng máu, hòa quyện trong tim cho ngọn lửa yêu thương thắp sáng lòng người. Những điệu hát Tiều, hát Quảng; Tuồng, Chèo, Hát bội; sân khấu Yukê,... tất cả ngân lên trong tình thân kết chặt. Tay bắt mặt mừng tình nghĩa thâm sâu. Ngọn lửa lòng sáng mãi đến muôn sau, cho cháu con truyền trao qua bao thế hệ.
Nắng mưa xin mãi chung tình,
Chín dòng sôngvẫn ngắm nhìn Thăng Long.
Và trong niềm cảm xúc dâng trào, ai đó cứ mãi ngâm nga:
Sài Gòn, Bến Nghé là đây,
Vẫn mang câu hát những ngày xa xưa.
Cuộc sống đói nghèo tăm tối dần cũng đi qua. Cuộc sống vui thêm trong những ngày lễ tết. Bánh tét, bánh chưng, ngọn lửa reo vui cho ngày đoàn viên hội ngộ, con cháu tựu tề bên bếp lửa ấm êm, phong vịquê hương làm nên tinh thần dân tộc. Ngọn lửa khơi thêm nỗi niềm xa xứ, cứ đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương. Sông núi tụ về, uống nước nhớ nguồn xưa, trên bàn thờ gia tiên, ngọn lửa lòng sáng lên tình nghĩa cháu con hướng về ngàn năm đất tổ. Vì cuộc sống đói nghèo đành phải ly hương, tha phương cầu thực, để cứ mãi trong lòng ray rứt khôn nguôi, từ cái thuở ra đi tìm sự sống, để ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long, người ơi xin hãy nhớ. Chỉ một cội nguồn không thể cắt chia:
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.
(Ca dao)
Chạnh lòng con sáo sang sông, sáo đi sáo lại về cùng nước non. Câu hát nghe sao màtha thiết thế. Cả cuộc đời này ai nỡ bỏ quê hương! Ai đã ra đi mà không từng bịn rịn, rời quê hương nào đã mấy ai vui!(1). Huyền Trân xưa cất bước ra đi mang về hai châu Ô, Rí. Ngọc Vạn sau tạo thế
đứng Đàng Trong để dải đất cực Nam về cùng Tổ quốc. Để con cháu muôn đời nhớ mãi đến ông cha. Để nước non này cứ mãi vươn xa.
Nỗi xót xa phận người vẫn đi cùng khúc hát hôm nay, để trong nắng xuân lòng người phơi phới. Hãy nổi trống lên, thắp sáng ngọn lửa thiêng để vui thêm ngày hội, lúa được mùa, cây trái đơm bông, cho dân gian thỏa lòng ước nguyện. Bàn tay chai sạn, mưa nắng dãi dầu, mồ hôi đổ giọt mặn môi. Đất không phụ lòng người, cao xanh đoái tưởng, ruộng đồng thẳng cánh cò bay, cho lớp dân đen cóngày mở mặt, trái ngọt cơm lành cho bõ những ngày lam. Cha ông xưa đồng khổ cộng cam để cháu con cóvùng đất hứa. Rắn rết muỗi mòng đã xua đi cùng quá khứ để môi sinh trù phú, cá tôm, lúa gạo đủ đầy. Trên vùng “đất mới” hôm nay, vùng đất một thời từng làm chơi ăn thiệt, cuộc sống thăng hoa, con người hào phóng không suy tính thiệt hơn, trung tín, thật thà, nghĩ sao nói vậy. Bạn bè tứ xứ đến đây, kẻ bán mua, người vui thú, hỷ hảo góp phần cho cuộc sống thêm tươi. Cảnh trí thiên nhiên thanh tú đẹp xinh, chứa đựng chất thi ca miệt vườn, sông nước.
Gió đưa gió đẩy,
Về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá,
Về đồng ăn cua.
(Ca dao Nam bộ)
Cả những nông phu lam lũ cũng vẫn lạc quan, cuộc sống chưa đến nỗi bần hàn để lo sau trước. Cứ vui vẻ với đời, thêm sức sống ngày mai. Được mùa ta quẩy thêm bầu rượu, có bạn tâm giao thỏa nỗi lòng.Vất vả mà khoan thai. Ngọn lửa cứ bập bùng tin yêu cuộc sống, cây đước, cây tràm mãi rướn sức vươn lên. Hào khí Đồng Nai rồi Chín con rồng quẫy mạnh làm nên diệu kỳ sức trẻ.
Ghe anh đỏ mũi trắng lườn,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
(Ca dao Nam bộ)
Việc đi lại ngày càng thêm thuận tiện, sông rạch nối liền tình cảm sẻ chia. Gia Định - Đồng Nai nối dài Cà Mau, Rạch Giá, tạo thế liên hoàn “chữ S” Tổ quốc ta. Ngón chân trước biển cứ mãi tì ra, cho sức sống thêm phần tươi trẻ, xóm làng vui văng vẳng tiếng ầu ơ. Ngọn lửa cứ lan nhanh cuộc đời thêm sáng sủa, dẫu tháng năm dài cũng ấm áp lòng nhau.
Mồ hôi đổ xuống tạo dựng cuộc đời, nhưng cuộc đời đâu có được phẳng phiu. Bao nỗi oan khiên cứ phận nghèo đeo đuổi. Những kẻ cường quyền không còn nhân tính luôn rình mò o ép dân đen. Lửa âm ỉ trong lòng kiếp lầm than trâu ngựa, bập bùng rực lửa đấu tranh, chống bất công, đốt cháy những điều bất nhân, bất nghĩa. Máu của cha ông phải đổ xuống rồi, để đòi công lý. Công khai phá bao đời phải giữ gìn cho con cháu mới yên lòng về với tổ tiên. Các thế hệ cháu con lấy làm cảm kích.
Giỏi giang và kiên cường anh dũng, không chịu sống quỳ, không chịu buông xuôi. Vừa đấu tranh chống cường quyền tham bạo, vừa rực lửa căm hờn thiêu cháy lũ xâm lăng.
Ngọn lửa Tây Sơn xóa bỏ sự phân tranh, lửa bùng lên ở Rạch Gầm - Xoài Mút cho quân Xiêm hết lối ngang tàng. Quân Pháp sang với tàu sắt đạn đồng, làm Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây(1). Lửa cháy Gia Định thành, lửa thiêu cả Đại đồn Kỳ Hòa, Đêm ngày ỏi tiếng Lang sa, thế nó càng ngày càng lộng(2), nhưng lửa đỏ kẻ thù chỉ làm cho quan quân triều đình khiếp sợ, màkhông thiêu cháy được thế trận lòng dân. Lòng người oán hận. Oán dường ấy, hận dường ấy, cừu thù dường ấy, làm sao trả được mới ưng(3). Cả Nam kỳ vùng dậy, lửa căm thù trút cả lên đầu Tây, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Trương Định,... cùng nhân dân làm cho kẻ thù bát đảo thất điên, lửa đốt cháy tàu Pháp Esperan, lửa bốc lên trên cánh đồng Nọc Nạng, lửa lan ra sáng cả Hòn Khoai trong Khởi nghĩa Nam kỳ; ngọn lửa rực trời Cách mạng mùa Thu, dân ta giành độc lập.
Kháng chiến trường kỳ lửa lại lan nhanh, lửa cháy nơi nơi, dân ta lại kề vai sát cánh, quyết phải giành cho được độc lập tự do. Quân Pháp thua to, nhưng nước nhàcòn chia cắt, ngọn lửa lòng lại âm ỉ, bùng lên. Khắp các miền quê đến tận đô thành phong trào dâng lên như thác đổ làm cho giặc Mỹ chơi vơi. Lũ tay sai muốn “đội đá vá trời” nhưng sức cùng lực kiệt. Lửa đô thành rực sáng cả đêm đen, rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn(1) cùng nhiều đêm không ngủ, vì non sông phải tiếp bước Lên đàng, cả miền Nam giục giã tiếng loa vang. Bập bùng lửa căm hờn hòa với tiếng hát bừng lên. Ta đi khơi sáng thêm ngọn đuốc thiêng từ bao đời. Lời ca bốc lửa đấu tranh sáng lên ngời ngời. Dậy mà đi, đồng bào ơi! Dậy mà đi, đồng bào ơi!(2)
. Ngọn lửa thiêng Bồ tát sáng rực lên một góc trời, ngời ngời chân lý, khiến Ngô gia không còn chỗ dung thân. Đế quốc Mỹ bàng hoàng, sau những thua đau phải cuốn cờ nhục nhã, đám tay sai vội vã đầu hàng, non sông ta lại liền một dải sau ba thập kỷ trường kỳ kháng chiến chống xâm lăng.
Ngọn lửa ngút ngàn, sức mạnh cả ngàn năm, làm cho trời yên mây tạnh, cho môi em thắm lại nụ cười, cho trời xanh thắm nắng xuân vui(3). Chiến công nối tiếp chiến công qua mấy ngàn năm hun đúc lại viết nên truyền thống hào hùng cho con cháu yên lòng gìn giữ non sông.
Ngọn lửa thiêng tụ về trong cuộc sống hôm nay để dắt dìu cháu con vượt qua muôn ngàn phong ba, thửthách, tìm đến bến vinh quang, xây dựng nước non này ngày thêm tươi đẹp, không phụ lòng tiền nhân đã thắp sáng lửa tin yêu. Đất trời giao thoa trong những ngày xuân, xin hãy thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương cho lòng người quần tụ, cho nhân loại bớt niềm đau.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về chư tăng và các ông Đạo
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ về cơ bản, thuộc dòng truyện ngụ ngôn dân gian truyền thống. Tức đó là các truyện ngắn bao gồm một tích truyện được kể nhằm đưa ra một thông điệp về nhân sinh, một kết luận luân lý, triết lý hay một ý răn đời hoặc một nhận xét về thực tế. Chủ đề hoặc để đề cao trí thông minh, phẩm chất chính trực, sự khôn ngoan, lòng nhân ái...hay giễu cợt, châm biếm thói đời xấu xa, nhân tình thế thái đầy ý vị.
Ở tập hợp các truyện ngụ ngôn sưu tầm được ở miền Tây Nam bộ, đặc biệt loạt truyện ngụ ngôn nói về thỏ, chó sói, rái cá, chồn, voi, chim sẻ... rất dễ nhận ra đây là truyện ngụ ngôn gốc từ kho tàng văn học dân gian của đồng bào Khmer, thậm chí có một số truyện vốn từ truyện ngụ ngôn Ấn Độ mà nguồn gốc cụ thể là từ tập truyện Sri Hiptopatế (Hiptopadesa), dị bản Nam Ấn của bộ truyện ngụ ngôn lừng danh Panchatantra.
Hiển nhiên là do quá trình cộng cư chan hòa của người Việt và người Khmer là tiền đề khởi tạo nên hiện tượng giao lưu – tiếp biến văn hóa này. Điều này đã làm phong phú đáng kể cho kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ.
...
Truyện cười ở Nam bộ, theo cách phân loại thông thường, có thể phân thành hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng.Tập hợp truyện khôi hài có hình thức như là những “trích đoạn” ngắn từ những sự việc xảy ra đây đó trong sinh hoạt hàng ngày: Tiếng cười được tạo ra là do một hành vi, một cử chỉ thất thường hay do vụng về trong lời đối thoại.
Các đối thoại diễn ra thì lời nói gây cười là câu nói ở đó xuất hiện một từ/cụm từ làm người nghe hiểu lệch hướng qua một nội dung khác. Đó có thể là cách chơi chữ kiểu “nhất tự lục nghĩa” tức cũng là từ đó, cụm từ đó được mở ra nhiều cách hiểu khác nhau, hướng sự việc được hiểu theo cách hài hước. Lại cũng phổ biến là cách cố ý đọc sai một số chữ Hán để sau đó đính chính lại nhằm biểu đạt ý kiến phê phán thói xấu nào đó của thế nhân.
Thêm nữa, cách đọc trại những câu châm ngôn chữ Hán vốn có ý nghĩa nghiêm túc thành ra câu nói nôm na thông tục dẫn đến một trường ngữ nghĩa cực kỳ táo tợn, thậm chí biến “thanh” thành “tục”...
Loại truyện khôi hài cũng thâu tóm các hành vi vụng về làm đối tượng phản ánh của mình. Ở đó, mỗi câu chuyện kể lại một sự việc và qua đó phơi bày các thói hư tật xấu của các hạng người trong xã hội đồng thời cũng hàm ý phê phán những tật xấu của các loại hạng ấy như thói ham mê cờ bạc, thói đĩ thõa, keo kiệt, hà tiện, hèn nhát, tham lam, dốt nát. Ở đây, tiếng cười dừng lại ở sự trào lộng hơn là đả kích như trong tập hợp truyện trào phúng,Truyện trào phúng là truyện châm biếm mang đậm ý nghĩa nhân sinh, được coi là tiếng cười xã hội. Ở đó, mũi nhọn tập trung vào các mối quan hệ xã hội trong các nhóm xã hội cụ thể.
…
3. Một số truyện thuộc hệ thống truyện Trạng Quỳnh đã xuất hiện ở vùng đất này năm 1866 trong tập Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký và truyện Ba Giai - Tú Xuất, sau đó, cũng xuất hiện trong tập Chuyện khôi hài cũng của tác giả này, xuất bản năm 1882. Đây là chứng cớ cho thấy kiểu truyện trạng ở miền Bắc đã có mặt ở phương Nam. Chúng ta không có bằng chứng cụ thể, nhưng có thể dự đoán được rằng những khuôn mẫu của truyện trạng từ miền Trung, miền Bắc cũng đã theo chân những lưu dân vào đây từ khá lâu đời. Đều đó giải thích sự tương đồng của những mẫu đề của truyện cười và truyện trạng ở Nam bộ với các truyện trạng truyền thống và xác định truyện trạng Nam bộ kế thừa và phát triển dòng truyện trạng Việt ở một tọa độ địa lý – lịch sử mới.
Đến nay truyện trạng Nam bộ gồm truyện Thằng Dày, truyện Tư Nụm, truyện Ông Ó, truyện Ông Me, truyệnBảy Lẹ, truyện Bộ Ninh, truyện Tám Cồ, truyện Tám Chợ, truyện Hồng Cẩm Miêu và truyện Bác Ba Phi. Ngoài ra, chúng ta cũng được biết đến các ông trạng ở các miệt khác như Ông Cheo, Trùm Pho, Mười Công ở vùng Thủ Dầu Một xưa hay ở đất Gia Định xưa, nhưng số lượng truyện của các ông trạng này hầu như đã thất truyền, chỉ còn một vài truyện mà nay có thể sưu tầm được như truyện Ông Cheo đẽo cẳng lấy dăm nấu nước pha trà, truyện Ông Mười Phoăn thịt cheo nướng chấm cát thay vì muối, truyện Ông Mười Công kể về con sáo biết nói của bà nội... Đa phần các truyện trạng Nam bộ, không nhiều thì ít chen lẫn với một số truyện cười đậm chất trào lộng hơn là trào phúng.
+ TRUYỆN NGỤ NGÔN
- MẮT VÀ MŨI; CON GÁI CẦU CHỒNG ĐẠI VƯƠNG; ĐẠI TRƯỢNG PHU, CHÍ QUÂN TỬ VỚI PHÚ TRƯỞNG GIẢ; NGÀY CUỐI CÙNG THÀNH PHẬT; LÀM ƠN MẮC OÁN CỨU VẬT, VẬT TRẢ ƠN; MƯU TRÍ HƠN LÀ SỨC MẠNH; TU THẬT - TU GIẢ; PHƯỢNG HOÀNG HAI ĐẦU; THÀ IM CÒN HƠN NÓI; GIEO GIÓ GẶP BÃO...
+ TRUYỆN CƯỜI
* TRUYỆN KHÔI HÀI
* LỜI NÓI
* HÀNH VI
* CỬ CHỈ
* TẬT
* TRUYỆN TRÀO PHÚNG
TRÀO PHÚNG 1-2-3-4: THÓI HƯ TẬT XẤU CÁ NHÂN (GIA ĐÌNH - TRONG LÀNG NGOÀI NGÕ - HƯƠNG CHỨC VÀ QUAN LẠI)
+ TRUYỆN TRẠNG
TRUYỆN THẰNG DÀY; CHUYỆN THẰNG DÀY; TRUYỆN ÔNG Ó; TRUYỆN BỘ NINH; TRUYỆN TÁM CỒ; TRUYỆN ÔNG ME; TRUYỆN BẢY LẸ; TRUYỆN TÁM CHỢ; HỒNG CẨM MIÊU; TRUYỆN BA PHI…
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
"Trang sách cũ phiến bia xưa" của hai tác giả Phan Mạnh Hùng và Nguyễn Đông Triều mà bạn đọc đang cầm trên tay được tiếp nối chủ đề của các quyển sách đã xuất bản trước đây như: Tìm trong di sản văn hóa phương Nam (NXB Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016), Theo dấu người xưa (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2017) và Vườn xưa dạo bước (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018).
Các tác giả đều là giảng viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế, từ nhu cầu của công việc, hai anh đã thực hiện nhiều đợt nghiên cứu điền dã ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và miền Trung, nhiều tháng ngày lục tìm tư liệu sách báo cũ trong các thư viện lớn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thu thập được các tư liệu quý để hình thành nên 20 bài viết thú vị về văn hóa, lịch sử, văn tự, văn chương. Nội dung sách gồm các bài viết về các di tích lịch sử văn hóa từ Nam Trung Bộ đến Nam Bộ, như chùa cổ ở Phú Yên, đình Long Hậu (Đồng Tháp), đền thờ và lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức (Long An); có các bài viết sâu về giá trị nội dung nghệ thuật của tư liệu Hán Nôm tỏng các di tích như Đình Châu Phú, đình Bình Thủy, đền thờ Trần Văn Năng, Văn Thánh miếu, chùa Hội Khánh, chùa Vĩnh Tràng, đình Phú Lễ, đình An Hữu,...
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ - Tập 1 Quyển 2: Truyện kể dân gian Nam bộ ( Truyền thuyết địa danh và thôn xã; Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các Ông Đạo)
Tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương (Biên soạn)
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các ông Đạo
Thực tế, tín niệm thiên định luôn cộng tồn và xung đột với quan niệm “nhân định thắng thiên”. Rõ ràng vùng đất mới phương Nam thời khai hoang, tuy đất đai màu mỡ, nguồn thủy sản phong phú, thời tiết khí hậu thuận lợi, song còn hoang hóa, dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um, muỗi mòng, rắn rít... là trở lực to lớn. Đó là cơ sở thực tiễn của thái độ lưng chừng giữa thiên định và nhân định.
Ở các truyền thuyết kể về nguồn gốc địa danh và lai lịch làng xã đã phản ánh những sự tích, những tấm gương của các bậc tiền bối đã “đâm hà bá phá sơn lâm” để thiết lập nên làng xã. Đó là những nỗ lực giành được thắng lợi trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên.
…
Một trong những loại truyện kể tiêu biểu cho công cuộc khai phá vùng đất mới là tập hợp chuyện kể về thú dữ: sấu, rắn, trâu hoang, heo rừng và đặc biệt là truyền thuyết và giai thoại về cọp. Ở đây, các truyện kể bao gồm cả truyền thuyết lẫn giai thoại – hay nói thông tục hơn là một thứ “ký sự lịch sử” bởi tính chất chỉ định về thời gian, địa điểm và tên người, tên đất cụ thể, và đặc biệt nó phản ánh chân thực thực tế lịch sử của buổi đầu khẩn hoang của từng địa phương, của từng vùng đất. Các giai thoại cười ra nước mắt về cọp đã chỉ ra nỗi ám ảnh về mối đe dọa của cọp; ở đó, có những giai thoại được xác định thời gian diễn ra mới vào những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ XX. Khi cộng đồng làng tổng đã biết chống cọp bằng súng chứ không thuần là võ nghệ, ví khại, gậy gộc, roi trường và gươm giáo.
…
Nếu trong tập hợp truyện kể về thú dữ, tiêu biểu là chùm truyện kể về cọp hàm chứa những tín niệm dân gian về tín ngưỡng thờ thần hổ lẫn tín niệm thiên nhân tương ứng, theo phương châm “Đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần kinh” thì trong truyền thuyết lịch sử, một biến tướng đặc dị của tín niệm “thiên nhân tương ứng” là tín niệm chủ đạo trong hàng loạt các truyền thuyết liên quan đến thời đoạn bôn ba của Nguyễn Ánh, thường gọi là thời “tẩu quốc”. Ở đó, Nguyễn Ánh được xác tín là một vị “chúng vi vương”, tức có được thiên mệnh nắm giữ ngôi báu trong tương lai. Đó là cơ sở tạo nên hàng loạt các tình tiết hoang đường về việc trên đường bôn tẩu bị quân tướng Tây Sơn truy đuổi đã được trâu đưa sang sông, được rái cá xóa dấu chân, được sấu/ cá ông hỗ trợ, được trời ban cho dòng nước ngọt khi sắp chết khát trên biển, được trời làm mưa giúp ngăn chặn, đánh lạc hướng quân Tây Sơn....
Nói chung, dù việc thêu dệt ra những truyền thuyết này là vô tình hay cố ý thì hiện tượng này đã chỉ rõ tín nhiệm “thiên nhân tương ứng” là một tín niệm phổ biến của thời đại ấy. Nói cách khác, tín niệm này là một tín niệm quan trọng định hướng cho sự ảo hóa của nhiều truyền thuyết ở vùng đất này.
…
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, nhiều biện sự ứng hợp với các giai đoạn lịch sử cụ thể, một giai đoạn lịch sử vinh quang và đầy bi phẫn, các câu chuyện về những người anh hùng kháng Pháp lại bị chi phối bởi những tín niệm cơ trời, vận trời. Sự thật lịch sử hiển nhiên là tất cả những nỗ lực đầy nhiệt huyết nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược trong giai đoạn này đều thất bại. Thế nhưng đối với người dân Lục tỉnh, tác giả những truyền thuyết và giai thoại kháng Pháp lại lý giải theo cách riêng của họ: đất nước đang hồi bĩ cực, cơ trời chuyển xoay như vậy nên phải vậy.
…
Tín niệm thời thế này có một điểm chung với một quan niệm xuất phát từ các giáo thuyết thời thượng khác của các tôn giáo cứu thế, những tôn giáo địa phương mà giáo thuyết mang tính chất tổng hợp cả Nho, Phật, Lão đang thu hút một bộ phận dân cư Nam Kỳ trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật của thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này là nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng, cơ cấu xã hội nông nghiệp cổ truyền bị xáo trộn dữ dội, những chuẩn mực đạo đức, văn hóa truyền thống đang đối đầu với những trào lưu tân thời ngoại nhập... Do vậy dưới nhãn quan của những người ưu thời mẫn thế, sau những cuộc đấu tranh võ trang thất bại thì thực tế lịch sử – xã hội đó cũng được xác tín đúng là thời mạt pháp(theo Phật giáo) hoặc là thời hạ ngươn (tức hạ nguyên– hiểu theo dịch lý Nho – Đạo). Đây là một khẳng định có tính chất tiên tri mà Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên đã phán truyền trước đó và bây giờ lại tỏ ra ứng nghiệm nên giờ đây được tiếp tục xiển dương.
Hạ ngươn Giáp tí (1864) đầu niên,
Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào.
(Văn Sư Vãi bán khoai)
Theo niềm xác tín này, tín đồ các tôn giáo cứu thế Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa (và sau này là Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và các ông đạo khác) cho rằng thần Phật sẽ cho một vị minh vương xuống trần để cứu đời độ thế, khuyến thiện trừng ác và lập hội Long hoa: mở ra một thượng ngươn mới. Từ đó, một loạt các ông đạo ra đời, dưới những danh xưng khác nhau với hệ thống giáo lý đôi phần dị biệt.
Trong thực tế, những người “kế vị” Phật thầy Tây An như Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Đức Bổn Sư Ngô Lợi, cậu Hai Như, ông Cử Đa và thậm chí sau này, ông Đạo Tưởng... đều chủ trương kết hợp đạo với đời, vận dụng giáo thuyết cứu thế vào mục đích chống Pháp.
+ TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH VÀ THÔN XÃ
−TRUYỀN THUYẾT VỀ THÁC TRỊ AN; SỰ TÍCH TÊN GỌI SÔNG CHÂU PHÊ; ĐẦU TÂY - ĐUÔI HEO - RUỘT NGỰA - ĐÍT LỬA; GIỒNG ÔNG TỐ; ĐỊA DANH CAO LÃNH DO ĐÂU MÀ CÓ; GIÀU NHƯ ÔNG CAI LỮ, MƯU SỰ NHƯ ÔNG THUỘC NHIÊU; TIỀN HIỀN CỦA ĐẢO PHÚ QUỐC; ÔNG GIÀ BA TRI; THẦN CẢ LÀNG KIM SƠN; ÔNG CẢ TRƯỚC Ở TRẢNG BÀNG; SỰ TÍCH CẦU THỊ NGHÈ; CẦU HƯƠNG LỄ; SỰ TÍCH HÒN CAU VÀ HÒN TRẦU; SỰ TÍCH BÃI ÔNG ĐỤNG VÀ CÂY CỎ NÀNG HAI….
+ TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ THÚ DỮ
ÔNG CẢ CỌP MỸ ĐIỀN; THẦN HỔ BA CHÂN; VÌ SAO CÓ CỒN ÔNG HỔ; BÀ MỤ TRỜI; SỰ TÍCH ĐÌA BÀ THẦY; SỰ TÍCH CỌP BA CHÂN; CỌP TU; SỰ TÍCH CÙ LAO ÔNG HỔ; ÔNG BÀ BẮT CON CHÁU CON CHÁU BẮT ÔNG BÀ; CỌP BẦU LÒNG VÕ TÒNG TÂN KHÁNH; CỤ THÁM XOÀI ĐÁNH CỌP; BÀ HỚN BÀ HỞ; GIẾT CỌP GIỒNG GĂNG; SỰ; CHUYỆN ĐÁNH THUỐC CỌP; GIẾT HỔ CỨU BẠN; SỰ TÍCH BA NGÔI MỘ; NGƯỜI ĂN ONG VÀ CHÚA RỪNG; CÔ GÁI HỌ MA; SỰ TÍCH ĐỊA DANH MỎ CÀY; CỌP HÓA RA CHÓ; CON “CHỒN” Ở RẠCH GIÀ; ĂN TRỘM VÀ CỌP RÌNH NHÀ; BẮT CỌP ĂN SÁP, NGƯỜI... KHỎI CHẾT; SỰ TÍCH THẦN TRỪ THÚ DỮ ĐẤT LONG ĐIỀN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG CÙ; TẠI SAO CÓ ĐỊA DANH BẾN NGHÉ; ÔNG ĐÌNH TÂY VÀ CON SẤU “NĂM CHÈO”; BẠCH XÀ HẠ MÃNH HỔ; NGƯỜI THẦY RẮN Ở ĐỒNG THÁP MƯỜI…
+ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ THỜI CHÚA NGUYỄN, TÂY SƠN VÀ NHÀ NGUYỄN
MIẾU ÔNG BẦN QUÌ (SỰ TÍCH SÔNG XÁ HƯƠNG); SỰ TÍCH ĐỒNG QUAN; SỰ TÍCH TÊN GỌI RẠCH GẦM; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ LINH THỨU MỸ THO; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ TAM BẢO RẠCH GIÁ; LANG LẠI ĐẠI TƯỚNG QUÂN; SỰ TÍCH HÒN BÀ VÀ HÒN CẬU Ở CÔN NÔN; TƯỚNG CƯỚP HOẮC NHIÊN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG THẦN MINH; LÊ VĂN KHÔI (SỰ TÍCH ĐỒNG MẢ NGỤY); NGANG NHƯ ÔNG HOÀNH, ÔNG TRẮM; LAI LỊCH ĐỊA DANH THỦ THỪA…
+TRUYỀN THUYẾT VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG PHÁP
−TRUYỆN KỂ VỀ PHAN THANH GIẢN; TÁM CHỮ GIẾT NGƯỜI; TRƯƠNG ĐỊNH VÀ NGƯỜI VỢ ĐẤT GÒ CÔNG; NGƯỜI CON GÁI BẾN NGHÉ; SỰ TÍCH ÔNG THẦN KHÔNG ĐẦU; MƯỜI TÁM DŨNG SĨ CỦA TRƯƠNG ĐỊNH; TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN TRUNG TRỰC; ÔNG CHÁNH LÃNH BINH NGUYỄN HƯƠNG; ÔNG DẬT - ÔNG ĐÀ; NGƯU QUÂN THƯỢNG TƯỚNG; SỰ TÍCH VÀM HỔ CỨ; NGUYỄN HỮU HUÂN; TRẦN BÁ LỘC BỊ TIỀN QUÂN NGUYỄN HUỲNH ĐỨC TRỊ TỘI; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG GỐC VÀ BẾN TRƯỜNG ĐỔI; VƯỜN TRẦU DẤY NGHĨA; PHAN XÍCH LONG HOÀNG ĐẾ; ĐỨA CON THỨ 13 CỦA ĐỨC PHẬT…
+ TRUYỀN THUYẾT VỀ CHƯ TĂNG VÀ CÁC ÔNG ĐẠO
−TĂNG NGỘ; SƯ TỔ ĐỈA; CHUYỆN TÌNH NƠI CỬA PHẬT; BÀ BA NGỠI; SỰ TÍCH CHÙA TRÀ NỒNG; CHÙA THẦY THIẾM Ở NÚI SẬP; PHẬT THẦY TÂY AN; ÔNG ĐẠO LẬP; ÔNG CỬ ĐA; ĐẠO SĨ NÚI TÀ LƠN;; ĐẠO TƯỞNG; THÁI THƯỢNG HOÀNG MINH; NGƯƠN SOÁI NGUYỄN NGỌC ĐIỀN; ÔNG ĐẠO GÒ MỐI…..
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
"Bóng mát của mẹ, nụ cười của mẹ là cả một trời, một biển. Vặn vẹo chữ nghĩa sẽ xiêu lạc những tấm lòng quê. Vì thế, Kiệt Tấn lấy hình ảnh đơn sơ của ruộng đồng mà viết về Mẹ (Nụ cười tre trúc), tạo nên những hình ảnh đẹp ngút ngàn.” Đoàn Nhã Văn
“Có ngứa ngáy cầm bút một đôi khi, tôi mới thấy viết được một truyện (Năm nay đào lại nở) như ông viểt, nếu có phải lăn ra chết thì cũng thực là sướng. [...] Tôi cũng như ông, chỉ mỗi một quê hương chiến tranh nghèo đói, nhưng đó là một quê hương thật với những bà mẹ quê hương, mà dù có đi khắp năm châu bốn bể cũng không dễ gì tìm ra được. Ờ, cũng như ông, tôi yêu họ, dù đây là tình cuối chứ không phải tình đầu...” Khuất Đẩu
“Nếu bạn từng đọc truyện ngắn của Kiệt Tấn, bạn sẽ nhận ra phong cách Nam bộ cùa ông, một kiểu miền Tây chơn chất không màu mè diêm dúa, nhưng khác với lối viết miệt vườn của Nguyễn Ngọc Tư, lối kể của Kiệt Tấn rất tài tử thành thị và Tây học. Tư duy của Kiệt Tấn thoáng đãng rộng rãi, vừa hào sảng Nam bộ, vừa phóng khoáng kiểu Tây, nhưng tâm hồn ông thì thuần Việt. Sự pha trộn này khiến câu chuyện ông kể dẫu đã xưa đâu như chừng 70 năm trước, nó vẫn mang nét hiện đại một cách lạ lùng.” Nguyễn Hoàng Liên
Cống nhân
Tác giả: Văn Lê
Nhà văn Văn Lê (sinh năm 1949)
Tên thật là Lê Chí Thụy
Quê ở Ninh Bình
Ông còn là nhà biên kịch, đạo diễn nhiều bộ phim tài liệu xuất sắc, từng đạt nhiều giải thưởng.
Lời giới thiệu tiểu thuyết “Cống nhân”
Cảm hứng lịch sử luôn thôi thúc tôi cầm bút
Thật đúng với điều nhà văn Văn Lê đã nói, kể sử qua văn chương là một khuynh hướng trong những tác phẩm của ông. Và Cống nhân là cuốn tiểu thuyết lịch sử mà ông đã cầm bút với nhiệt tâm sôi nổi ấy, được ông lấy cảm hứng từ lịch sử đời Trần, giai đoạn nhàTrần suy vi đang đứng trước nguy cơ rơi vào tay Hồ Quý Ly.
Nhàvăn Văn Lê (sinh năm 1949) tên thật làLê Chí Thụy, quê ở Ninh Bình. Ông được trao giải A về thơ Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và rất nhiều giải thưởng văn chương khác trong nước. Sự nghiệp của ông trải dài với 20 cuốn tiểu thuyết, 6 tập thơ, 3 trường ca, 4 tập truyện. Nhà văn Văn Lê còn là biên kịch, đạo diễn nhiều bộ phim tài liệu xuất sắc.
Cống nhân là cuốn tiểu thuyết viết về số phận đầy sóng gió của hai cha con Hoàng giáp Đại sư Tuệ Quang, một vị thiền sư, một lương y tài năng. Người vợ yêu quý của ngài mất sớm, ngài xuất gia. Sau lần bất ngờ gặp lại người vợ đã mất – đã trở thành một mỹ nhân ngư, ít lâu sau, một đứa bé gái được gửi đến chùa cho Tuệ Quang. Tin chắc đó là con gái ngài với người vợ đã mất, ngài đặt tên Duyên cho cô bé. Khi Thị Duyên đã lớn thành một thiếu nữ xinh đẹp, cha con Tuệ Quang cùng nhiều người dân khác bị cống nạp cho người Bắc phương. Lấy ý tưởng từ tấn thảm kịch khuất tất trong lịch sử: Cống nhân - tục cống người ở nước ta sang Bắc phương, đời nhà Minh ở Trung Quốc, Văn Lê cho ta thấy thân phận cay đắng, nhỏ nhoi của con người bị vùi dập dưới chính sách tàn bạo của vua chúa. Tác phẩm cất lên tiếng hát oán than nỗi niềm tha hương cũng như ý thức lưu vong của những cống nhân Đại Việt phải chịu cảnh lưu lạc ở Trung Quốc thời bấy giờ, tiếng kêu của Nhân quyền chạy dọc xuyên suốt toàn tác phẩm. Dù thoát ra từ vết thương lịch sử cách đây hàng trăm năm nhưng mãi đến khi tác phẩm Cống nhân ra đời, tiếng kêu ấy mới được trần tình. Với quan điểm mà tác giả bày tỏ: “Vua phải ra vua, chúa phải ra chúa, quan phải ra quan, dân phải ra dân”, phẩm cách con người là thứ cần được vun bồi cho lớn mạnh, dù mỗi người ở bất kỳ địa vị xã hội nào.
Với óc quan sát tỉ mỉ lịch sử, văn hóa, phong tục Việt Nam đời nhà Trần, những hiểu biết phong phú về đông dược và giọng văn thuần chất lịch sử pha trộn màu sắc huyền ảo đầy mê hoặc và xúc cảm; tài văn chương của Văn Lê đã làm cho chất Sử trong Cống nhân thăng hoa, rỡ ràng trong ánh sáng chân lý, hòa điệu cùng dân tình nước non và lớp người bình dị. Trong Cống nhân, tình yêu đôi lứa còn được khai phóng một cách bản năng và mãnh liệt, vừa cổ điển vừa sâu lắng, vừa đậm chất kỳ ảo như huyền thoại mà thế hệ nào cũng có thể đồng cảm. Trong trí tưởng tượng của ông, nàng mỹ nhân ngư vừa là một người cá vừa là một con sóng cho nhà sư ôm cưỡi lướt đi, hư thực đan xen... cùng những chi tiết kỳ ảo lãng mạn khác đã bung xòe dưới ngòi bút tài hoa. Nội dung truyện độc đáo, cốt truyện ly kỳ, kịch tính được ông xây dựng khéo léo, gợi ra những góc nhìn mới trong lịch sử nhà Trần, nhà Hồ.
Văn Lê đã tạo được một văn nghiệp lớn với những cuốn tiểu thuyết giá trị về mặt lịch sử và xã hội, có sức thu hút đối với bạn đọc trong nước lẫn ngoài nước. Tiểu thuyết lịch sử Cống nhân của Văn Lê cũng là quyển sách đầy tiềm năng để vươn xa, loang rộng ra cuộc đời, là khúc ca sử Việt vàng son vừa lộng lẫy vừa ngậm ngùi kể về thân phận tha hương của những cống nhân Đại Việt xưa.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Trích đoạn:
(1)
Bị bắt làm cống nhân có nghĩa là cô sẽ không bao giờ được gặp anh nữa, không bao giờ cô được về lại chùa Cẩm và đất Thượng Hồng, quê hương của cô nữa. Tất cả những cánh cửa trước mắt cô hầu như đã bị đóng kín. Mọi hy vọng trong cô đều sụp đổ tan tành. Cô không còn gia đình, người thân. Không còn gì cả. Cô cảm thấy đau đớn, xót xa, thương cho phận mình. Chưa có ai ở xứ sở này lại phải hứng chịu chuyện tan thương như bản thân cô. Mẹ chết sớm. Cha bị bắt làm cống nhân, rồi đến lượt cô cũng bị bắt làm cống nhân nốt. Chẳng lẽ hai thế hệ trong một gia đình đều bị cống sang Bắc phương làn gia nô sao? Người ta thường nói: “Trời không lấy hết của ai cái gì”, nhưng đó là Trời. Còn gia đình cô là người bị cướp. Cướp sạch.
(2)
Nguyễn Bản vui vẻ kể cho Thị Duyên nghe những câu chuyện trong chuyến đi mà anh mục kích được. Nguyễn Bản cho biết:
Sau khi thuyền chở thuốc men, vật dụng khởi hành từ bến Cẩm đi ra sông Cái, chạy vào kênh xuôi theo sông Hoàng đến Hải Triều thì gặp hàng trăm chiến thuyền của quân Long Tiệp, do Đô tướng Trần Khát Chân chỉ huy, từ sông Lô vừa tới. Đô tướng quân dàn trận đợi địch. Trước đó, một vị tướng của ta là Nguyên Diệu, muốn báo thù cho người anh bị Vua giết, chạy sang đầu hàng quân Chiêm. Vào rạng ngày rằm tháng Giêng, Nguyên Diệu đem hơn một trăm chiến thuyền dẫn Chế Bồng Nga đi xem cách bày binh của quân ta. Trong lúc quân địch còn chưa tụ tập đủ thuyền thì một viên tướng Chiêm tên là Ba Lâu Kê, từng bị Vua Chiêm phạt đòn, chạy sang quân doanh, chỉ tay vào chiếc thuyền sơn màu xanh, nói rằng: “Đó là thuyền của Quốc vương”.
Đô tướng ra lệnh cho hàng chục hỏa pháo Thần sang đặt trên thuyền nhằm vào thuyền xanh mà bắn. Chế Bồng Nga bị trúng hỏa pháo, chết ngay. Quân Chiêm kêu khóc ầm ĩ. Nguyên Diệu chặt lấy đầu Vua Chiêm chạy về với quân ta. Viên phó quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc liền chém chết Nguyên Diệu, lấy đầu Chế Bồng Nga giao nộp. Quân giặc bị đánh tan rã. Đô tướng Khát Chân sai Giám quân Lê Khắc Khiêm bỏ đầu Vua Chiêm vào trong hòm, dùng thuyền con chở gấp về “Bản doanh” ở bến Bình Than, báo tin thắng trận.
“Thuyền về tới vào lúc canh ba, - Nguyễn Bản kết thúc câu chuyện - Thượng hoàng Nghệ Tông còn đang ngủ, tỉnh dậy, tưởng giặc vào dinh. Đến khi nghe tin thắng trận, ngài mừng lắm, reo lên, rồi triệu quần thần, lấy đầu Vua Chiêm ra xem kỹ. Trăm quan mặc triều phục đồng thanh hô “Vạn tuế”. Thượng hoàng nói với các quan rằng: “Ta với Chế Bồng Nga chống cự nhau đã lâu rồi, nay mới được nhìn thấy nhau, chẳng khác nào như Hán Cao Tổ gặp Hạng Vũ vậy. Thiên hạ yên rồi đây”.
Lời kể của Nguyễn Bản về việc Vua Chiêm bị giết chết làm cho Thị Duyên vừa vui lại vừa không vui. Vui vì từ nay mối họa chết chóc do Chiêm Thành gây ra không còn nữa, dân chúng không còn phải chạy loạn nữa, nhưng buồn là chiến công không đẹp. Thị Duyên thổ lộ với Nguyễn Bản suy nghĩ của mình.
“Tại sao em lại nghĩ là không đẹp?”
Thị Duyên đáp:
“Em từng đọc sách, thấy cổ nhân nói: Người ở ngôi cao phải có lòng chính trực. Lời nói và việc làm phải thận trọng thì ít phạm sai lầm, dân chúng mới kính mộ, nương nhờ. Nếu như có người của chúng ta đem nội tình nước ta báo cho giặc, hiển nhiên chúng ta căm ghét họ. Nay lại nghe có người Chiêm bán rẻ mạng Vua của họ cho chúng ta, chúng ta liền tỏ ra vui mừng. Nói gì thì nói, đây là phần thưởng dành cho hành vi mà chúng ta phỉ nhổ. Em buồn là ở ý này thôi”.
Nguyễn Bản ngạc nhiên, đồng thời cũng khâm phục trước suy xét sâu xa của Thị Duyên. Anh giảng giải:
“Về quân sự, ta không thể đem “đạo quân tử” ra để hành xử em ạ. Trong quân sự, được quyền dối trá, miễn là đem lại lợi ích cho quốc gia”.
“Em biết! Bố cũng nói như thế! - Thị Duyên lập luận - Cho nên cổ nhân mới dạy rằng “Trong quân sự, có sức thì tiến, không có sức thì lui. Đánh gấp không được thì đánh trường kỳ. Không thể dùng biện pháp gian tà, bỏ mặc đại nghĩa, mà giành thắng lợi được. Nếu không, cái mất sẽ lớn hơn cái được rất nhiều. Bây giờ thì không sao. Nhưng đời sau mới lĩnh hậu quả”.
Nguyễn Bản cứ nhìn Thị Duyên chằm chằm. Anh chưa thấy một bé gái nào mới mười bốn tuổi mà lại có những suy nghĩ kỳ lạ như thế, ngoại trừ thần đồng. Thị Duyên cố nhiên không phải là thần đồng, mà chỉ là một cô bé thông minh, đọc nhiều, có trí nhớ rất tốt mà thôi. Điều đáng nói là cô luôn sử dụng kiến thức đã học một cách có suy xét.
“Em là một cô bé kỳ lạ! - Sau cùng, Nguyễn Bản kết luận bằng lời nhận xét - Em chả khác gì thần đồng”.
“Em chỉ đáng được làm thần dân thôi, anh à!”
“Thần dân ư? - Nguyễn Bản hỏi - Vậy thần dân có buồn không, khi “người ta” đi theo quân ở Hưng Hóa chưa về?”
Thị Duyên đỏ mặt, đập vào vai Nguyễn Bản:
“Anh thì..”.
“Thì sao?”
“Anh đi theo theo quân có nhớ “người ta” ở nhà vò võ nhớ thương không? - Thị Duyên cười hồn nhiên - Về lần này thì cưới “người ta” đi. Có gì khó khăn, em còn thu xếp ẵm con giúp”.
Nguyễn Bản toan cốc lên đầu Thị Duyên, nhưng cô né được, cười ré lên. Nguyễn Bản đe:
“Em liệu thần hồn đấy!”
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi