Đi Tìm Thanh Âm Đồng Vọng - Tiểu Luận - Phê Bình
Đi tìm thanh âm đồng vọng là tập sách phê bình thứ 8 trong hành trình sáng tạo, nghiên cứu của PGS.TS Trần Hoài Anh. Đây là tập sách với nhiều những kiến thức chuyên sâu và thông tin bổ ích về những tác giả thơ, văn xuôi và cả sự cộng hưởng từ những trang lý luận phê bình.
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Trong Lời thưa, mở đầu tập sách, Trần Hoài Anh cho rằng: “Đi tìm thanh âm đồng vọng ở văn chương theo thiển nghĩ của tôi là đi tìm tiếng nói đích thực của văn chương trong sáng tác và tiếp nhận, làm thế nào để văn chương tiệm cận với chân lý nghệ thuật và chân lý đời sống, trong hành trình “lương thiện hóa” con người cả về bình diện tư tưởng và đạo lý giữa chốn nhân gian còn đầy dẫy cái ác, cái phi nhân tính, bởi nói như Taine: “Những nguyên tắc của đạo lý là những chân lý tuyệt đối” của cuộc sống. Ở một thế giới luôn tiềm ẩn những điều bất an và những biến đổi không phải lúc nào cũng theo hướng tích cực, việc văn chương xác lập được một tiếng nói nhân bản làm cơ sở tư tưởng để hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ là điều vô cùng quan thiết. Và đây cũng là hệ giá trị chủ âm của văn chương trong việc “thanh lọc” nhân cách con người như Pascal xác quyết: “Tất cả phẩm cách của ta nằm trong tư tưởng. Vậy hãy luyện tập tư tưởng đúng: Đó là nguyên tắc của đạo lý”.
Những thanh âm từ cuộc đời bao giờ cũng là tiếng vọng dội vào tâm thức nhà văn để tạo nên những dự phóng sáng tạo. Không có sự vang vọng này nhà văn sẽ không thể viết và như thế, không thể sáng tạo được tác phẩm văn chương. Và đến lượt mình, người đọc (trong đó có nhà phê bình, một loại người đọc đặc biệt), bằng tất cả sự tinh tế, mẫn tiệp của mình phải khám phá “tiếng vọng” từ cuộc đời được nhà văn thể hiện trong tác phẩm văn chương, để tạo nên một thanh âm đồng vọng giữa Nhà văn - Cuộc đời - Người đọc. Đây là yếu tính cũng là đích đến của hoạt động sáng tạo và cảm nhận văn chương. Như vậy, thanh âm đồng vọng trong văn chương chính là sự hợp hôn diệu kỳ và mầu nhiệm giữa những sự vang vọng của nhà văn, người đọc với cuộc đời... Cuối cùng, cái đích đến của văn chương vẫn là tìm cho được những thanh âm đồng vọng giữa văn chương với cuộc đời qua sự giao tiếp nghệ thuật mang tính đối thoại giữa người sáng tạo và người tiếp nhận văn chương. Không có được thanh âm đồng vọng này, mọi sáng tạo văn chương cũng trở thành vô nghĩa cho dù trong tác phẩm văn chương đó dung chứa những tư tưởng “cao siêu”, “thần thánh” gì đi nữa”.
Sự thức nhận sâu sắc và có những cơ sở lý luận vững vàng đã giúp Trần Hoài Anh có một cái nhìn thấu suốt, biện chứng về văn chương, về con người trong nhiều mối quan hệ đa tầng của đời sống.
Đi tìm thanh âm đồng vọng, được bố cục gồm 3 phần chính và Khúc vĩ thanh (3 bài viết của Chữ Văn Long, Trần Bảo Định, Sao Khuê nhận định về tập sách Đi tìm mỹ cảm văn chương của Trần Hoài Anh).
Phần thứ nhất: Tiếng vọng từ những trang thơ. Có 20 bài viết. Trong đó có 18 bài nhận định về 17 nhà thơ trong nền văn học hiện đại. Đó là những tên tuổi có thành tựu và sức ảnh hưởng nhất định đối với nền văn học như: Tế Hanh, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hoài Khanh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoài Vũ, Đỗ Trung Lai, Tần Hoài Dạ Vũ, Khế Iêm, Trương Tuyết Mai, Lê Chí, Nguyễn Quang Hà, Trần Hoàng Phố, Tôn Nữ Thu Thủy, Bùi Minh Vũ, Tạ Văn Sĩ, Hoàng Thân. Ở mỗi tác giả, Trần Hoài Anh đều có nhận định xác đáng bằng tâm thế của một người phê bình có tâm, có sự liên thông, giao cảm đặc biệt. Bởi nhà nghiên cứu có sự vận dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn lý thuyết tiếp nhận với từng tác giả, tác phẩm cụ thể. Điều này, không phải người viết phê bình nào cũng làm tốt như Trần Hoài Anh.
Chẳng hạn khi viết về thơ Hoài Vũ, nhà nghiên cứu Trần Hoài Anh bằng cảm quan và sự nhanh nhạy của mình đã phát hiện và gọi ra đúng cái hồn cốt, điều làm nên thương hiệu thơ Hoài Vũ. Một bài viết công phu, gợi ra được những điểm nổi bật trong thơ Hoài Vũ, đời thơ và đời người dường như có sự tương giao. Vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái, Trần Hoài Anh chỉ ra: “Khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái - Sự hợp hôn diệu kỳ trong thơ Hoài Vũ”.
Ở bài viết “Hoàng Phủ Ngọc Tường: Người hái nỗi buồn trong cõi phù vân”, Trần Hoài Anh đã luận giải thấu đáo những khía cạnh trong thơ và đời của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ở đó là lời tuyên ngôn hùng hồn, đầy dũng khí, xuất phát từ trái tim chân thành và sự thẳng thắn của một người chiến sĩ/ thi sĩ: “Thơ cần phải trở về căn - nhà - ở - đời của nó là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn”. Những thăng trầm, ẩn ức đã khơi mở ý thức dấn thân tranh đấu đến dự cảm về sự hư ảo của kiếp nhân sinh. Để rồi từ đó Hoàng Phủ Ngọc Tường có những thay đổi về quan niệm nhân sinh trong thơ và đời. Điểm nổi bật nhất là: “Cảm thức về nỗi buồn trong cõi phù hư có thể xem là phẩm tính thi ca đậm chất nhân văn chi phối hành trình sáng tạo thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường sau những năm tháng giã từ cuộc chiến, trở về cuộc sống đời thường với bao lo toan của kiếp người, nhất là những năm tháng khó khăn của đất nước thời hậu chiến”.
Ở phần này, Trần Hoài Anh còn có 2 bài viết đầy tâm huyết liên quan đến thơ, đến trách nhiệm và sứ mệnh của người cầm bút.
Phần thứ hai: Tiếng vọng từ những trang văn. Vẫn nhất quán với lý thuyết tiếp nhận hiện đại, Trần Hoài Anh gợi mở và phân tích trong cái nhìn từ bao quát đến cụ thể, đôi lúc chỉ khai thác trên một bình diện nào đó của tác giả, tác phẩm nhưng rất có lý, có tình. 6 bài viết rất công phu, đánh giá công tâm, ghi nhận sự nghiệp và những đóng góp của các nhà văn, nhà thơ trong tiến trình phát triển của văn học hiện đại. Nhà văn Lan Khai trong tâm thức con trai Nguyễn Lan Phương; Cảm quan văn hóa sinh thái Tây Nam Bộ trong sáng tác Trần Bảo Định từ góc nhìn phê bình sinh thái; Văn học đương đại Bình Định: Sự kết tinh từ một vùng văn hóa; Nhà văn và chữ tình gởi lại - khúc vĩ thanh còn mãi; Cảm thức về Tình yêu và Thân phận trong truyện Nguyễn Thị Lê Na; Nhà thơ Quang Dũng và hình ảnh nghệ sĩ trong tâm thức Trần Ngọc Trác.
Phần thứ ba: Tiếng vọng từ những trang lý luận phê bình. Ở phần này Trần Hoài Anh đem đến cho người đọc những bài nghiên cứu chuyên sâu: khám phá, khai thác, phát hiện ở những khía cạnh mới của vấn đề. Bài viết nào cũng giàu trữ lượng kiến thức và triển khai một cách có hệ thống, lý luận, khoa học. Bạn đọc có một cái nhìn đa chiều và thích thú khi được tiếp nhận những thông tin, ý tưởng mới từ những trang viết đầy trách nhiệm của Trần Hoài Anh. Có lẽ, trong 6 bài viết ở phần này, điều để lại cho tôi ấn tượng nhất là bài nghiên cứu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Viết về thơ Hồ Xuân Hương, nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hương thì đã có rất nhiều công trình, bài viết kỹ lưỡng, sâu sắc nhưng nghiên cứu về Hồ Xuân Hương ở bài viết: “Quê hương, cuộc đời, thân phận Hồ Xuân Hương trong cảm thức của các nhà nghiên cứu văn học miền Nam 1954 -1975 của Trần Hoài Anh trong tập sách này phải chăng là một hướng tiếp cận, giải mã mới có ý nghĩa thiết thực và bổ ích. Trường hợp đặc biệt như thi sĩ Hồ Xuân Hương dưới cái nhìn quán chiếu của Trần Hoài Anh thì thật đáng để chúng ta suy ngẫm. Nhìn nhận và đánh giá Hồ Xuân Hương như thế mới thấy được một hồn thơ chứa đựng những tầng sâu văn hóa với những mỹ cảm văn chương giàu tính dân tộc, tính nhân bản và tinh thần khai phóng. Vì thế, thơ Hồ Xuân Hương sẽ bất tử với thời gian. “... Dù đã trải qua hàng trăm năm mà âm vang thơ Hồ Xuân Hương vẫn vang vọng trong tâm thức chúng ta về tính hiện đại và tư tưởng “cách mạng”, vượt thời đại của nó”.
Trần Hoài Anh rất khéo và nhanh nhạy trong cách tiếp cận, lý giải vấn đề; ở mỗi tác giả, tác phẩm hay mỗi giai đoạn văn học anh đều phát hiện ra những nét độc đáo riêng bằng một góc nhìn sắc sảo, ấn tượng. Đọc thơ Hoàng Cầm, Trần Hoài Anh phát hiện và đưa ra nhận định khá xác đáng: “Với Hoàng Cầm, sự hợp hôn diệu kỳ giữa cái đẹp Mùa xuân và Tình yêu trong thơ là kết tinh lý tưởng thẩm mỹ của một nghệ sĩ mà ở đó cái Đẹp được Hoàng Cầm tôn thờ như một Tôn giáo để suốt đời ôn tự nguyện dấn thân như một tín đồ ngoan đạo. Đến với cái đẹp của Mùa xuân và Tình yêu trong thơ Hoàng Cầm là đến với những vẻ đẹp mang tính tương giao giữa con người và vũ trụ...”.
Là người nghiên cứu chuyên sâu và đặc biệt quan tâm đến sự vận động, ứng dụng lý thuyết tiếp nhận trong quá trình hội nhập với văn chương toàn cầu; Trần Hoài Anh đã chia sẻ và gợi mở nhiều vấn đề tri thức quan trọng, mới mẻ, thổi vào luồng sinh khí mới cho tiến trình phát triển của văn chương đương đại nhất là ở lĩnh vực lý luận phê bình. Điều đáng trân trọng ở Trần Hoài Anh, đó là việc nhận định về tác giả, tác phẩm trên tinh thần khoa học, nhưng bên cạnh đó vẫn thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia, ưu ái và tri âm đặc biệt. Ở đó, người đọc nhận ra một Trần Hoài Anh rất quý trọng người sáng tạo ra tác phẩm, bởi đó là một công việc nhọc nhằn, người viết phải lao tâm khổ tứ, vắt kiệt sức mình để sản sinh ra đứa con tinh thần ấy.
Đi tìm thanh âm đồng vọng là tư liệu quý cho những ai nghiên cứu, quan tâm và yêu thích văn chương. Tôi tin, qua tập sách này, người đọc không chỉ hiểu mà còn thật sự yêu thích bởi những điều mà PGS -TS. Trần Hoài Anh đã nêu ra với tư cách là một người đọc tri âm đặc biệt.
Lý luận-Phê Bình Văn Học Miền Nam 1954-1975 - Tiếp Nhận Và Ứng Dụng
Trải qua hàng chục năm nghiên cứu bộ phận văn học miền Nam (mà việc đi tìm tư liệu của mảng văn học này không phải là điều đơn giản), có thể khẳng định rằng: Văn học miền Nam là một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc, là một di sản văn chương cần phải được bảo tồn và gìn giữ trong đời sống văn học không chỉ hôm nay và cho cả mai sau, xét trên bình diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Bởi lẽ, vốn được hình thành và phát triển trong một bối cảnh xã hội văn hóa khá cởi mở, mạnh dạn tiếp nhận nhiều lý thuyết văn học của thế giới, đặc biệt là các trường phái lý thuyết phương Tây hiện đại nên văn học miền Nam phát triển khá đa dạng, phong phú về các hình thức thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, lý luận phê bình, kịch nghệ, biên khảo, nghiên cứu… mà thể loại nào cũng có những thành tưụ đáng kể, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm thức người đọc. Biểu hiện cụ thể là trong những năm gần đây nhiều tác phẩm khảo luận, nghiên cứu về văn hóa, triết học, đạo đức, luân lý của các nhà nghiên cứu như: Kim Định, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Trung, Vũ Hạnh… và tác phẩm của các nhà văn như: Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Hoài Khanh; Đặc biệt là các nhà văn nữ đã một thời gây “sóng gió” trên văn đàn miền Nam như; Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị Ngh, Nguyễn Thị Hoàng… đã được liên tục tái bản, thu hút đông đảo bạn đọc và trở thành một hiện tượng xuất bản trong thị trường sách về văn hóa, triết học, văn học hôm nay
Nước ta nói chung còn nghèo, văn học ta cũng còn nghèo so với nền văn học của nhiều nước trên thế giới, vì vậy chúng ta không nên lãng phí mà vội “bỏ đi” một bộ phận văn học rất phong phú đa dạng, rất nhiều giá trị ẩn tàng như văn hoc ở miền Nam giai đoạn 1954-1975. Và việc nghiên cứu một cách thấu đáo, cẩn trọng trên tinh thần khoa học, khách quan, công bằng về những giá trị của bộ phận văn học miền Nam là một việc làm rất cần thiết và cần sự chung tay, góp sức của mọi người.
Fairy Tale - Cổ Tích
Đây là một câu chuyện cổ tích khác, tôi nghĩ thầm.
Nhưng dành cho người lớn chứ không phải trẻ con…”
Ngày nảy ngày nay, có một cậu bé tên là Charlie Reade. Mẹ mất sớm, ba vì đau buồn mà tìm đến men rượu, nhưng Charlie vẫn vượt qua mọi bất hạnh mà lớn lên thành một thiếu niên khỏe mạnh, nhân ái.
Sau một sự cố tình cờ, Charlie làm quen với ông Bowditch, người sống cô độc ở một căn nhà cũ trên đồi cùng cô chó già Radar bầu bạn. Mối quen biết dè dặt thuở ban đầu dần trở thành tình bạn, rồi sự tin cẩn. Bí mật của ông Bowditch cùng ngôi nhà được hé lộ và từ đó, chuyến phiêu lưu của Charlie bắt đầu.
Từ ước nguyện cứu chữa cho cô chó già, Charlie quyết định dấn thân vào một vùng đất lạ, một xứ sở như trong cổ tích, nơi có công chúa, lâu đài, nơi lời nguyền lẫn phép mầu tồn tại. Và ẩn sâu bên dưới lòng đất của thế giới ấy, một con quái vật cổ xưa đang lăm le trỗi dậy.
Thơ Cách Cổ Hoài Tân - Về Trung
Sự xuất hiện của Đặng Thân với tư cách là “đại diện cho một chủ thể diễn ngôn hoàn toàn mới” (NPB Lã Nguyên) là một may mắn cho văn chương Việt trong bối cảnh khủng hoảng văn hóa tranh luận “đối thoại phản biện”, “phản tư” kéo quá dài.
Với triết học, ông đã thăng hoa, khoáng hoạt, tươi vui... một cách “phạc nhiên” mà lật lại nhiều vấn đề, đối thoại với các nhà triết học và tôn giáo nhân loại từ tiền Socrates đến ngày nay. Vậy hãy pha một ít cách đọc thi ca vào đọc triết lí của Đặng Thân. Với thi ca, đa phần ông đã sáng tạo bằng cảm hứng triết học, đẩy cảm xúc xuống tầng sâu. Vậy hãy pha một ít cách đọc triết học vào đọc thi ca của Đặng Thân. Có vậy, chúng ta mới tránh được lối tiếp cận “bì phu” thô thiển, biết “cân bằng trong hỗn loạn” (NPB Võ Hương Quỳnh) mà thâm nhập vào tư tưởng siêu minh triết của họ Đặng.
Là nhà văn, nhà thơ, nhà bình luận tư tưởng uyên bác, linh động, ông đã xây dựng một hệ từ vựng mới mẻ, độc đáo, sáng tạo... cho ngôn ngữ Việt Nam. Với lối nói giễu nhại, sử dụng nhiều “từ lóng” một cách thần tình... văn thơ Đặng Thân tràn đầy sự lôi cuốn, hấp dẫn với những ai bắt kịp tư tưởng của ông. Thơ Đặng Thân là âm thanh của những “cọng lông siêu độ vang choang choang” (‘Suến đuên 3’), là “lời vô định trào ra từ đại định” (‘Suến vô định 1’). Âm thanh ấy có sức mạnh náo động bờ mê, bến lú, thức tỉnh những u mê - u mê triết học, u mê tôn giáo, u mê chính trị, và cả u mê nghệ thuật, đã ám lấy con người hằng bao thế kỷ.
“Về trung”? Đúng hơn là “trung” về. Điệu cười, phách hát của những Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phan Bội Châu, Tản Đà... được hóa giải bằng giọng điệu phạc nhiên bát ngát, ngôn ngữ hậu hiện đại, độc lạ... cho người đọc những phút giây đầy sảng khoái, đầy bất ngờ, thú vị.
Tôn Tử Binh Pháp Và 36 Kế - Bìa Cứng
Ba mươi sáu kế (Tam thập lục kế hay Tam thập lục sách) là một bộ sách tập hợp 36 sách lược quân sự của Trung Quốc cổ đại, ba mươi sáu kế bắt đầu xuất hiện từ thời Nam Bắc triều và tới thời nhà Minh thì được tập hợp thành sách.
Tôn Tử nói: Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước, không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Cho nên, phải dựa vào năm mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện tốt xấu giữa hai bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh:
Một là Đạo:
Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa, phải làm cho nguyện vọng của dân chúng và vua nhất trí với nhau, đồng tâm đồng đức. Có như vậy, trong chiến tranh mới có thể bảo nhân dân vì vua mà chết, vì vua mà sống, không sợ hiểm nguy.
Hai là Thiên:
Thiên là thiên thời, nói về ngày đêm, trời râm trời nắng, trời lạnh trời nóng, tức tình trạng về khí hậu thời tiết.
Ba là Địa:
Địa là địa lợi, nói về đường sá xa gần, địa thế hiểm yếu hay bằng phẳng, khu vực tác chiến rộng hẹp, địa hình phải chăng có lợi cho tiến công, phòng thủ, tiến tới, thối lui.
Bốn là Tướng:
Tướng là tướng soái, tức nói về tài trí, uy tín, lòng nhân ái, lòng can đảm, sự uy nghiêm của người tướng.
Năm là Pháp:
Pháp là pháp chế, nói về tình trạng tổ chức, biên chế, sự quy định về hiệu lệnh chỉ huy, sự phân chia chức quyền của tướng tá, sự cung ứng vật tư cho quân đội và chế độ quản lý…
Thư Cho Em
Cuốn sách này kể về mối tình vượt qua hai thế kỷ của thiếu tướng Hoàng Đan và vợ là đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị An Vinh. Thương nhau từ thuở đôi mươi, nên duyên vợ chồng, họ cùng nhau đi qua những mốc lịch sử lớn lao của dân tộc: chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Khe Sanh 1968, Quảng Trị 1972, Sài Gòn 1975, biên giới phía Bắc 1979 và 1984.
Vị tướng trận đi khắp các chiến trường ác liệt, người vợ ở nhà nuôi con và phấn đấu sự nghiệp, thời gian họ ở bên nhau ít ỏi vô cùng. Vì thế họ gửi gắm tâm tình qua những lá thư băng qua bom đạn, vượt các biên giới. Những lá thư trở thành sợi dây buộc chặt tình yêu của hai con người.
Hoàng Nam Tiến đã viết thật xúc động về câu chuyện tình yêu tràn đầy trìu mến của ba mẹ, thông qua những lá thư ấy, không chỉ để lưu giữ ký ức riêng của gia đình, mà còn kể lại cho người đọc hôm nay về một thời đại vô cùng anh hùng và tuyệt vời lãng mạn.
Mèo Chiến Binh - Tập 6 - Thời Khắc Tăm Tối
CHỈ CÓ LỬA MỚI CÓ THỂ CỨU ĐƯỢC TỘC CỦA CHÚNG TA…
Thời khắc tăm tối nhất của tộc Sấm đang đến gần, khi khát khao quyền lực của Sao Hổ đẩy tất cả các tộc vào mối nguy hiểm kinh hoàng. Để cứu lấy tộc và những người bạn của mình, Tim Lửa phải tìm ra ý nghĩa ẩn giấu đằng sau lời sấm truyền đáng ngại đến từ tộc Sao:
“Bốn sẽ biến thành hai.
Sư tử sẽ tranh đấu với hổ,
và máu sẽ thống trị khu rừng này.”
Đã tới lúc hàm ý của những lời tiên tri dần mở ra, và cũng là thời điểm những anh hùng trỗi dậy...
Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich - Bìa Cứng
TÁC PHẨM ĐẦY GIÁ TRỊ CỦA NHÀ VĂN NGA ĐÃ ĐƯỢC GIẢI NOBEL VĂN CHƯƠNG ALEKSANDER SOLZHENITSYN!!!!
[…] Shukhov nhắm mắt ngủ, và anh cảm thấy hạnh phúc quá. Ngày hôm nay anh được nhiều cái may. Họ đã không cho anh vào nhà mát này. Công khu đã không bị xua đi làm trong Phát triển Cộng đồng này. Anh đã gạt nhẹ được thêm một tô cháo đặc lúc trưa này. Anh khu trưởng đã lấy được cho anh em bậc công việc tốt này. Anh đã cảm thấy hài lòng về bức tường anh xây này. Họ đã không khám thấy khúc sắt đó trong khi lục soát này. Anh đã mua được một ít thuốc lá này. Và anh đã hết cái đau hồi sáng này […]
Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương
Nhân vật chính trong câu chuyện là anh chàng Tazaki Tsukuru.
Tazaki Tsukuru có bốn người bạn thân thời cấp ba. Trong tên của họ đều có Hán tự chỉ màu sắc như "đỏ", "xanh", "trắng" và "đen", chỉ riêng tên Tazaki không có từ gì chỉ màu sắc nên cậu cảm thấy lạ lẫm và lo lắng. Cũng chỉ có mình cậu trong nhóm bạn đó rời bỏ quê nhà đi học một trường đại học ở Tokyo.
Rồi một ngày nọ, khi đó cậu hai mươi tuổi, bốn người kia đột ngột tuyên bố chấm dứt tình bạn với cậu, Tazaki thấy mất mát và trở nên cô độc. Bởi thế, từ tháng Bảy năm thứ hai đại học đến tháng Một năm thứ ba, "cậu sống mà lúc nào cũng nghĩ đến cái chết".
Thời gian trôi đi, Tazaki đã trở thành một kỹ sư thiết kế đường ray xe lửa và đã ba mươi sáu tuổi. Bề ngoài, cậu là một người đàn ông thành đạt song thực ra, sự khước từ của bốn người bạn kia đã để lại một vết sẹo không thể nào xoá được trong tâm hồn cậu. Khi tâm sự với người mình yêu về chuyện cũ, cô gái đã khuyến khích cậu "phải thẳng thắn đối diện quá khứ của mình".
Bởi vậy, Tazaki quyết định thực hiện một chuyến "hành hương" để đi tìm căn nguyên cho hành động của bốn người bạn mười sáu năm về trước.
Cứu Tinh Xứ Cát
Nhiều năm sau khi trở thành Hoàng đế Xứ Cát và đấng tiên tri của con dân đế quốc liên hành tinh, Pual Muad’dib vẫn chẳng mấy khi có được an bình. Những kẻ thù không đội trời chung vẫn không buông tha chàng. Mưu sâu chước hiểm của chúng luôn luôn đe dọa cướp đi tất cả những gì chàng yêu quý nhất, hòng bẻ gãy tinh thần chàng, buộc chàng phải có những quyết định ngược với các nguyên tắc và lý tưởng chàng hằng theo đuổi. Cứu tinh Xứ Cát dẫn dắt ta theo sát những biến cố mới đầy hiểm nghèo và bi thương đó trong cuộc đời Paul Muad’dib, con người đầy quyền uy lẫn bi kịch, khiến ta vui với những chiến thắng mới của Cứu tinh Xứ Cát đồng thời đau cùng nỗi đau lớn của chàng…
“Tuyệt vời… Cứu tinh Xứ Cát có tất cả những gì Xứ Cát có, và có khi còn hơn thế nữa.” - Galaxy Magazine
Sanctify - Tập 2
Khi đang chán chường với công việc của mình và muốn đổi nghề, thầy trừ tà Lance Hunter lại bị cuốn vào một vụ án phức tạp. Anh đồng hành cùng cảnh sát Gilbert và bắt đầu lật lại thảm án xảy ra nhiều năm về trước tại trại trẻ mồ côi, truy tìm dấu vết của những kẻ sa ngã, The Fallen.
Hội Chứng E
"Franck Thilliez đã khéo léo đưa khoa học và thần kinh học vào những tình tiết trinh thám xuất sắc trong Hội chứng E, từ đó dẫn dắt người đọc vào mê cung lắt léo của bộ não con người cùng tất cả những lệch lạc mà bộ não đó có thể nảy sinh..." - Tạp chí Elle
NỘI DUNG SÁCH:
Một bộ phim ngắn bí ẩn và độc hại khiến người xem đột ngột bị mù... Vậy là đủ để đi tong toàn bộ kỳ nghỉ hè của trung úy cảnh sát Lucie Hennebelle. Năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt, và phân hủy đến khó lòng nhận dạng... Chẳng cần gì hơn thế để mời gọi thanh tra trưởng Franck Sharko đang trong kỳ nghỉ cưỡng chế phải quay trở lại đội Hình sự. Hai hướng điều tra cho cùng một vụ án duy nhấ sẽ kết hợp Hennebelle và Sharko, đưa họ đi từ những khu ổ chuột nhơ nhớp ở Cairo đến các trại trẻ mồ côi ở Canada, để rồi đối mặt với một tội ác có một không hai, một thực tế tàn bạo, hé lộ sự thật rằng tất cả chúng ta ai cũng đều có thể phạm phải điều tồi tệ nhất. Với Hội chứng E, Franck Thilliez thêm một lần nữa giúp chúng ta hiểu thế nào là kinh hoàng khi đưa chúng ta vào tâm hồn con người, vào cội rễ của bạo lực và cái ác.
Bà Nội Găngxtơ
Bà nội của Ben là một bà nội chuẩn không cần chỉnh - bà có tóc bạc, răng giả, và giấy ăn giắt đầy tay áo. Bà chỉ thích ăn mỗi món bắp cải và chơi trò xếp chữ. Theo Ben thì bà chán kinh khủng. Cho đến khi cậu phát hiện ra bí mật vĩ đại của bà: Bà là một tên trộm nữ trang quốc tế!
Hết sảy nhất là bà còn đang lên kế hoạch cho vụ trộm nữ trang đỉnh nhất từ trước đến giờ - trộm bộ Báu vật Hoàng gia từ Tháp London! Đã thế Ben còn có thể tham gia!
Thế là tối thứ Sáu ở nhà bà nội bỗng trở thành ngày hào hứng nhất tuần!
Và vụ trộm đã kết thúc theo một cách không ai ngờ tới nhất...
"Trong tuyệt phẩm này, Walliams đã cân bằng giữa hài kịch đỉnh cao với một thông điệp đầy xúc động."
Ba Đồn Mạn Thuật
Một cuốn dư địa chí tuyệt vời về người và đất vùng đất Ba Đồn
Khi đọc “Ba Đồn mạn thuật”, nhà văn chuyên viết về nông thôn Hoàng Minh Tường thốt lên: “Bằng cuốn sách này, phải phong tặng Nguyễn Quang Lập danh hiệu Giáo sư, Tiến sĩ”. Một vị giáo sư, tiến sĩ thật sự, là ông Trần Ngọc Vương, cũng là người ở vùng Ba Đồn, nói: “Công trình này ngang tầm cỡ kết quả tâm huyết của một viện nghiên cứu uy tín, phải thực hiện không dưới 10 năm, kinh phí vài chục tỉ đồng”.
Ba Đồn là quê hương của tác giả Nguyễn Quang Lập, ban đầu nơi đây là một cái làng cổ, có tên là Phan Long, lập nên từ thời Hậu Lê, ở bờ bắc sông Gianh, với những thời đoạn lịch sử nhiều biến cải, xung đột, chiến tranh, chia cắt từ thời Tiền Lê, Hậu Lý, nhà Trần cho đến thời Hậu Lê và Trịnh - Nguyễn phân tranh thành hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài... Đây là vùng đất chịu nhiều va đập và biến cố lịch sử, nổi tiếng đến ngày nay với ngôi chợ cổ, nón lá Ba Đồn và trong nhiều lĩnh vực, từ lịch sử, địa thế, phong thủy… đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng, giao thương - buôn bán, sản vật... Tất cả những gì diễn ra ở đây, từ những sự kiện lớn lao, trọng đại đến ngọn lạch nguồn sông, con tôm con cá đều hiện lên sống động dưới ngòi bút sung sức, tự tại, dưới các lớp tư liệu ngồn ngộn và lời kể duyên dáng, lý thú nhưng thâm trầm, sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang Lập.
Địa là đất, chí là sự ghi chép, địa chí là loại sách ghi chép tất cả những gì xảy ra ở một vùng đất, tất tần tật, từ những sự kiện lớn lao tới con tôm con cá, không sót một thứ gì. “Ba Đồn mạn thuật” là cuốn địa chí ghi chép về vùng đất Phan Long - Ba Đồn. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả gặp rất nhiều khó khăn vì nơi đây vừa là làng vừa lỵ sở, vừa làng vừa thị tứ, thị trấn và thị xã… Rất phức tạp. Trong khi chiến tranh đã đốt phá hết mọi tư liệu lưu giữ ở Đình làng và Nhà thờ họ Nguyễn là họ gốc của làng Phan Long. Nhưng bằng tất cả tâm huyết, bằng tình yêu với nơi chôn nhau cắt rốn, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè… Nguyễn Quang Lập đã cho ra mắt một công trình địa chí đồ sộ.
Sách được in khổ lớn 19x26,5cm, gồm 5 phần:
Phần I: Thời Khai Tiết. Gồm 3 chương kể tường tận về gốc gác của vùng đất Phan Long – Ba Đồn.
Phần II: Phan Long Ngũ Chí. Gồm 5 chương được đặt tên là Thiên chí, Thủy chí, Địa chí, Thị Chí, Nhân chí giúp hiểu đủ ngũ chí tại Ba Đồn.
Phần III: Sử Lược. 4 chương kể về các thời kỳ Thiết chế dưới Triều Nguyễn, Chống Tây xâm, Giành chính quyền và Giải phóng, Thời chiến, thời bình ở Ba Đồn.
Phần IV: Ba Đồn Tạp Lục. Gồm 3 chương đem đến cho bạn đọc cái nhìn tổng quát nhất về Tập tục, Văn Hóa, Xã Hội đặc trưng ở Ba Đồn.
Phần V: Ba Đồn Ký Sự. Ghi chép lại những sự kiện, những câu chuyện đã được diễn ra tại Ba Đồn.
Với "Ba Đồn mạn thuật", Nguyễn Quang Lập xuất hiện như một nhà văn hóa có tầm cỡ lớn, một nhà "Ba Đồn học". Ông dẫn chúng ta đi giữa mênh mang đất và người, xưa và nay, bề mặt và chiều sâu... mà vẫn mạch lạc, chi tiết, duyên dáng, làm chủ, tự tại... Một người kết nối những tấm tình với quê hương của nhiều người con Ba Đồn.
Trên cuốn sách tác giả là Nguyễn Quang Lập, nhưng ở đó có sự góp sức, vun đắp của rất nhiều người, của bạn bè ông ở khắp nơi, đã sẵn lòng hào hiệp cùng ông trong săn tìm tư liệu, chia sẻ cảm xúc, hỗ trợ tinh thần và trợ giúp vật chất cho cả quá trình từ lúc có ý tưởng, trong quá trình thực hiện và đến bây giờ là lan tỏa… Tất cả hợp thành một công trình nghiên cứu đồ sộ với hơn 400 tranh ảnh minh họa sống động, đưa độc giả vào hành trình thú vị tìm hiểu đất và người Ba Đồn.
Tranh bìa: Hội làng Phan Long, tranh khắc gỗ của Nguyễn Thành Trung
Tựa Hán tự “Ba Đồn mạn thuật”- 巴屯漫述 - của nhà thư pháp Xuân Như.
Cuốn sách thuộc tủ sách Lịch sử Việt Nam của Omega Plus.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
NGUYỄN QUANG LẬP
Sinh năm 1956 tại Ba Đồn, Quảng Bình
Là nhà văn, nhà viết kịch, nhà biên kịch điện ảnh nổi tiếng
Được trao giải nhà biên kịch xuất sắc nhất trong liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
Sách: Bạn văn, Ký ức vụn, Chuyện nhà quê, Những mảnh đời đen trắng…
Kịch bản điện ảnh: Đời cát, Thung lũng hoang vắng…
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA
“Từ khi sang tuổi sáu mươi tôi luôn đau đáu về một cuốn sách địa chí về Phan Long - Ba Đồn. Địa là đất, chí là sự ghi chép, địa chí là loại sách ghi chép tất cả những gì xảy ra ở một vùng đất, tất tần tật, từ những sự kiện lớn lao tới con tôm con cá, không sót một thứ gì. Một cuốn sách như thế rất cần cho các thế hệ trẻ và con cháu đời sau một khi họ muốn biết quê cha đất tổ ra sao, tổ tiên ông bà đã sống thế nào.”
- Nguyễn Quang Lập
“Ba Đồn mạn thuật không những giúp tôi hiểu hơn về con người, truyền thống văn hóa của vùng đất Ba Đồn hiên ngang, mạnh mẽ với lịch sử 500 năm mà còn khiến tôi cảm nhận được tình yêu, sự gắn bó sâu nặng của những người con Ba Đồn hôm nay với quê hương, bản quán. Chính vì thế, khi đọc cuốn sách này, tôi ước ao có thêm thật nhiều những cuốn dư địa chí như thế về những vùng đất khác, thậm chí cả về Đống Đa - Trung Liệt, nơi đầy những kỷ niệm tuổi thơ của tôi…”
- Nguyễn Cảnh Bình
Trống Đồng - Tiểu Thuyết Lịch Sử Về Hai Bà Trưng
Cuốn tiểu thuyết lịch sử độc đáo, hiếm có về Hai Bà Trưng - dưới ngòi bút ấn tượng của một Giáo sư văn học người Mỹ gốc Việt, giúp mang huyền thoại sử Việt đến gần hơn với thế giới.
“Tiểu thuyết lịch sử là truyện hư cấu về lịch sử dựa vào những sự thực lịch sử được ghi chép lại. Từ những ghi chép như vậy nhà văn tưởng tượng ra nhân vật văn chương của mình… Tác giả Phong Nguyen chọn nhân vật sử của mình là Hai Bà Trưng sống vào những năm 40 đầu công lịch.” (Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên).
Với phần đông các độc giả Việt thì câu chuyện khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã được biết đến rộng rãi thông qua những bài học ở trường từ thuở nhỏ, nhưng những thông tin được biết đến khá ít ỏi và hạn hẹp. Vậy nên, với “Trống đồng” của Phong Nguyen, chúng ta như được hòa mình vào “một cuộc phiêu lưu lịch sử hấp dẫn” về Việt Nam thời cổ đại dựa trên câu chuyện lịch sử về hai chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị, với trọng tâm là cuộc nổi dậy nhằm lật đổ ách cai trị của nhà Hán.
Cuộc phiêu lưu này đưa chúng ta tiếp cận gần hơn với những người phụ nữ anh hùng trong truyền thuyết lịch sử khô khan, để họ trở nên gần gũi hơn, đời thường và sống động hơn, bằng những câu văn miêu tả cụ thể về tính cách, đời sống tinh thần, hoạt động thường ngày của họ, như: người chị Trưng Trắc khôn ngoan và luôn giữ gìn khuôn phép, chú trọng việc học hành và trau dồi binh pháp thì người em gái là Trưng Nhị lại quyết liệt và phóng khoáng, thích rong chơi và giao du với nhiều tầng lớp xã hội bên ngoài Cung điện Mê Linh.
Câu chuyện cũng mô tả về sự áp bức của nhà Hán về sưu thuế và sự áp đặt luật tục của họ trong hôn nhân và đời sống sinh hoạt của người dân Lạc Việt ngày càng nặng nề thời bấy giờ. Lòng căm thù của Trưng Trắc – Trưng Nhị lên đến đỉnh điểm khi Thái thú Tô Định của nhà Hán xuống tay chém đầu Lạc tướng Mê Linh cùng Thi Sách – chồng của Trưng Trắc và thảm sát gia nhân của Cung điện Mê Linh. Hai Bà đã đứng lên kêu gọi phụ nữ khắp Lạc Việt thành lập một đạo nữ binh mạnh mẽ nổi dậy chống lại quan quân nhà Hán. Chiến thắng của cuộc khởi nghĩa đã mở ra một thời kỳ tự do và độc lập cho dân tộc. Những đoạn mô tả về các binh pháp trong cuộc chiến cũng là những đoạn văn đặc sắc và giàu hình ảnh.
Tác phẩm cũng có góc nhìn đa chiều, không chỉ là góc nhìn quen thuộc với người Việt Nam xoay quanh đời sống của Hai Bà Trưng cùng quá trình khởi nghĩa của họ mà còn là góc nhìn mới mẻ về “đội quân phía bên kia”, trong đó khắc họa rõ chân dung của tướng Mã Viện với đời sống tinh thần riêng.
Phong Nguyên đã chia sẻ rằng ông viết cuốn sách này vì câu chuyện về Hai Bà Trưng mang lại cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc khi còn là một đứa trẻ, và ông muốn chia sẻ câu chuyện này đến nhiều người hơn trên thế giới, vì hình tượng về những người phụ nữ mạnh mẽ, nắm trong tay quyền lực còn khá lạ lẫm, đặc biệt là ở Việt Nam xưa.
Theo NPR, đây là câu chuyện vừa quen thuộc vừa mới mẻ, đưa những người phụ nữ anh hùng trong sử sách ra khỏi truyền thuyết lịch sử khô khan, đồng thời đề cao tinh thần độc lập dân tộc, để bạn đọc thế giới biết nhiều hơn về giai đoạn lịch sử xa xưa của Việt Nam - một chủ đề mà không có nhiều tài liệu tiếng Anh đề cập tới.
Năm 2022, The Washington Post đã đưa Trống đồng vào danh sách 12 tác phẩm cần đọc để “bạn đi hết mùa hè”.
Với văn phong và lối diễn đạt gần gũi, ngôn ngữ của người Việt xưa nhưng vẫn xen lẫn tinh thần hiện đại thông qua cách xây dựng cá tính nhân vật, mối quan hệ tình yêu, gia đình xoay quanh Hai Bà Trưng của tác giả Phong Nguyen - Giáo sư văn học tại Mỹ; đồng thời được chuyển ngữ mượt mà bởi dịch giả nổi tiếng với các tác phẩm văn học kinh điển - Đăng Thư; cuốn sách chắc chắn sẽ gây hứng thú với các độc giả yêu lịch sử, văn học, các nhà văn, nhà phê bình văn học hay nhà nghiên cứu lịch sử.
Bìa sách phác họa Hai Bà Trưng với nét vẻ hiện đại, cùng biểu tượng mặt trống đồng truyền thống, được vẽ và hoàn thiện bởi Xuan Loc Xuan, một họa sĩ người Việt.
“Trống đồng” thuộc nhóm Tiểu thuyết Lịch sử, nằm trong tủ sách Văn học của Omega Plus.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Phong Nguyen
Sinh năm 1978, Phong Nguyen hiện là giáo sư Đại học Missouri. Ông tốt nghiệp Providence College năm 2001, sau đó học tiếp Thạc sĩ tại Emerson College và Tiến sĩ tại University of Wisconsin-Milwaukee.
Cùng với Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong, Phong Nguyen là thế hệ nhà văn Mỹ gốc Việt đang nổi trội trong văn giới Mỹ và khẳng định vị thế như những người giúp đưa văn hóa Việt đi vào dòng chính với sự thể hiện bằng Anh ngữ chứ không phải tiếng Việt.
Một số tác phẩm của ông:
– The Bronze Drum (Grand Central Publishing, 2022)
– Roundabout: An Improvisational Fiction (Moon City Press, 2020)
– The Adventures of Joe Harper (Outpost19, 2016) – tác phẩm giành giải Prairie Heritage Book Award;
– Pages from the Textbook of Alternate History (C&R Press, 2019)
– Memory Sickness and Other Stories (Elixir Press, 2011) – tác phẩm giành giải Elixir Press Fiction Prize
THÔNG TIN DỊCH GIẢ/ HIỆU ĐÍNH/ MINH HOẠ:
Dịch giả Đăng Thư tên thật Trần Đức Tài, hiện đang sống tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng).
Bắt đầu công việc dịch thuật từ năm 1988, hiện nay cái tên Đăng Thư là một "thương hiệu dịch thuật" chuyên nghiệp. Là người say mê sách vở và cẩn trọng, dịch giả Đăng Thư đã đưa hơn 50 tác phẩm văn học nước ngoài đến hoặc trở lại với bạn đọc Việt Nam, trong đó có những tác phẩm kinh điển như Hóa thân (Franz Kafka), Hai kinh thành (Charles Dickens), Sherlock Holmes (Conan Doyle)…
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA
Theo Kirkus Reviews, cuốn sách làm nổi bật đề tài về sức mạnh của phụ nữ, được nhấn mạnh rất sớm từ thời kỳ lịch sử xa xưa.
Booklist cũng đánh giá cuốn tiểu thuyết rất chân thực, mang một huyền thoại đến gần hơn với đời sống, là một chuyến phiêu lưu lịch sử đầy thú vị.
“Phong Nguyen là người Việt sinh ra và lớn lên tại Mỹ trong thập niên 1980. Trong một lần trả lời phỏng vấn ông cho biết mình đã được nghe về Hai Bà Trưng từ nhỏ qua lời kể của cha. Câu chuyện đã gây cho ông sự tò mò muốn biết về lịch sử xa xưa của đất nước nguồn cội, nhất là về vai trò của nữ giới. Và khi viết văn Phong Nguyen đã quyết định hư cấu lại lịch sử Hai Bà Trưng. “Một trong những điều tôi cực yêu thích về tác phẩm hư cấu chính là tính trung thực – nó không tuyên bố chân lý và chỉ đơn giản yêu cầu bạn sống trong thế giới của truyện một lúc mà thôi.” Ông nói. Truyện về lịch sử chứ không phải lịch sử mới chính là điều quan tâm hàng đầu của nhà viết tiểu thuyết lịch sử.
Phong Nguyen đã đặt cho cuốn tiểu thuyết của mình về Hai Bà Trưng cái tên Bronze Drum (Trống đồng) có lẽ là vì vậy. Hai Bà Trưng là khởi nguồn sức sống quật khởi của người đất Việt đối chọi với kẻ thù phương Bắc sẽ trở thành truyền thống dân tộc trong trường kỳ lịch sử. Trống đồng là biểu tượng của sức sống đó, truyền thống đó.
Thế kỷ XIII, sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu đến kinh thành Thăng Long của các vua Trần nước Đại Việt, nghe tiếng trống đồng mà còn kinh sợ đến bạc tóc, thấy mình còn về được đến nhà khỏe mạnh là may (Ðồng cổ thanh trung bạch phát sinh/Dĩ hạnh, quy lai thân kiện tại...”). Còn như cột đồng Mã Viện chôn trên đất Việt với lời nguyền hăm dọa “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” thì người Việt mang tinh thần Hai Bà Trưng đã chôn vùi nó từ lâu.
Lịch sử còn nhiều đề tài như trống đồng cho văn chương viết thành tiểu thuyết lịch sử.”
(Từ Lời giới thiệu của Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên)
TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY
“Hùm Răng – bộ lông trắng đã xỉn màu, chuyển sang màu nâu như lông sói, đôi mắt vàng uy nghiêm lồ lộ trên bộ mặt hình đóa hoa lan – đi lảng vảng rình rập theo một đường ngoằn ngoèo như thể hiểu rằng con mồi kia đã tuyệt vọng bám chặt vào chiếc rễ cây chẳng khác nào mặt đất như cứu tinh cuối cùng. Nhe nanh ra, Hùm Răng từ trên một mô đất cao đi xuống và càng đến gần trông nó càng to lớn không ngờ. Con ngựa hí lên kéo căng sợi dây buộc; bóng Ngô Cầm cúi lom khom sợ hãi. Trưng Nhị muốn nhắm chặt mắt lại, nhưng rồi nàng lại quyết định nhìn thẳng vào con dã thú sát nhân cho đến khi hàm răng sắc bén như dao kia cắm phập vào người nàng. Nhưng ánh mắt của Hùm Răng và Trưng Nhị giao nhau và dán chặt vào đối phương, cho đến khi chiếc bờm lòa xòa của con hổ choán hết tầm nhìn của nàng. Trưng Nhị ngửi thấy mùi chết chóc trên chiếc lưỡi thô ráp, trên nướu răng đen kịt, và mùi máu của đồng loại trên những chiếc nanh của con hổ dữ. Rồi Hùm Răng hạ thấp cái mũi bệ vệ xuống người Ác mộng của Lạc tướng – 75 Trưng Nhị và đánh hơi vào chỗ nàng rỉ máu, không phải máu của vết thương nào mà là máu của đàn bà tới tháng. Rồi, bất ngờ thờ ơ với đống thịt ướt sũng bất lực nằm dưới đất, Hùm Răng quay đầu, chầm chậm đi ngược lên một mỏm đá thấp, tiến vào rừng.”
***
“Khi đã dựng xong, cái sàn cao được chống đỡ bằng chiếc cột gỗ ngoài quảng trường chỉ vừa đủ chỗ cho Phùng Thị Chính ngồi. Chị ta lấy dây thừng tự trói mình lại, đề phòng gió lớn, và tay lăm lăm chiếc lưới đánh cá, bốn góc nặng trĩu những quả chuông đồng khiến việc cầm nắm càng thêm cực nhọc, nhưng chị không hề phản đối hay kêu ca. Trưng Trắc, Trưng Nhị, Man Thiện nương và Mai phục sẵn trong các căn nhà xung quanh, nghe ngóng tiếng chuông. Mọi người đều cố thủ và hết sức mong ngóng. Nhưng Phùng Thị Chính lại thấy rằng, nhiều lần trong ngày, chị ta cần phải leo xuống cột để cho giãn gân cốt tay chân, hoặc tiểu tiện. Những khoảng thời gian này tuy ngắn ngủi nhưng đầy nguy hiểm vì chị phải bỏ lại tấm lưới đánh cá trên sàn cao nên không có cách nào báo động cho những người kia biết nếu như Hùm Răng xuất hiện bất ngờ, khiến chị lúc đó hoàn toàn đơn độc và không thể tự vệ.
Đúng vào một lúc như vậy, cuối cùng Hùm Răng cũng xuất hiện ở quảng trường, bộ lông bờm xờm, bẩn thỉu và rối bời sáng rực lên trong những tia nắng cuối cùng trước khi mặt trời lặn. Lưỡi nó thè ra thụt vào một cách thèm thuồng. Phùng Thị Chính đứng bất động, có điều gì đó trong đôi mắt điềm tĩnh của Hùm Răng như thôi miên chị. Khi con hổ dồn bước tiến tới, chị bừng tỉnh khỏi cơn mê hoặc và nhận ra mối hiểm nguy cận kề; nếu chị không hành động, chị và đứa con trong bụng sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo của con dã thú. Chị tính toán khoảng cách giữa chị, Hùm Răng và cái sàn trên cột cao và thấy mình có thể kịp chạy tới và leo lên cột trước khi hổ vồ. Tốc độ của Hùm Răng, khi nó tiến gần rồi phóng tới, thật phi thường. Chị không thể nào nhanh hơn con hổ, và buộc phải nấp mình sau cột gỗ. Chị chỉ có thể xoay quanh cây cột dùng nó như một thứ rào chắn tạm bợ giữa chị và con dã thú. Phùng Thị Chính vận hết sức hét to, nhưng tiếng thét của chị tan biến trong gió. Giá như con hổ gầm lên thì những người kia sẽ nghe thấy và biết nó đã xuất hiện. Thế nhưng Hùm Răng vẫn im lìm, kiên nhẫn rình rập, nó đi vờn quanh cây cột gỗ mong manh không thể che chở cho người đàn bà đang mang thai kia.
Combo Sách Chiến Binh Cầu Vồng + Bắt Trẻ Đồng Xanh (Bộ 2 Cuốn)
1/ Chiến Binh Cầu Vồng
Một tác phẩm có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất Indonesia
“Thầy Harfan và cô Mus nghèo khổ đã mang đến cho tôi tuổi thơ đẹp nhất, tình bạn đẹp nhất, và tâm hồn phong phú, một thứ gì đó vô giá, thậm chí còn có giá trị hơn những khao khát mơ ước. Có thể tôi lầm, nhưng theo ý tôi, đây thật sự là hơi thở của giáo dục và linh hồn của một chốn được gọi là trường học.” - (Trích tác phẩm)
***
Trong ngày khai giảng, nhờ sự xuất hiện vào phút chót của cậu bé thiểu năng trí tuệ Harun, trường Muhammadiyah may mắn thoát khỏi nguy cơ đóng cửa. Nhưng ước mơ dạy và học trong ngôi trường Hồi giáo ấy liệu sẽ đi về đâu, khi ngôi trường xập xệ dường như sẵn sàng sụp xuống bất cứ lúc nào, khi lời đe dọa đóng cửa từ viên thanh tra giáo dục luôn lơ lửng trên đầu, khi những cỗ máy xúc hung dữ đang chực chờ xới tung ngôi trường để dò mạch thiếc…? Và liệu niềm đam mê học tập của những Chiến binh Cầu vồng đó có đủ sức chinh phục quãng đường ngày ngày đạp xe bốn mươi cây số, rồi đầm cá sấu lúc nhúc bọn ăn thịt người, chưa kể sự mê hoặc từ những chuyến phiêu lưu chết người theo tiếng gọi của ngài pháp sư bí ẩn trên đảo Hải Tặc, cùng sức cám dỗ khôn cưỡng từ những đồng tiền còm kiếm được nhờ công việc cu li toàn thời gian ...?
Chiến binh Cầu vồng có cả tình yêu trong sáng tuổi học trò lẫn những trò đùa tinh quái, cả nước mắt lẫn tiếng cười – một bức tranh chân thực về hố sâu ngăn cách giàu nghèo, một tác phẩm văn học cảm động truyền tải sâu sắc nhất ý nghĩa đích thực của việc làm thầy, việc làm trò và việc học.
Tác phẩm đã bán được trên năm triệu bản, được dịch ra 26 thứ tiếng, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của văn học Indonesia hiện đại.
2/ Bắt Trẻ Đồng Xanh
Holden Caulfield, 17 tuổi, đã từng bị đuổi học khỏi ba trường, và trường dự bị đại học Pencey Prep là ngôi trường thứ tư. Và rôi cậu lại trượt 4 trên 5 môn học và nhận được thông báo đuổi học. Câu chuyện kể về chuỗi ngày tiếp theo sau đó của Holden, với ánh nhìn cay độc, giễu cợt vào một cuộc đời tẻ nhạt, xấu xa, trụy lạc và vô phương hướng của một thanh niên trẻ.
Bắt trẻ đồng xanh đã từng trở thành chủ đề tranh luận hết sức sâu rộng tại Mỹ. Sau rất nhiều thị phi, tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy tại chương trình trung học Mỹ. Và hơn thế, tạp chí Time đã xếp Bắt trẻ đồng xanh vào một trong 100 tác phẩm viết bằng tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến nay.
1. Chiến Binh Cầu Vồng (Tái Bản 2020)
2. Bắt Trẻ Đồng Xanh (Tái Bản 2024)
Con Thú Mù
"Con Thú Mù" là một tập truyện "hai trong một" của bậc thầy trinh thám kinh dị xứ Phù Tang Edogawa Ranpo. Tập truyện gồm 2 tiểu thuyết ngắn, lần đầu tiên được dịch mới và giới thiệu chính thức đến bạn đọc Việt Nam.
Con Thú Mù kể về một hoạ sĩ khiếm thị, chỉ có thể cảm nhận sự vật qua đôi bàn tay. Lão cho rằng một tuyệt tác nghệ thuật cần phải được tiếp nhận bằng xúc giác. Bảy cô gái với bảy vẻ đẹp khác nhau đã bị lão dẫn về căn phòng riêng của mình, sau đó những án mạng kinh hoàng xảy ra, để phục vụ cho một tuyệt tác nghệ thuật có một không hai.
Trong tác phẩm thứ hai Đảo Kì Dị, Hitomi Hirosuke - một nhà văn thất chí đang ôm mộng tưởng viết một tác phẩm lớn về một thiên đàng nhân tạo. Bước ngoặt đến khi hắn biết đến cái chết của Komoda Genzaburo - người bạn có ngoại hình rất giống Hitomi. Anh ta quyết định giả mạo danh tính của người đã khuất để đoạt lấy tài sản, sau đó xây dựng một công viên giải trí độc đáo trên một hòn đảo huyền bí. Nhưng thiên đàng mà Hitomi định xây ngày càng giống với địa ngục...
Từng trang sách thấm đẫm vẻ đẹp ma mị, u hoài và lạnh gáy rùng rợn, "Con thú mù" và "Đảo kì dị" là hai đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Ranpo, khi ác tâm và chủ nghĩa duy mỹ thuần khiết đã sánh đôi nhau đi đến tận cùng.
Sống Để Phiêu Lưu - Những Cuộc Thám Hiểm Của Ông Năm Yersin
Tình bạn giữa những đứa trẻ xóm Cồn với vị bác sĩ, nhà thám hiểm tài ba được dệt lại thật dung dị và ấm áp nơi xóm chài nhỏ của vùng duyên hải Nha Trang. Câu chuyện mở ra một thế giới tươi mới mẻ, sinh động của các cuộc xê dịch và khám phá trong khoa học lẫn địa lý; soi tỏ dấu chân đầy khát vọng, dấn thân của con người cao cả, xem cuộc đời là những cuộc du hành và phiêu lưu bất tận.
Tiếp nối những trang văn viết về thành phố Đà Lạt từng được độc giả biết đến, tác giả cuốn sách này chọn cách vẽ chân dung nhà bác học - nhà thám hiểm Alexandre Yersin vừa mang tầm vóc vĩ nhân nhưng cũng thật gần gũi và truyền cảm hứng.
Bởi Vì Tôi Sẽ Gọi Tên Em
NGOẠI TRUYỆN RẤT ĐƯỢC MONG CHỜ CỦA BỘ ĐÔI "NHẮN GỬI"!!!!
Ở nơi mà các thế giới song song chỉ khác nhau ở những điểm nhỏ, và một cách vô thức, con người thường xuyên du hành qua chúng…
Imadome Shiori sống cùng mẹ - một nhà nghiên cứu Khoa học Hư chất, và cha - một người chồng nội trợ. Vào kỳ nghỉ hè năm lớp Tám, cô ghé thăm một tòa nhà từng là bệnh viện. Tại đây, cô tình cờ gặp gỡ chàng thanh niên Utsumi Shinya, khi anh đang điều tra vụ việc một cậu bé mất tích do bị quỷ giấu…
Đây là câu chuyện về một Shiori khác, sống trong một thế giới song song khác.
Ngoại truyện đáng mong chờ nối tiếp bộ đôi Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em và Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu.
Bắt Trẻ Đồng Xanh
Holden Caulfield, 17 tuổi, đã từng bị đuổi học khỏi ba trường, và trường dự bị đại học Pencey Prep là ngôi trường thứ tư. Và rôi cậu lại trượt 4 trên 5 môn học và nhận được thông báo đuổi học. Câu chuyện kể về chuỗi ngày tiếp theo sau đó của Holden, với ánh nhìn cay độc, giễu cợt vào một cuộc đời tẻ nhạt, xấu xa, trụy lạc và vô phương hướng của một thanh niên trẻ.
Bắt trẻ đồng xanh đã từng trở thành chủ đề tranh luận hết sức sâu rộng tại Mỹ. Sau rất nhiều thị phi, tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy tại chương trình trung học Mỹ. Và hơn thế, tạp chí Time đã xếp Bắt trẻ đồng xanh vào một trong 100 tác phẩm viết bằng tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến nay.
Góc Sân Và Khoảng Trời
Góc sân và Khoảng trời là tập thơ đầu tay của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tác giả viết khi mới 8 tuổi, còn là cậu học sinh học lớp Hai trường làng. Năm 1968 tập thơ đã được xuất bản với số lượng 200.300 cuốn, 5 năm sau, được tái bản với số lượng 50.300 cuốn, có lời giới thiệu của nhà thơ lớn Xuân Diệu. Hơn 30 năm sau, tập thơ đã được tặng Giải thưởng Nhà Nước về Văn học nghệ thuật đợt 1 của Chủ tịch nước cùng với hai tập thơ khác.
Sau này, nhà thơ Trần Đăng Khoa viết thêm nhiều thể loại khác như kí, truyện ngắn, tiểu thuyết, chân dung văn học và phê bình văn học… Nhiều tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc khác ra đời nhưng bạn đọc vẫn luôn nhớ tới Góc sân và Khoảng trời.
Tập thơ đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới và tái bản nhiều lần, có năm tập thơ được tái bản đến bốn lần ở các nhà xuất bản khác nhau và cho đến nay sức nóng của nó vẫn không hề giảm…
Tập thơ có giá trị nghệ thuật đặc sắc, thể hiện tình yêu lãnh tụ, yêu quê hương đất nước, con người, yêu thiên nhiên, loài vật và yêu thương những người thân trong gia đình của tác giả Trần Đăng Khoa.
Đọc Góc sân và Khoảng trời, đôi khi chúng ta không nghĩ đó là tư duy của một cậu bé mới 8,9 tuổi. Thơ Trần Đăng Khoa có ý tưởng, cấu tứ rõ ràng và nội dung thể hiện rất sâu sắc.
Có thể chỉ ra rất nhiều bài thơ như vậy. Đầu tiên phải kể đến bài thơ Mưa, sáng tác năm 1967. Dưới con mắt hóm hỉnh của cậu bé Khoa, với thủ pháp nhân hóa tài tình, khung cảnh thiên nhiên trước và trong cơn mưa hiện lên thật sống động, vui tươi, rộn rã: Sắp mưa/ Những con mối/ Bay ra/ Mối trẻ bay cao/ Mối già/ Bay thấp/ Gà con/ Rối rít tìm nơi/ Ẩn nấp/ Ông Trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận/ Muôn nghìn cây mía/ Múa gươm/ Kiến hành quân/ Đầy đường…
Thế giới hiện lên sinh động, muôn màu muôn vẻ trong từng dòng thơ. Rồi khi mưa ào tới, đất trời mù trắng nước, cả thiên nhiên và con người đều vui mừng, hả hê chào đón cơn mưa.
Được viết năm 1967, bài Cây dừa cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu làm nên tên tuổi của thần đồng thi ca Trần Đăng Khoa. Bài thơ miêu tả cây dừa qua từng bộ phận của nó với sự so sánh rất dí dỏm và sinh động: tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh, thân dừa – bạc phếch tháng năm, quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao, tiếng dừa – làm dịu nắng trưa, vv…
Chính sự so sánh, mô tả độc đáo này khiến cây dừa hiện lên như một con người: đáng yêu, ngộ nghĩnh, gần gũi, thân thiện và đặc biệt thích tâm giao, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất. Trong Góc sân và khoảng trời còn rất nhiều bài thơ thú vị khác, thể hiện sự công phu, kĩ lưỡng và ngòi bút điêu luyện trên con đường sáng tạo nghệ thuật của Trần Đăng Khoa. Chính vì thế mà thơ của Trần Đăng Khoa không cũ, nó vẫn tươi mãi, mới mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc thuộc nhiều lứa tuổi.
Giới thiệu tác giả:
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/4/1958 tại làng Điền Trì (nay là làng Trực Trì), xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Những giải thưởng tiêu biểu của tác giả: Ba lần giải Nhất thơ Thiếu nhi báo Thiếu niên Tiền Phong năm 1967, 1969, 1972; Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1982; Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 1 năm 2001; Giải thưởng Sủn Thon Phu (Thái Lan) năm 2003; Giải Nhất viết về biển đảo cho tuyển tập thơ văn Đảo Chìm Trường Sa năm 2019.
Nắng Dậy Thì
Cầm tập Nắng Dậy Thì (NXB Hội Nhà văn, 2024) với hơn 60 bài thơ của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, người đọc dễ nhận ra, vẫn là nỗi buồn từ trong nguồn mạch thơ của ông lâu nay. Điều ấy nhà thơ đã bộc bạch ngay trong lời mở đầu: “Đời người ai cũng có nhiều nỗi buồn lắng đọng. Thơ là một trải nghiệm độc đáo, nơi tôi được sống trọn vẹn với những nỗi buồn thiết tha, riêng biệt ấy”.
Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh trầm tĩnh, đằm thắm ở nhiều cung bậc khác nhau tùy theo tâm trạng của nhà thơ.
Combo Sách Cây Cam Ngọt Của Tôi + Chú Bé Mang Pyjama Sọc (Bộ 2 Cuốn)
1. Cây Cam Ngọt Của Tôi
“Vị chua chát của cái nghèo hòa trộn với vị ngọt ngào khi khám phá ra những điều khiến cuộc đời này đáng sống... một tác phẩm kinh điển của Brazil.” - Booklist
“Một cách nhìn cuộc sống gần như hoàn chỉnh từ con mắt trẻ thơ… có sức mạnh sưởi ấm và làm tan nát cõi lòng, dù người đọc ở lứa tuổi nào.” - The National
Hãy làm quen với Zezé, cậu bé tinh nghịch siêu hạng đồng thời cũng đáng yêu bậc nhất, với ước mơ lớn lên trở thành nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Chẳng phải ai cũng công nhận khoản “đáng yêu” kia đâu nhé. Bởi vì, ở cái xóm ngoại ô nghèo ấy, nỗi khắc khổ bủa vây đã che mờ mắt người ta trước trái tim thiện lương cùng trí tưởng tượng tuyệt vời của cậu bé con năm tuổi.
Có hề gì đâu bao nhiêu là hắt hủi, đánh mắng, vì Zezé đã có một người bạn đặc biệt để trút nỗi lòng: cây cam ngọt nơi vườn sau. Và cả một người bạn nữa, bằng xương bằng thịt, một ngày kia xuất hiện, cho cậu bé nhạy cảm khôn sớm biết thế nào là trìu mến, thế nào là nỗi đau, và mãi mãi thay đổi cuộc đời cậu.
Mở đầu bằng những thanh âm trong sáng và kết thúc lắng lại trong những nốt trầm hoài niệm, Cây cam ngọt của tôi khiến ta nhận ra vẻ đẹp thực sự của cuộc sống đến từ những điều giản dị như bông hoa trắng của cái cây sau nhà, và rằng cuộc đời thật khốn khổ nếu thiếu đi lòng yêu thương và niềm trắc ẩn. Cuốn sách kinh điển này bởi thế không ngừng khiến trái tim người đọc khắp thế giới thổn thức, kể từ khi ra mắt lần đầu năm 1968 tại Brazil.
TÁC GIẢ:
JOSÉ MAURO DE VASCONCELOS (1920-1984) là nhà văn người Brazil. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở ngoại ô Rio de Janeiro, lớn lên ông phải làm đủ nghề để kiếm sống. Nhưng với tài kể chuyện thiên bẩm, trí nhớ phi thường, trí tưởng tượng tuyệt vời cùng vốn sống phong phú, José cảm thấy trong mình thôi thúc phải trở thành nhà văn nên đã bắt đầu sáng tác năm 22 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện Cây cam ngọt của tôi. Cuốn sách được đưa vào chương trình tiểu học của Brazil, được bán bản quyền cho hai mươi quốc gia và chuyển thể thành phim điện ảnh. Ngoài ra, José còn rất thành công trong vai trò diễn viên điện ảnh và biên kịch.
2. Chú Bé Mang Pyjama Sọc
Rất khó miêu tả câu chuyện về Chú bé mang pyjama sọc này. Thường thì chúng tôi vẫn tiết lộ vài chi tiết về cuốn sách trên bìa, nhưng trong trường hợp này chúng tôi nghĩ làm như vậy sẽ làm hỏng cảm giác đọc của bạn. Chúng tôi nghĩ điều quan trọng là bạn nên đọc mà không biết trước nó kể về điều gì.
*******
Nhận định
“Một tuyệt tác sách nho nhỏ.” - Guardian
“Một cuốn sách vương vấn khôn nguôi trong tâm trí người đọc.” - Times
“Mạnh mẽ đến choáng váng.” - Carousel
“Cuốn sách cứ nán lại trong tâm trí ta khá lâu. Một câu chuyện tinh tế, đơn giản một cách có tính toán và cảm động đến tận cùng. Dành cho bất kỳ lứa tuổi nào.” - Times
"Đây là những gì tiểu thuyết nên làm: giới thiệu ta đến với tâm trí của những người mà bình thường ta không dễ gì gặp được." - Guardian
"Gần như không thể buông xuống, đây là cuốn sách hiếm hoi sẽ ám ảnh tâm trí bạn nhiều ngày trời." - Becky Stradwick, The Bookseller
"Tràn ngập những ẩn ý ám ảnh trí tưởng tượng... câu chuyện luôn đi trước độc giả trước khi tung ra cú đấm sát thủ cuối cùng trong những trang cuối." - Nick Tucker, Independent
"Lò Thiêu, với tư cách một chủ đề, thường đòi hỏi kính nhi viễn chi, hạn chế bình luận và ưu tiên sự im lặng. Chỉ có một điều rõ ràng: cuốn sách này sẽ khó lòng nhẹ nhàng mang lại giấc ngủ ngon." - Observer
"Một cuốn sách khác thường... một câu chuyện đầy sức mạnh được kể lại một cách giản dị." - Examiner
"Đây là một cuốn sách khơi gợi nhiều suy nghĩ và ý kiến trái chiều, một cuốn sách đáng đọc, đáng thảo luận, đáng được áp chặt vào tim." - Achuka
"Một cuốn sách giản dị đến thế, dường như chẳng mấy dụng công đến thế, đến mức gần như hoàn hảo." - Independent
1. Cây Cam Ngọt Của Tôi
2. Chú Bé Mang Pyjama Sọc (Tái Bản)
Cát Bụi - Silo Tháp Giống 3
TẬP TIẾP THEO CỦA BỘ SÁCH KỲ ẢO ĐẦY HẤP DẪN DO TÁC GIẢ HUGH HOWEY SÁNG TÁC!!!
Có những bí mật sẽ hủy diệt tất cả.
Ra đi và trở về. Juliette, cựu cảnh sát trưởng của tháp giống đã làm được điều không tưởng: toàn mạng quay về nhà sau khi bị đày đi lau chùi ở thế giới chết chóc ngoài kia. Nhưng trong thời gian cô vắng mặt, quê nhà của cô đã trải qua một cuộc nội chiến, và những cư dân kiệt quệ của nó trở nên bất an, ngờ vực trước tin đồn về sự sống bên ngoài tháp giống.
Nhưng Juliette biết sự thật. Cô biết vì sao mọi người lại phải sống chui rúc trong tòa tháp dưới lòng đất. Biết tổ tiên mình đã làm gì. Biết những kế hoạch họ đã vạch sẵn cho tương lai.
Và cô sẽ không để điều đó xảy ra.
Đây là hồi kết của một thế giới.
Im Lặng Sống
Ngoài ban công con chim ruồi hút mật có đôi cánh biếc đã quay về từ khi nào. Nó bay lơ lửng như không trọng lượng bên đóa hoa mẫu đơn, thoảng nghe tiếng vỗ cánh nhè nhẹ ẩn chứa khúc hoan ca trong buổi sáng tinh khôi hoà bình.
Ngày bình thường mới mùa thu cũng về nắng vàng nhè nhẹ heo may se sẽ. Mặt đất lung linh, bầu trời xanh thăm thẳm. Trên cao, một chiếc máy bay kéo theo vệt khói trắng muốt, như con thoi giăng lụa đang hối hả lao về phía chân trời.
Combo Sách Những Chuyện Lạ Ở Tokyo + Sau Động Đất (Bộ 2 Cuốn)
1. Những Chuyện Lạ Ở Tokyo
Thất lạc người thân, sinh ly tử biệt, lãng quên tên họ... Những con người đột nhiên đánh mất điều quý giá rồi sa chân vào một góc đô thị - một thế giới tràn đầy sự trùng hợp và bất ngờ. Lữ khách tình cờ đưa ta lần theo ánh sáng nhạt mờ trong trái tim người chỉnh đàn cô độc, Vịnh Hanalei họa nên cuộc sống của một người mẹ có đứa con trai bỏ mạng nơi biển cả xứ xa... Ở thế giới mà ta đã quen, có những điểm mù xuất hiện trong khoảnh khắc, số phận bí ẩn của những người mất hút vào những điểm mù ấy được thuật lại trong năm câu chuyện này.
Haruki Murakami, như mọi lần, lặng lẽ phá bỏ hàng rào giữa hiện thực và hư ảo, giữa thế giới bên này và thế giới bên kia, tiến vào những tầng tối tăm và sâu thẳm của xứ sở tiềm thức, tước từng mảnh linh hồn và cảm xúc ra khỏi cuộc sống thường nhật tầm thường.
2. Sau Động Đất
MỘT TÁC PHẨM TUYỆT VỜI NỮA CỦA HARUKI MURAKAMI ĐƯỢC NHÃ NAM GỬI ĐẾN BẠN ĐỌC!
Tháng Một năm 1995, trận động đất đã phá hủy tất cả trong chớp mắt. Thế rồi đến tháng Hai, thế giới bắt đầu xảy ra những cộng hưởng lặng lẽ, trên bờ biển mùa đông có đống củi rều đang cháy, ở Kushiro - đích đến cảu ngwòi đàn ông mang theo chiếc hộp nhỏ, ở Tokyo nơi Ếch chiến đấu vói Giun trong lòng đất... Trái đất rách toạc. Chúa có thể không tồn tại. Nhưng, có lẽ, đã từ rất lâu trước trận động đất đó, chúng ta đã mang theo những đống đổ nát bên trong mình...
Ngôn từ của Haruki Murakami tỏa ra ánh sáng trong màn đêm sâu thẳm, tựa như ánh lửa của một đống củi nhỏ. Đọc xong tập truyện ngắn này, trong bạn sẽ có điều gì đó thay đổi...
1. Những Chuyện Lạ Ở Tokyo
2. Sau Động Đất
Những Giấc Mơ Của Einstein
Năm 1905, tại Berne, Thụy Sĩ, một nhân viên trẻ của cơ quan cấp bằng sáng chế đã mơ những giấc mơ phi thường về bản chất của thời gian. Người đó là Albert Einstein, đang chuẩn bị hoàn tất thuyết tương đối có một không hai của mình. Anh đã mơ gì trong mấy tháng trời vô cùng quan trọng đó? Ở đây, trong cuốn sách kỳ lạ và được ngợi ca hết lời của Alan Lightman, ba mươi câu chuyện ngụ ngôn làm nên từng ấy giả thuyết về thời gian, được thiên tài vật lý của nhân loại mơ trong bấy nhiêu đêm.
Trong một thế giới mà thời gian là một đường tròn, con người cuốn theo vòng quay cứ lặp lại mãi của thử thách và vinh quang... ở một thế giới khác, đàn ông và đàn bà cố gắng bắt lấy thười gian đang vụt đến như một con chim sơn ca trong cái nắp bình thủy tinh... Trong một thế giới khác nữa, không còn thời gian, chỉ là những khoảnh khắc hóa đá...
Tất cả những cái nhìn đó đã thăm dò một cách lịch lãm bản chát của thời gian, cuộc phiêu lưu của sáng tạo, sự huy hoàng của tiềm năng, và vẻ đẹp của Những giấc mơ của Einstein.
Lưu Đày Và Vương Quốc
Gồm 6 truyện ngắn: "Người đàn bà ngoại tình", "Kẻ bỏ đạo hay một đầu óc mù mờ", "Những người hóa câm", "Người khách", "Jonas hay nhà nghệ sĩ lúc làm việc" và "Hòn đá mọc lên". Mỗi câu chuyện trong cuốn sách này minh họa cho cảm giác bất mãn và thất bại của nhân vật chính, cũng như những khó khăn của anh ta trong cuộc tìm kiếm "Vương quốc", hình ảnh ẩn dụ cho ý nghĩa và hạnh phúc của cuộc đời.
Các câu chuyện, các nhân vật trong cuốn sách này đều có một hành trình đi tìm "Vương quốc" của riêng mình, với các bối cảnh khác nhau, nhưng chủ yếu ở Algérie (sa mạc, thị trấn miền Nam, trường học trên núi, các khu phố công nhân...)
Sau Động Đất
MỘT TÁC PHẨM TUYỆT VỜI NỮA CỦA HARUKI MURAKAMI ĐƯỢC NHÃ NAM GỬI ĐẾN BẠN ĐỌC!
Tháng Một năm 1995, trận động đất đã phá hủy tất cả trong chớp mắt. Thế rồi đến tháng Hai, thế giới bắt đầu xảy ra những cộng hưởng lặng lẽ, trên bờ biển mùa đông có đống củi rều đang cháy, ở Kushiro - đích đến cảu ngwòi đàn ông mang theo chiếc hộp nhỏ, ở Tokyo nơi Ếch chiến đấu vói Giun trong lòng đất... Trái đất rách toạc. Chúa có thể không tồn tại. Nhưng, có lẽ, đã từ rất lâu trước trận động đất đó, chúng ta đã mang theo những đống đổ nát bên trong mình...
Ngôn từ của Haruki Murakami tỏa ra ánh sáng trong màn đêm sâu thẳm, tựa như ánh lửa của một đống củi nhỏ. Đọc xong tập truyện ngắn này, trong bạn sẽ có điều gì đó thay đổi...
Bản Thảo Tìm Thấy Tại Accra
Vào một đêm năm 1099, Jerusalem đang đứng trước cuộc vây hãm của quân Thập tự chinh, trong sự tuyệt vọng và hỗn loạn, những con người từ mọi lứa tuổi và đức tin đã quy tụ để lắng nghe lời thông thái từ một người đàn ông Hy Lạp được biết đến với cái tên, Copt.
Thay vì sợ hãi một tương lai khó tránh, với Copt, quan trọng là phải giữ cho tri thức không bị sụp đổ chung với bức tường thành. Nhưng tri thức là gì? Đó là nhận thức về Tình yêu, về Hiến dâng, về Tinh thần, về sự sống và cái chết, về cuộc phiêu lưu của phận người trên Trái đất này. Người ta đặt câu hỏi, những câu hỏi mà họ sợ sẽ chẳng còn cơ hội được giải đáp, và Copt điềm tĩnh trả lời, mãi tới tận khi bức màn đêm đen đặc phủ xuống Jerusalem. Copt nói lời cuối cùng:
"Hãy đi bình an!"
Hippi - Những Kẻ Lãng Du
Hippie – Những kẻ lãng du đưa ta đến với những con người hoàn toàn xa lạ, với những mục đích khác nhau nhưng cùng hướng đến vùng đất xa xôi Nepal trên con đường mòn hippie huyền thoại. Trong hành trình đó, chàng trai Brazil tên Paulo gầy gò có chòm râu dê và mái tóc dài bồng bềnh, mơ ước trở thành nhà văn đã gặp gỡ Karla, cô gái Hà Lan ở độ tuổi đôi mươi đang tìm kiếm bạn đồng hành cho chuyến đi.
Sau khi gặp nhau ở Amsterdam, cô thuyết phục Paulo cùng cô lên chiếc Xe buýt Diệu kỳ đi từ Amsterdam đến Istanbul và qua Trung Á đến Kathmandu. Khi cùng nhau bắt đầu cuộc hành trình này, Paulo và Karla đã khám phá ra mối tình đánh thức họ ở mọi phương diện, đồng thời dẫn đến những lựa chọn và quyết định sẽ định hướng cho cuộc sống của họ sau này.
Khi Trẻ Người Ta Nghĩ Khác
Một người ngoại quốc kẹt ở thung lũng A Shau chết chóc; cô gái vùng Tam Biên huyền bí; người đàn ông thấy quá khứ chạy ngang xa lộ rặng đồi đá đen; một kẻ hoang tưởng như bước ra từ sách Modiano đi dạy người khác viết sách; hai kẻ bất thường ở một thành phố vốn đã trở thành bình địa và trở lại bản vẽ ... Đọc các truyện ngắn của Lê Khải Việt, ta tự hỏi đâu là một hiện thực có thể sờ nắn được và đâu là mộng ảo của các nhân vật lúc nào cũng như lang thang trong một thế giới thiếu điểm tựa chắc chắn. Dường như chính tác giả thông qua các truyện ngắn của mình, không cố khắc họa một hiện thực mà dệt một sợi dây để lần mò thoát ra khỏi vùng mơ hồ của tâm thức.
Đau Cũng Là Sống - Tự Truyện Của Người 30 Năm Sống Chung Với HIV
Là con người, hầu hết ai cũng mong muốn mình được may mắn, hạnh phúc, thành công và viên mãn. Nhưng thực tế cuộc sống không đơn giản và không phải ai cũng thuận lợi; không ít người đã phải đối diện với những nghịch cảnh, sự bất hạnh và sự thất bại đắng cay, khổ đau, sự tổn thương và khó tránh khỏi những sai lầm với những cú vấp ngã đau ê ẩm. Điều quan trọng là, sau những khốn khó gian nan, mỗi chúng ta có thể tự học cách để có thể đứng dậy và tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cuốn sách “Đau cũng là sống – Tự truyện của người 30 năm chung sống với HIV” của tác giả Đồng Đức Thành, một nhà hoạt động xã hội trong lĩnh vực sức khỏe cộng đồng. Ông đã viết cuốn sách này trong thời gian bị trầm cảm. Dù không phải là một nhà văn chuyên nghiệp nhưng với phong cách viết theo lối kể chuyện chân thực, sinh động, tác giả đã miêu tả về cuộc đời mình từ thời thơ ấu đến khi phát hiện ra tình trạng có HIV, cho tới thời điểm hiện tại. Trong từng đoạn văn, tác giả kể lại câu chuyện về chính cuộc đời và trải nghiệm của mình suốt 30 năm sống chung với HIV đã phải vật lộn để giành giật lấy cuộc sống.
“Kết quả xét nghiệm lần 1 cho thấy tôi dương tính với HIV. Bác sĩ nói: “Chúng tôi phải làm đủ 3 lần kỹ thuật mới khẳng định”. Nghe đến đây, tôi cảm thấy đầu óc choáng váng như không hề còn biết chuyện gì đang diễn ra xung quanh”. Từ khi biết mình có HIV, Đồng Đức Thành đã phải đối diện với hàng loạt những hoàn cảnh khó khăn, cả về vật chất cũng như tinh thần, như bị mất việc làm, bị kỳ thị và phân biệt đối xử, bị trầm cảm nặng, thậm chí có lúc có ý nghĩ tự tử, bị mất tiền, tình cảm riêng tư đổ vỡ... Trong những nghịch cảnh trớ trêu, tác giả đã không ngừng nỗ lực học hỏi để tự chăm sóc bản thân, đứng dậy tiếp tục sống và đóng góp những công việc có ích nhất có thể cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Hiện nay, nhiều bạn trẻ cho rằng nếu có HIV thì đã có thuốc điều trị HIV, được gọi là thuốc ARV. Điều này cũng không sai vì nếu một người sống chung với HIV nếu được tiếp cận với chăm sóc điều trị sớm và sống lành mạnh thì có vẫn có sức khỏe tốt và hoàn toàn có khả năng làm việc và học tập để đóng góp cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Đặc biệt là những người nào có tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện sẽ không có nguy cơ cho bạn tình như vợ chồng và người yêu thông qua quan hệ tình dục, được gọi là không phát hiện bằng không lây nhiễm hay gọi tắt là k=k. Nhưng thực tế với những trải nghiệm của chính đời sống của tác giả thì không đơn giản như vậy, ngay cả khi được điều trị thì những người sống với HIV vẫn phải đối diện với rất nhiều vấn đề và áp lực ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như: Sự kỳ thị và phân biệt đối xử hiện tuy có giảm nhưng vẫn còn, mất nhiều thời gian cho các hoạt động thăm khám, sức khỏe tinh thần như trầm cảm, gánh nặng về tài chính như là dùng thuốc hàng ngày, chi tiêu cho y tế sức khỏe, tìm kiếm cơ hội việc làm tạo thu nhập, khó khăn trong tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc gia đình… Những người trẻ tuổi nên tìm hiểu và học cách tự bảo vệ bản mình.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Đồng Đức Thành là thành viên Mạng lưới Người sống với HIV Việt Nam (VNP+), sinh năm 1976, sinh ra và lớn lên tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Ông là một trong những người sống chung với HIV tại Việt Nam đã công khai tình trạng có HIV của mình với báo chí, trên truyền hình và tham gia vào các diễn đàn vì mục đích vận động chính sách về phòng, chống HIV/AIDS và truyền thông giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV. Đồng thời, ông cũng là một trong những người sống với HIV đầu tiên tại Việt Nam tham gia trong các chương trình Tăng cường sự tham gia đầy đủ và có ý nghĩa của những người sống với HIV trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, gọi tắt là chương trình GIPA.
Ông Thành là người có nhiều năm công tác trong các tổ chức phi chính phủ quốc tế, các dự án về truyền thông, vận động chính sách về Y tế và các vấn đề xã hội, giúp đỡ người sống chung với HIV và các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và chịu ảnh hưởng bởi HIV/AIDS với nhiều vai trò và vị trí khác nhau. Hiện nay ông đang đảm nhiệm vai trò Điều phối trong Dự án giám sát do cộng đồng dẫn dắt (CLM). Từ một người có lối sống tiêu cưc, phóng đãng và mải chơi với cú sốc tâm lý nặng, ông Thành đã quyết tâm chữa lành chính mình và lan toả năng lượng tích cực đến với những người cùng cảnh.
(Đồng Đức Thành đang trình bày kế hoạch tại Hội thảo Lập kế hoạch tại Đà Nẵng, năm 2010, khi tác giả đang làm việc cho Dự án Sáng kiến Chính sách về Y tế).
Đồng Đức Thành cũng là tác giả của hàng trăm bài báo viết về HIV và các vấn đề xã hội và hai lần đạt giải Báo chí. Ông viết Tự truyện “Đau cũng là sống” để truyền tải thông điệp vượt qua nghịch cảnh cho những ai đã và đang bế tắc trong đời. Bởi với ông: “Dù đau thương, nghịch cảnh nhưng tôi đã được bơi ra xa bờ còn hơn là ở trong ao tù nước đọng”.
Ông chia sẻ: “Nếu không có khổ đau thì rất khó cảm nhận được hạnh phúc; nghịch cảnh và khổ đau có thể đến vào thời điểm này nhưng không có nghĩa là suốt cả cuộc đời. Gia đình người thân có thể chưa hiểu mình nhưng ngoài kia còn có rất nhiều anh, chị sẵn sàng giúp đỡ mình. Nếu bạn vượt được qua khổ đau sẽ là cả một bến bờ hạnh phúc và có thể sẽ có khả năng kháng thương (Anti-Fragility) để đối diện với những hoàn cảnh, thách thức mới. Điều này còn cao hơn cả chữa lành”.
Lời cuối sách, ông viết:
"Không ai khác chính bạn là người tự viết điếu văn cho cuộc đời của mình, nên hãy viết nó một cách tốt nhất có thể.
Khi còn là một thanh niên mới lớn, tôi đã không trú trọng, quan tâm đến rèn luyện sức khỏe, học hành và tu dưỡng đạo đức. Chúng tôi đã chìm đắm trong hưởng thụ, nhậu nhẹt, chơi bời phóng đãng, đánh lộn, sử dụng chất kích thích… Sang tuổi trung niên, sức khỏe của tôi đã xuống cấp nghiêm trọng và luôn cảm thấy mệt mỏi. Phải chăng đó là luật nhân quả mà tôi phải đón nhận? Và nhân quả báo ứng là có thật. Thậm chí nó xảy ra ngay trên cuộc sống hiện tại, không cần đợi đến kiếp sau vì kiếp sau có thể hiện tại chúng ta chưa thể kiểm chứng được. Tuy nhiên, theo triết lý nhà Phật, giữa chữ Nhân và chữ Quả có chữ “Duyên”, nhờ sự nhận ra những sai lầm và nỗ lực, tôi cảm thấy cuộc sống mình thực sự có ý nghĩa, và hạnh phúc. Tôi đã cố gắng hết sức để tự viết một bản “Điếu văn” cho bản thân mình trọn vẹn nhất có thể.
Tôi nhớ lại, thời gian còn làm việc cho Dự án Sáng kiến Chính sách về Y tế (HPI), chúng tôi đã được được sang Thailand thăm quan, học tập về Mô hình Dự án “Huy động sự tham gia của Phật giáo trong các hoạt động phòng, chống HIV”. Chúng tôi có dịp đến thăm chùa ở Chieng Mai. Lúc đó, tôi rất ấn tượng với một thông điệp của nhà Chùa:
“Ma túy và HIV rất sợ không khí ấm áp của tổ ấm gia đình hạnh phúc”.
Những năm tháng sang tuổi trung niên, tôi cảm thấy sức khỏe của mình ngày càng yếu đi nên việc rời xa cuộc sống tạm có thể đến gần hơn. Đây chính là lý do thúc đẩy tôi viết một quyển sách với hy vọng nó có một chút ích lợi gì đó cho những người trẻ tuổi thuộc thế hệ kế tiếp. Những bài học đời tôi hết sức cay đắng và đầy nước mắt, hy vọng sẽ bổ ích cho các bạn trẻ. Là một người đã trưởng thành, tôi không thể đổ lỗi cho những di chứng, hậu quả từ tuổi thơ vì tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình.
Tôi không dám đưa ra lời khuyên nào đối với những người trẻ tuổi bởi vì trong cuộc sống hiện đại đã có quá lời lời khuyên như những người làm khai vấn, các diễn giả trên mạng xã hội, các dòng sách self-help... Hơn nữa, mỗi con người làm một phiên bản khác nhau, với điểm mạnh, điểm yếu, hoàn cảnh và sứ mệnh khác nhau. Tuy nhiên, nếu được trở lại thời niên thiếu, biết đâu có thể tôi sẽ là một con người khác để hạn chế những rủi ro và sự thất bại. Chắc chắn tôi sẽ kết bạn và chơi với những bạn bè có tinh thần học tập để phát triển bản thân và có tình yêu thương, sự bao dung. Tôi sẽ quan tâm chăm sóc sức khỏe bản thân nhiều hơn bao gồm cả sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và trí tuệ.
Đôi khi, tôi rất muốn có con nhưng tôi lại sợ bởi vì tôi không muốn con tôi sẽ có tuổi thơ giống như tôi. Điều cuối cùng và vô giá là tôi học được từ cuộc đời này là sự sống và hơi thở tạo hóa đã ban tặng cho con người miễn phí nên cần trân trọng nó mỗi ngày, như Kahlil Gibran đã viết. “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Cho dù chưa thành công nhưng tôi cũng đã nỗ lực hết sức có thể để thoát ra khỏi nghịch cảnh. Với kinh nghiệm cá nhân tôi, sự đau khổ chỉ diễn ra trong những thời điểm nhất thời. Mỗi lần vượt qua nó, tôi thấy có cảm giác rất hạnh phúc bởi vì vượt qua sự khổ đau có thể sẽ là bến bờ hạnh phúc và có thêm kinh nghiệm để đối diện với các nghịch cảnh tiếp theo có thể xảy ra trong cuộc đời. Cuối cùng, tôi muốn nói rằng:
“Không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có con người tuyệt vọng vì hoàn cảnh”.
TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY
Năm hết, Tết đến. Một năm đã qua đi kể từ khi tôi nghỉ việc ở công ty. Tôi vẫn sống và ngày nào cũng phải chịu đựng những lời bàn tán xì xào của hàng xóm gần nhà tôi. Mẹ tôi đã dọn hẳn sang ở cùng với anh trai lớn nhường lại cho tôi một mình một nhà. Năm nay, tôi phải ăn một cái tết không một xu dính túi, không một người bạn để nói chuyện và cũng không nhận được một lời chúc tết của bất kỳ ai. Đêm giao thừa cũng là sinh nhật lần thứ 25 của tôi. Tôi dùng chiếc bánh chưng tết làm bánh sinh nhật và cắm một ngọn nến lên trên. Tôi cũng thổi nến như những bữa tiệc sinh nhật bạn bè tôi đã từng làm. Trong căn nhà trống vắng, tôi nhắm mắt lại để ước. Điều ước thứ nhất là tôi muốn sống được 5 năm nữa để thực hiện những gì tôi đã dự định. Điều ước thứ hai là có một công việc để làm giúp ích cho những người khác. Như thế là quá đủ đối với tôi rồi. Tôi thì nghĩ cứng cỏi như thế thôi chứ đến bây giờ tôi cũng không hiểu mình đã làm thế nào để vượt qua một đêm giao thừa tịch mịch u ám như vậy. Cuối cùng tôi đã ngủ gục vào chiếc bánh chưng vào lúc gà gáy báo buổi sáng đầu tiên của năm mới. Sáng ra, tôi thấy mình như được hồi sinh một lần nữa, có điều sự sống thứ hai này của tôi mong manh và chông chênh quá”.
[…]
Chẳng Thể Chạm Tới - Tập 5
“Nhưng hễ Yamato mỉm cười, lòng tôi lại thấy rộn rã, con tim rung động không thôi…”
Nghe lời tỏ tình của Yamato, Kakeru quyết định thẳng thắn đối diện với tình cảm của cậu bạn.
Bao cảm xúc và nỗi niềm quyện vào nhau, Kakeru để tâm đến Yamato hơn hẳn ngày trước.
“Rốt cuộc tình cảm tôi dành cho Yamato là thế nào…?”
Mang theo muôn nỗi trăn trở, Kakeru sẽ hẹn hò với Yamato vào dịp Giáng sinh…!
Đảo Chìm
Tác phẩm kể về cuộc sống của những người lính đang làm nhiệm vụ canh gác trên Đảo Chìm ở Trường Sa. Họ thân thương, gần gũi, tếu táo nhưng đầy lòng quả cảm, đã anh dũng hi sinh vì Tổ quốc và đồng đội.
Đọc Đảo Chìm, độc giả sẽ thấy cái tài của tác giả được thể hiện rất rõ ở giọng văn hóm hỉnh, những câu chữ chắt lọc, cách lựa chọn tình tiết đắt giá, điển hình, cách khắc họa tính cách nhân vật khéo, tài tình… Song tất cả những cái tài nhỏ ấy đều nằm trong cái tài lớn hơn, đó là nghệ thuật tạo dựng không gian truyện.
Trong Đảo Chìm, không gian truyện phong phú và phức tạp, dù lượng chữ viết không nhiều, nhưng người đọc vẫn nhận thấy con người ở đó sống trong một trật tự tưởng vô cùng nghiêm ngặt, song lại như một thế giới tự do,tự tại…
Với nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng của Đảo Chìm mà tác giả đã lựa chọn là rất thích hợp và độc đáo. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Lê Lựu, một người rất khó tính với nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là “thần bút”. Còn nhà văn Chu Nhạc thì coi đó là một “kiệt tác nghệ thuật”.
Có thể trích dẫn một đoạn trong tiểu thuyết Đảo Chìm được tác giả viết vô cùng xúc động như sau: “Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở Đảo Chìm. Người đó tại sao không phải là tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được nhìn thấy cánh chim hải âu. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát. Lần đầu tiên tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như máu…”.
Giới thiệu tác giả:
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/4/1958 tại làng Điền Trì (nay là làng Trực Trì), xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Những giải thưởng tiêu biểu của tác giả: Ba lần giải Nhất thơ Thiếu nhi báo Thiếu niên Tiền Phong năm 1967, 1969, 1972; Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1982; Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 1 năm 2001; Giải thưởng Sủn Thon Phu (Thái Lan) năm 2003; Giải Nhất viết về biển đảo cho tuyển tập thơ văn Đảo Chìm Trường Sa năm 2019.
Gió Tự Thời Khuất Mặt
Nhà văn Lê Minh Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội. Chị tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Ðại học Sư phạm năm 1983. Chị từng giảng dạy tại trường PTTH Hà Nội - Amsterdam, hiện làm việc và sinh sống tại CHLB Ðức. Lê Minh Hà bắt đầu viết văn từ khi chị còn ở trong nước và viết bền bỉ, liên tục trong suốt nhiều năm qua. Cuốn sách đầu tiên của chị được xuất bản năm 1998 tại Mỹ - tập truyện ngắn Trăng goá. Cho tới nay, Lê Minh Hà đã in 18 cuốn sách, bao gồm truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết.
Vào những ngày đầu tiên của năm 2024, Lê Minh Hà in 03 cuốn tiểu thuyết cùng lúc là Phố vẫn gió, Gió tự thời khuất mặt và Những ta. Trong đó, cuốn Gió tự thời khuất mặt đã từng được in 18 năm trước và bản in năm 2024 là "nguyên bản", không có sửa chữa biên tập.
Gió tự thời khuất mặt là tiểu thuyết đầu tiên của Lê Minh Hà. Tiếp sau đó là Phố vẫn gió. Với cuốn này, Lê Minh Hà mô tả lao động văn chương của mình là “viết từng từ một, phải nói là viết rất khó nhọc”.
“Phố vẫn gió” lấy bối cảnh Hà Nội từ những năm sau giải phóng 1954 tới nay. Sự đối lập của Hà Nội cũ và Hà Nội hậu chiến là bức tranh đầy cảm xúc mà Lê Minh Hà dựng lên. Có cảm giác sự đau đớn của nhân vật Ngân khi chứng kiến những đổi thay của Hà Nội cũng có bóng dáng của chính chị, một người Hà Nội sống xa Hà Nội đã nhiều năm.
Cả 3 cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc của Lê Minh Hà lần này đều về Hà Nội, gắn với Hà Nội, đủ để bạn đọc thấy rằng Hà Nội là một vùng đất đặc biệt có ý nghĩa, không thể dứt bỏ trong tâm trí cũng như sự nghiệp sáng tác của chị.
Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa Lê Minh Hà với nhiều nhà văn viết về Hà Nội khác có lẽ là cái tâm thế từ xa nhìn về. Trong tiểu thuyết của Lê Minh Hà, Hà Nội là những mảng kí ức đẹp đẽ, trong trẻo, vẹn nguyên, một Hà Nội vừa gần đây mà dường như cũng đã xưa rồi; và Hà Nội của những chuyến trở về, quan sát, chiêm nghiệm, nghĩ suy, so sánh, có những điều mới mẻ và cũng rất nhiều đã mất đi.
Lê Minh Hà từng nói: "Cuộc sống 20 năm ở xứ người đã cho phép tôi hiểu một cách kỹ càng hơn về mảnh đất này, mảnh đất mà nói như Nguyễn Huy Tưởng là cần phải sống cùng với nó, sống mãi với Thủ đô. Mà nó lạ lắm, những nhận thức sách vở nọ kia lại không động chạm đến tôi đâu, mà là cái đời sống bên kia từng ngày từng giờ một, như một người dân rất bình thường (bên kia tôi là “osin không lương”), nhưng chính đời sống đó lại giúp tôi hiểu về những cái tôi đã từng đi qua ở Hà Nội”.
Cuộc trở về lần này của Lê Minh Hà góp thêm vào đời sống văn chương Việt Nam hôm nay một chùm tác phẩm thuộc thể loại "nặng kí" - tiểu thuyết. Với 3 cuốn sách này, bạn đọc có lẽ sẽ cảm thấy Lê Minh Hà dường như là một người được sinh ra để viết về Hà Nội.
Phố Vẫn Gió
Nhà văn Lê Minh Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội. Chị tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Ðại học Sư phạm năm 1983. Chị từng giảng dạy tại trường PTTH Hà Nội - Amsterdam, hiện làm việc và sinh sống tại CHLB Ðức. Lê Minh Hà bắt đầu viết văn từ khi chị còn ở trong nước và viết bền bỉ, liên tục trong suốt nhiều năm qua. Cuốn sách đầu tiên của chị được xuất bản năm 1998 tại Mỹ - tập truyện ngắn Trăng goá. Cho tới nay, Lê Minh Hà đã in 18 cuốn sách, bao gồm truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết.
Vào những ngày đầu tiên của năm 2024, Lê Minh Hà in 03 cuốn tiểu thuyết cùng lúc là Phố vẫn gió, Gió tự thời khuất mặt và Những ta. Trong đó, cuốn Gió tự thời khuất mặt đã từng được in 18 năm trước và bản in năm 2024 là "nguyên bản", không có sửa chữa biên tập.
Gió tự thời khuất mặt là tiểu thuyết đầu tiên của Lê Minh Hà. Tiếp sau đó là Phố vẫn gió. Với cuốn này, Lê Minh Hà mô tả lao động văn chương của mình là “viết từng từ một, phải nói là viết rất khó nhọc”.
“Phố vẫn gió” lấy bối cảnh Hà Nội từ những năm sau giải phóng 1954 tới nay. Sự đối lập của Hà Nội cũ và Hà Nội hậu chiến là bức tranh đầy cảm xúc mà Lê Minh Hà dựng lên. Có cảm giác sự đau đớn của nhân vật Ngân khi chứng kiến những đổi thay của Hà Nội cũng có bóng dáng của chính chị, một người Hà Nội sống xa Hà Nội đã nhiều năm.
Cả 3 cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc của Lê Minh Hà lần này đều về Hà Nội, gắn với Hà Nội, đủ để bạn đọc thấy rằng Hà Nội là một vùng đất đặc biệt có ý nghĩa, không thể dứt bỏ trong tâm trí cũng như sự nghiệp sáng tác của chị.
Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa Lê Minh Hà với nhiều nhà văn viết về Hà Nội khác có lẽ là cái tâm thế từ xa nhìn về. Trong tiểu thuyết của Lê Minh Hà, Hà Nội là những mảng kí ức đẹp đẽ, trong trẻo, vẹn nguyên, một Hà Nội vừa gần đây mà dường như cũng đã xưa rồi; và Hà Nội của những chuyến trở về, quan sát, chiêm nghiệm, nghĩ suy, so sánh, có những điều mới mẻ và cũng rất nhiều đã mất đi.
Lê Minh Hà từng nói: "Cuộc sống 20 năm ở xứ người đã cho phép tôi hiểu một cách kỹ càng hơn về mảnh đất này, mảnh đất mà nói như Nguyễn Huy Tưởng là cần phải sống cùng với nó, sống mãi với Thủ đô. Mà nó lạ lắm, những nhận thức sách vở nọ kia lại không động chạm đến tôi đâu, mà là cái đời sống bên kia từng ngày từng giờ một, như một người dân rất bình thường (bên kia tôi là “osin không lương”), nhưng chính đời sống đó lại giúp tôi hiểu về những cái tôi đã từng đi qua ở Hà Nội”.
Cuộc trở về lần này của Lê Minh Hà góp thêm vào đời sống văn chương Việt Nam hôm nay một chùm tác phẩm thuộc thể loại "nặng kí" - tiểu thuyết. Với 3 cuốn sách này, bạn đọc có lẽ sẽ cảm thấy Lê Minh Hà dường như là một người được sinh ra để viết về Hà Nội.
Những Ta
Nhà văn Lê Minh Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội. Chị tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Ðại học Sư phạm năm 1983. Chị từng giảng dạy tại trường PTTH Hà Nội - Amsterdam, hiện làm việc và sinh sống tại CHLB Ðức. Lê Minh Hà bắt đầu viết văn từ khi chị còn ở trong nước và viết bền bỉ, liên tục trong suốt nhiều năm qua. Cuốn sách đầu tiên của chị được xuất bản năm 1998 tại Mỹ - tập truyện ngắn Trăng goá. Cho tới nay, Lê Minh Hà đã in 18 cuốn sách, bao gồm truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết.
Vào những ngày đầu tiên của năm 2024, Lê Minh Hà in 03 cuốn tiểu thuyết cùng lúc là Phố vẫn gió, Gió tự thời khuất mặt và Những ta. Trong đó, cuốn Gió tự thời khuất mặt đã từng được in 18 năm trước và bản in năm 2024 là "nguyên bản", không có sửa chữa biên tập.
Gió tự thời khuất mặt là tiểu thuyết đầu tiên của Lê Minh Hà. Tiếp sau đó là Phố vẫn gió. Với cuốn này, Lê Minh Hà mô tả lao động văn chương của mình là “viết từng từ một, phải nói là viết rất khó nhọc”.
“Phố vẫn gió” lấy bối cảnh Hà Nội từ những năm sau giải phóng 1954 tới nay. Sự đối lập của Hà Nội cũ và Hà Nội hậu chiến là bức tranh đầy cảm xúc mà Lê Minh Hà dựng lên. Có cảm giác sự đau đớn của nhân vật Ngân khi chứng kiến những đổi thay của Hà Nội cũng có bóng dáng của chính chị, một người Hà Nội sống xa Hà Nội đã nhiều năm.
Cả 3 cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc của Lê Minh Hà lần này đều về Hà Nội, gắn với Hà Nội, đủ để bạn đọc thấy rằng Hà Nội là một vùng đất đặc biệt có ý nghĩa, không thể dứt bỏ trong tâm trí cũng như sự nghiệp sáng tác của chị.
Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa Lê Minh Hà với nhiều nhà văn viết về Hà Nội khác có lẽ là cái tâm thế từ xa nhìn về. Trong tiểu thuyết của Lê Minh Hà, Hà Nội là những mảng kí ức đẹp đẽ, trong trẻo, vẹn nguyên, một Hà Nội vừa gần đây mà dường như cũng đã xưa rồi; và Hà Nội của những chuyến trở về, quan sát, chiêm nghiệm, nghĩ suy, so sánh, có những điều mới mẻ và cũng rất nhiều đã mất đi.
Lê Minh Hà từng nói: "Cuộc sống 20 năm ở xứ người đã cho phép tôi hiểu một cách kỹ càng hơn về mảnh đất này, mảnh đất mà nói như Nguyễn Huy Tưởng là cần phải sống cùng với nó, sống mãi với Thủ đô. Mà nó lạ lắm, những nhận thức sách vở nọ kia lại không động chạm đến tôi đâu, mà là cái đời sống bên kia từng ngày từng giờ một, như một người dân rất bình thường (bên kia tôi là “osin không lương”), nhưng chính đời sống đó lại giúp tôi hiểu về những cái tôi đã từng đi qua ở Hà Nội”.
Cuộc trở về lần này của Lê Minh Hà góp thêm vào đời sống văn chương Việt Nam hôm nay một chùm tác phẩm thuộc thể loại "nặng kí" - tiểu thuyết. Với 3 cuốn sách này, bạn đọc có lẽ sẽ cảm thấy Lê Minh Hà dường như là một người được sinh ra để viết về Hà Nội.
Phác Thảo Điện Ảnh Việt Nam Thời Đổi Mới Và Hội Nhập
“Phác thảo điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập” là cuốn sách thứ ba của TS Ngô Phương Lan nhưng là cuốn thứ tư được xuất bản. Trước đó, bà đã thành công với 2 cuốn là “Đồng hành với màn ảnh” (1998) đạt giải thưởng chính của Hội Điện ảnh Việt Nam cho công trình lý luận, phê bình và “Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh Việt Nam” (2005) đạt giải Cánh diều vàng cho công trình lý luận, phê bình của Hội điện ảnh Việt Nam, cũng đã được xuất bản bằng tiếng Anh và phát hành quốc tế năm 2007.
Trong cuốn tập tiểu luận ra mắt lần này, TS Ngô Phương Lan đã chia cuốn sách thành hai phần khác nhau, trong đó, phần 1 có thể xem là phần phê bình, phần 2 là giới thiệu sự phát triển, thăng trầm của điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế trên con đường xây dựng nền công nghiệp điện ảnh.
Phần 1, ngoài khái quát về tác phẩm điện ảnh và phong cách của các đạo diễn, còn có những bài phê bình một số bộ phim chọn lọc, ít nhiều ghi dấu ấn trong thời kỳ đổi mới như “Tướng về hưu”, “Thương nhớ đồng quê”, “Mùa ổi”, “Thị trấn yên tĩnh”, “Thằng Bờm”, “Gánh xiếc rong”, “Chung cư”, “Mê Thảo thời vang bóng”, “Ai xuôi vạn lý”, “Ngã ba Đồng Lộc”, “Chuyện của Pao”… Theo đó, kịch bản và cấu trúc phim, các tình huống trong phim, cách xử lý các cảnh quay, âm nhạc, nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật và diễn xuất của các diễn viên… được TS Ngô Phương Lan phân tích và phê bình bằng chuyên môn hàn lâm nhưng lại diễn đạt với ngôn ngữ giản dị, mực thước, dễ dàng phù hợp với bất cứ ai quan tâm và yêu thích các tác phẩm điện ảnh nước nhà. Ở phần 2 của cuốn sách, tác giả phác thảo sơ đồ các liên hoan phim quốc tế, chặng đường đến với quốc tế của điện ảnh Việt Nam, những thách thức và bài học kinh nghiệm xây dựng nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam. Đặc biệt, tác giả luôn trăn trở với câu chuyện quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra thế giới bằng điện ảnh.”
Mặt Trời Và Thép
Mặt trời và Thép là một tiểu luận “phê phán tâm tình” ở đó Mishima dò xét nghiêm túc và sâu sắc chủ đề về sự phân li và hợp nhất của tâm trí và thân xác. Đó là một nỗ lực thiết lập và duy trì sự cân bằng động liên tục bị phá hủy rồi ngay tức khắc được tái sinh giữa các cực đối lập: ngôn ngữ và thân xác, tâm trí/tưởng tượng và thân xác, ngôn từ và thực tại, cảm giác và trí năng, nghệ thuật và cuộc đời, phong cách và đặc tính hành động, cái riêng và cái chung/phổ quát, cá nhân và tập thể, và cái chết và sự bất tử. Cho đến cuối tác phẩm, Mishima đã đưa tâm trí và thân xác, không chỉ của chính ông mà còn của độc giả, lên tới những tầng trời thăm thẳm, nơi tất cả các cực đối lập kia hợp nhất vĩnh viễn.
Tác phẩm cũng soi rọi đời sống tinh thần tác giả, người nghệ sĩ hiện sinh đúng nghĩa ở đó tư duy – lời nói – hành động nằm trên cùng một mặt phẳng. Mặt trời và Thép bởi vậy là một lối đi thuận tiện giúp ta xâm nhập vào thế giới văn chương phong nhiêu của Mishima.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi