Phiêu Lưu Chữ
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam nói riêng là thế giới đa chiều kích. Tận dụng khả năng chưa đông cứng của tiểu thuyết, táo bạo trong thể nghiệm bút pháp hậu hiện đại, nhiều cây bút đã mang đến cho độc giả những bữa tiệc văn chương với thực đơn đầy tính mời mọc.
Thoạt kì thủy của Nguyễn Bình Phương tiêu biểu cho những thể nghiệm nói trên. Cuốn tiểu thuyết dắt người đọc vào một mê lộ nghệ thuật. Độc giả muốn thâm nhập sâu hơn hoặc thoát khỏi mê lộ đó là phụ thuộc vào chính tầm đón nhận của họ...
Theo Dấu Người Xưa
Tôi có duyên quen biết thân tình khá nhiều bạn thuộc lứa tuổi và nghề nghiệp khác nhau. Riêng trong số các bạn trẻ có liên quan hoạt động chữ nghĩa, sách vở, học thuật, phải kể có Phan Mạnh Hùng và Nguyễn Đông Triều, là chỗ có thể ngồi chơi trao đổi chân tình với nhau về đủ thứ chuyện trong những lúc trà dư tửu hậu. Hai người là đồng tác giả của cuốn "Theo dấu người xưa" mà bạn đọc đang cầm trên tay.
Với Nguyễn Đông Triều, tôi đã được đọc trước đó khá nhiều bài viết, phần nhiều đăng trên các báo, trong đó chủ yếu là Tạp chí Xưa và Nay của Hội Sử học Việt Nam mà tôi có tham gia chút ít trong khâu biên tập, thì thấy phiên dịch, biên khảo rất cẩn trọng. Với Phan Mạnh Hùng, tôi cũng nhận ra một phong cách làm việc nghiêm túc tương tự. Hai người thường là đồng tác giả của những công trình khảo cứu về di tích văn hóa - lịch sử và văn học miền Nam giai đoạn khoảng trên dưới một thế kỷ trước, kết quả của bao chuyến đi điều tra thực địa lặn lội gian khổ nhưng chắc đầy thú vị ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, cũng như bao công phu tra tìm thêm trong đống sách báo cũ, nhờ vậy đã cung cấp được cho người đọc hôm nay, phần nhiều không đọc được chữ Hán Nôm, những kiến thức bổ ích cần thiết liên quan đến các đình chùa miếu mạo và các di văn còn để lại của người xưa, vốn gắn liền với lịch sử gian lao cuộc di dân khai phá và xây dựng vùng đất mới Nam Bộ.
Tiếp theo sách Tìm trong di sản văn hóa phương Nam đã được xuất bản vào khoảng 6 tháng trước (Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ), nay trong sách "Theo dấu người xưa" này, hai tác giả lại tiếp tục mang đến nhiều khám phá thêm nữa, trong một quyển sách hầu như chia thành 2 phần khá rõ rệt.
Phần trước, chủ yếu do Nguyễn Đông Triều viết, trên cơ sở khảo sát thực địa nhiều nơi để thu thập tư liệu, bao quát một phạm vi rộng lớn từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ lên đến Thành phố Hồ Chí Minh, ra tới Bình Thuận, đã ghi chép/ giới thiệu một cách công phu và chính xác nhiều di tích văn hóa, lịch sử cũng như về một số nhân vật liên quan đến lĩnh vực Hán Nôm, nhờ đó chúng ta có thể biết thêm những chi tiết đáng chú ý về nhiều chuyện có thể đã từng được nghe thoáng qua đâu đó nhưng chưa tường tận, như Tổng trấn Gia Định thành Nguyễn Văn Nhơn và khu mộ cổ ở Sa Đéc, di sản văn hóa Hán Nôm đình Bình An, chùa Vĩnh Phước An (Bạc Liêu), văn tế nôm Nam Bộ qua sách Gia lễ tập thành, chùa Ngọc Hoàng một di tích độc đáo…
Trong phần trước này, yếu tố văn tự/ văn chương Hán Nôm được đặc biệt chú ý khai thác/ diễn giải với hàng trăm câu đối, hoành phi, thơ, văn có kèm phiên âm, dịch nghĩa cẩn thận, không chỉ giúp người đọc ngày nay nhận thức được di sản quý báu của các thế hệ cha ông, trong khi nghiên cứu văn hóa - lịch sử hoặc đi du lịch, mà còn góp phần bổ sung tư liệu đáng kể cho những bộ quốc sử hoặc lịch sử văn học sau này.
Phần sau, chủ yếu là những công trình của Phan Mạnh Hùng đã được đăng báo/ tạp chí, đặc sắc vì đã giới thiệu được, hay nói đúng hơn “nhắc lại” được, một mảng văn học miền Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX cho đến những năm 40-60 của thế kỷ trước mà trong một thời gian khá dài hầu như đã bị lãng quên, khiến nhiều người, nhất là thế hệ trẻ, không được biết đến. Đó là những công trình, tác phẩm của giới nhà văn/ nhà nghiên cứu tiền phong tiêu biểu của miền Nam mà hoạt động của họ phần nhiều gắn chặt với ngành báo chí - xuất bản của thời đó. Đọc phần này, chúng ta sẽ có dịp được biết và hiểu thêm bài văn khóc thầy của các nhà văn Quốc ngữ tiên phong, Túy Kiều án và Túy Kiều phú ở Nam Bộ, việc giới thiệu về Nam Bộ trên Nam Kỳ tuần báo và Đại Việt tập chí, Tân Dân Tử và những bộ tiểu thuyết lịch sử lừng danh về Gia Long, Dương Tử Giang nhà văn dấn thân, Thẩm Thệ Hà nhìn từ lĩnh vực phê bình văn học…
Tóm lại, nếu đọc kỹ "Theo dấu người xưa", người đọc thời nay chắc chắn sẽ tìm thấy bên trong còn lắm điều hay. Đó là chưa kể kèm rải rác theo các trang sách còn có nhiều hình ảnh tư liệu minh họa quý hiếm, giúp theo dõi phần nội dung chính của công trình biên khảo này một cách dễ dàng thoải mái hơn.
Trong một góc khác để chia sẻ, riêng tôi còn quý mến hai tác giả Phan Mạnh Hùng - Nguyễn Đông Triều, đều là giảng viên trẻ của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, ở chỗ cả hai anh dường như chưa bị lôi cuốn lắm vào lối sống thực dụng phổ biến của giới trẻ Việt Nam hiện tại vốn đã lan khá sâu vào mọi ngóc ngách của xã hội, nhờ thế vẫn còn bình tĩnh, tâm huyết lo việc khảo sát di tích, rị mọ sách vở, để ngày càng cống hiến được cho xã hội nhiều công trình nghiên cứu văn hóa - lịch sử bổ ích. Đó cũng là thêm một lý do thúc đẩy tôi hôm nay vui vẻ viết lời tựa này.
- Trần Văn Chánh
16 - 5 - 2017
Hợp Tuyển Văn Học Văn Học Cổ Điển Hàn Quốc
Văn học Hàn Quốc rất phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên, những tác phẩm được dịch và giới thiệu ở Việt Nam còn quá khiêm tốn. Bộ Hợp tuyển văn học Hàn Quốc được biên soạn với mục đích dịch và giới thiệu những tác phẩm (trích đoạn tác phẩm) tiêu biểu, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc quan tâm, yêu mến và mong muốn thưởng thức, tìm hiểu văn chương xứ sở Kim chi.
Trước khi bán đảo Hàn bị chia cắt bởi vĩ tuyến 38 (bắt đầu từ năm 1945 và chính thức từ năm 1953), có một nền văn học truyền thống của chung toàn bán đảo. Sau khi chia cắt, miền Bắc và miền Nam thành hai quốc gia. Ở miền Bắc (North Korea) là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Joseon Minjujueui Inmin Gonghwaguk), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Triều Tiên. Ở miền Nam (South Korea) là Daehan Minguk (Đại Hàn Dân Quốc), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Hàn Quốc.
Theo Kim Jung Bae(1) và nhiều nhà nghiên cứu khác, Han (Hàn) trong “bán đảo Hàn”, “người Hàn”, “chữ Hàn”, “dân tộc Hàn”… vốn là một từ tiếng Hàn có nghĩa là “vĩ đại”, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Sau sự sụp đổ của Go Joseon (Cổ Triều Tiên), vào thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên và các thế kỷ đầu sau Công nguyên, ở Trung và Nam bộ bán đảo Hàn hình thành ba liên minh bộ lạc là Mã Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn. Các liên minh bộ lạc này đến thế kỷ IV bị sát nhập vào các nước Tam Quốc của Korea. Từ Han được chuyển sang Hán tự là 韓, 幹, hay 刊, có sự phân biệt với từ chỉ người Hán (漢) hoặc nước Hàn (韓) thuộc về Trung Hoa.
Khi trình bày văn học dân gian, văn học cổ điển, tức là những thời kỳ mà bán đảo Hàn chưa bị chia cắt, một cách chặt chẽ, cần dùng thuật ngữ “văn học Korea” (Korean Literature), không phân biệt Bắc (North Korea) và Nam (South Korea). Tuy nhiên, do điều kiện tư liệu về văn học Triều Tiên (North Korea) còn rất thiếu thốn ở Việt Nam, ngay khi tìm hiểu văn học dân gian, văn học trung đại, chúng tôi cũng như giới nghiên cứu ở Việt Nam nói chung chỉ có thể dựa vào nguồn tư liệu tác phẩm, tài liệu tham khảo của Hàn Quốc. Vì vậy, khái niệm “Hàn Quốc” trong tên của bộ sách Hợp tuyển này được hiểu theo nghĩa rộng với phạm vi “bán đảo Hàn” cho đến trước năm 1945 và được hiểu theo nghĩa hẹp với phạm vi Đại Hàn Dân Quốc từ năm 1945 trở đi.
Bộ sách Hợp tuyển văn học Hàn Quốc bao gồm 3 cuốn: (1) Văn học dân gian, (2) Văn học cổ điển, (3) Văn học hiện đại.
Bộ sách này thuộc khuôn khổ Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và giảng dạy văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực hiện trong ba năm 2012 - 2015 với sự tài trợ của Viện Nghiên cứu Trung ương Hàn Quốc.
Hợp Tuyển Văn Học Dân Gian Hàn Quốc
Văn học Hàn Quốc rất phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên, những tác phẩm được dịch và giới thiệu ở Việt Nam còn quá khiêm tốn. Bộ Hợp tuyển văn học Hàn Quốc được biên soạn với mục đích dịch và giới thiệu những tác phẩm (trích đoạn tác phẩm) tiêu biểu, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc quan tâm, yêu mến và mong muốn thưởng thức, tìm hiểu văn chương xứ sở Kim chi.
Trước khi bán đảo Hàn bị chia cắt bởi vĩ tuyến 38 (bắt đầu từ năm 1945 và chính thức từ năm 1953), có một nền văn học truyền thống của chung toàn bán đảo. Sau khi chia cắt, miền Bắc và miền Nam thành hai quốc gia. Ở miền Bắc (North Korea) là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Joseon Minjujueui Inmin Gonghwaguk), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Triều Tiên. Ở miền Nam (South Korea) là Daehan Minguk (Đại Hàn Dân Quốc), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Hàn Quốc.
Theo Kim Jung Bae (1) và nhiều nhà nghiên cứu khác, Han (Hàn) trong “bán đảo Hàn”, “người Hàn”, “chữ Hàn”, “dân tộc Hàn”… vốn là một từ tiếng Hàn có nghĩa là “vĩ đại”, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Sau sự sụp đổ của Go Joseon (Cổ Triều Tiên), vào thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên và các thế kỷ đầu sau Công nguyên, ở Trung và Nam bộ bán đảo Hàn hình thành ba liên minh bộ lạc là Mã Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn. Các liên minh bộ lạc này đến thế kỷ IV bị sát nhập vào các nước Tam Quốc của Korea. Từ Han được chuyển sang Hán tự là 韓, 幹, hay 刊, có sự phân biệt với từ chỉ người Hán (漢) hoặc nước Hàn (韓) thuộc về Trung Hoa.
Khi trình bày văn học dân gian, văn học cổ điển, tức là những thời kỳ mà bán đảo Hàn chưa bị chia cắt, một cách chặt chẽ, cần dùng thuật ngữ “văn học Korea” (Korean Literature), không phân biệt Bắc (North Korea) và Nam (South Korea). Tuy nhiên, do điều kiện tư liệu về văn học Triều Tiên (North Korea) còn rất thiếu thốn ở Việt Nam, ngay khi tìm hiểu văn học dân gian, văn học trung đại, chúng tôi cũng như giới nghiên cứu ở Việt Nam nói chung chỉ có thể dựa vào nguồn tư liệu tác phẩm, tài liệu tham khảo của Hàn Quốc. Vì vậy, khái niệm “Hàn Quốc” trong tên của bộ sách Hợp tuyển này được hiểu theo nghĩa rộng với phạm vi “bán đảo Hàn” cho đến trước năm 1945 và được hiểu theo nghĩa hẹp với phạm vi Đại Hàn Dân Quốc từ năm 1945 trở đi.
Bộ sách Hợp tuyển văn học Hàn Quốc bao gồm 3 cuốn: (1) Văn học dân gian, (2) Văn học cổ điển, (3) Văn học hiện đại.
Bộ sách này thuộc khuôn khổ Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và giảng dạy văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực hiện trong ba năm 2012 - 2015 với sự tài trợ của Viện Nghiên cứu Trung ương Hàn Quốc.
Dạo Bước Vườn Văn Hàn Quốc
Kim Hunggyu, một nhà nghiên cứu uy tín của Hàn Quốc, từng viết: “Quan điểm chung cho rằng có thể hiểu được hành xử truyền thống, thế giới quan, cảm thức thẩm mỹ và cái nhìn cảm xúc của một cộng đồng thông qua văn chương mà họ sáng tạo và phát triển là đặc biệt thích hợp với văn chương Hàn Quốc. (...) Do vậy, tìm hiểu văn chương Hàn Quốc trở thành một hành trình bổ ích giúp chúng ta khám phá những giấc mộng và nỗi lo âu, vinh quang và thất bại, niềm vui và nỗi buồn của người Hàn qua các thời đại”(1).
Với hy vọng khám phá như vậy, cuốn sách này muốn mời quý vị bạn đọc bước vào vườn văn Hàn Quốc, hân thưởng chút ít sắc hương trong muôn ngàn hoa trái. Và cùng trò chuyện về văn chương Hàn Quốc trong đối thoại với văn chương Việt Nam.
Ở những câu chuyện văn chương Hàn Quốc và Việt Nam gần gũi nhau, quý vị có thể lắng nghe khúc song tấu, nhận ra hòa âm hoặc các phức điệu tinh tế.
Ở những câu chuyện văn chương Hàn Quốc đặc thù không tìm thấy nét tương đương trong văn chương Việt Nam, hãy để chúng độc tấu bản sắc riêng biệt của mình.
Có cả những câu chuyện về tiếp xúc, giao lưu giữa văn chương hai dân tộc, những câu chuyện về văn chương Hàn Quốc đã đến trong sự đón nhận của người Việt Nam từ xưa tới nay.
Nghĩa là đem soi những tấm gương trong nhau, để có thể hiện ra chiều sâu ẩn chứa, mở ra một thế giới vừa quen vừa lạ, nơi chúng ta đi vào nền văn học, văn hóa của tha nhân trong khi luôn luôn đang đồng thời trở về, cảm hiểu hơn chính tâm hồn dân tộc chúng ta.
Trước khi bán đảo Hàn bị chia cắt bởi vĩ tuyến 38 (bắt đầu từ năm 1945 và chính thức từ năm 1953), có một nền văn học truyền thống của chung toàn bán đảo. Sau khi chia cắt, miền Bắc và miền Nam thành hai quốc gia. Ở miền Bắc (North Korea) là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Joseon Minjujueui Inmin Gonghwaguk), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Triều Tiên. Ở miền Nam (South Korea) là Daehan Minguk (Đại Hàn Dân Quốc), cách gọi tắt quen thuộc ở Việt Nam là Hàn Quốc.
Trong sách này, khi trình bày về văn học dân gian và văn học cổ điển, chúng tôi xin dùng thuật ngữ “văn học Korea” (Korean Literature), không phân biệt Bắc (North Korea) và Nam (South Korea). Khi trình bày văn học hiện đại, chúng tôi tập trung giới thiệu văn học Hàn Quốc (South Korea). Sở dĩ như vậy một phần căn bản là do điều kiện tư liệu về văn học Triều Tiên (North Korea) còn rất thiếu thốn ở Việt Nam. Ngay cả về văn học dân gian và văn học trung đại, giới nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản cũng chỉ dựa vào nguồn tư liệu tác phẩm, tài liệu tham khảo của Hàn Quốc. Khái niệm “Hàn Quốc” trong tên của sách này được hiểu theo nghĩa rộng với phạm vi “bán đảo Hàn” cho đến trước chia cắt Bắc - Nam, được hiểu theo nghĩa hẹp với phạm vi “Đại Hàn Dân Quốc” (South Korea) từ sau khi chia cắt.
Khi kể những câu chuyện văn chương trong sách này, chúng tôi đã kế thừa những công trình nghiên cứu văn học Hàn Quốc, nghiên cứu so sánh văn học, văn hóa Hàn - Việt của các học giả trong nước và nước ngoài đồng thời cố gắng để có đóng góp riêng, thử tìm kiếm những đề tài mới, thăm dò những khía cạnh mới, biểu đạt bằng giọng điệu mới... Rốt cuộc, lối kia, nẻo nọ, chúng tôi đã nâng niu một ít trái hoa; cung ấy, điệu đây, chúng tôi đã lựa vài giai âm tha thiết.
Nếu hành trình này khơi gợi được nơi quý vị niềm cảm hứng để tiếp tục tìm đọc các tác giả, tác phẩm thì đó là hạnh phúc mà nền văn học Hàn Quốc xứng đáng được trao tặng. Xin chân thành cảm ơn quý vị bạn đọc cầm sách này lên và sẵn lòng cùng chúng tôi dạo bước vườn văn xứ sở kim chi.
Khám Phá Căn Hầm Tối
Bộ sách bé vui khỏe mẹ yên tâm gồm 3 tựa sách: Giải lời nguyền của phù thủy, Khám phá căn hầm tối, Một cuộc thi tài, dạy trẻ cách chăm sóc và bảo vệ bản thân giúp bé vui và khỏe hơn.
Kết Bạn Đâu Có Khó
Bộ sách cùng bé yêu khám phá thiên nhiên bao gồm 3 tựa sách: Loài chim phi thường, Ai cũng tuyệt vời, Kết bạn đâu có khó giúp bé vừa khám phá thiên nhiên, động vật vừa dạy trẻ cách sống.
Anh Ngữ Phật Học Giản Dị
Ngày nay nhu cầu sử dụng tiếng Anh Phật pháp ngày càng gia tăng khắp thế giới, không chỉ ở phương diện đọc hiểu hay dịch thuật mà còn ở giao tiếp. Trong xu hướng đó, sử dụng tiếng Anh đơn giản để nói lên những điều sâu xa nhất là điều mà những người yêu mến Phật học đều muốn thực hiện để chia sẻ tư tưởng, sao cho ở trình độ nào và dân tộc nào cũng có thể hiểu và giao tiếp được với nhau.
Quyển Anh Ngữ Phật Học Giản Dị được biên soạn dựa trên bản tiếng Anh của kinh Pháp Cú (Dhammapada) được Đại Đức Narada THera, dịch giả Acharya Buddharakkhita và N.K. Bhagwat dịch thuật trực tiếp từ nguyên bản tiếng Pali.
Nhằm giúp người học dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ, những cấu trúc câu phức tạp được đơn giản hóa, và từ vựng khó được thay thế bằng từ vựng đơn giản hơn. Người học có thể đọc một câu kinh Pháp cú, tham khảo phần từ vựng, dịch sang tiếng Việt và đối chiếu với phần dịch tham khảo. Phần này được dịch sát nghĩa và có tham khảo bản dịch từ nguyên bản tiếng Pali của Hòa thượng THích Minh Châu và bản dịch thi hóa Pháp Cú Kinh (Anh - Việt) của Tịnh Minh để bảo đảm nội dung trung thành với những lời Phật dạy.
Tiếng Anh suy cho cùng chỉ là công cụ, nội dung truyền đạt chính xác và dễ hiểu mới là điều quan trọng. Cuốn sách này mong đóng góp một phần nhỏ vào việc giảng dạy và học tập Anh ngữ Phật học hiện nay.
Cuốn sách 1200 CÂU LUYỆN DỊCH TIẾNG HÀN QUỐC cùa ThS Lê Huy Khoa xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu luyện dịch của những bạn đọc sử dụng tiếng Hàn.
Chuyện Tình Các Danh Nhân Việt Nam - Tập 1
Sách CHUYỆN TÌNH CÁC DANH NHÂN VIỆT NAM (hai tập) giúp bạn đọc hiểu thêm tình cảm sâu kín - những tình cảm rất thật trong đời thường và rất đáng cho hậu thế chúng ta trân trọng cũng như cần biết khi nghiên cứu, tìm hiểu sự nghiệp của các danh nhân Việt Nam. Qua đó, có thể thấy được những tình cảm trong sáng, những rung động đầu đời rất mãnh liệt; những mối tình thủy chung son sắt đáng cho đời sau nhớ mãi.
Làm sao có thể quên được những giai nhân đã góp phần không nhỏ cho các bậc danh nhân làm nên sự nghiệp lớn? Có thể khẳng định, họ là những người lặng lẽ đứng phía sau, nhiều lúc không ghi lại tuổi tên, nhưng công đức của họ thật lớn lao.
Nếu không có những phụ nữ biết quên mình, biết chịu đựng để lo toan cho chồng như bà Dương Như Ngọc (vợ Ngô Quyền), bà Ba Cẩn (vợ Đề Thám), bà Lê Thị Tỵ (vợ Phan Châu Trinh), bà Lê Thị Lễ (vợ Lương Văn Can), v.v… liệu các danh nhân này có để lại sự nghiệp hiển hách như ngày nay?
Điều khiến chúng ta cảm động, dù không lưu lại tuổi tên như người tình đầu, người vợ của Vũ Khâm Lân, Cao Bá Quát, Tú Xương v.v… nhưng họ mãi mãi là hình ảnh đáng tự hào của phụ nữ nước Nam ta. Và cũng qua các mối tình này, ta thấy được tấm lòng thủy chung son sắt của bà Đặng Thị Cẩn, Lê Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân, Trương Thị Sáu, v.v… khi dành cho người tình đầu, người chồng của họ.
Mặt Nhân Bản Albert Einstein
“Không một ngày Không có EinstEin”
“ Và rồi einstein ở đâu hôm nay? Trong những tìm tòi, nghiên cứu, trong những thí nghiệm, tính toán của chúng ta. Trong những cuốn sách giáo khoa đại học từ vật lý đến lịch sử văn hóa. Trong những lời nói dí dỏm của chúng ta. Trong trái tim bạn bè và đồng nghiệp của chúng ta, những người gọi điện lúc nửa đêm kể cho nhau nghe về một ý tưởng ngớ ngẩn để giải một bài toán ngớ ngẩn. Trong trái tim những nghệ sĩ, doanh nhân, thợ điện và triết gia mà chúng ta gặp, những người muốn biết công thức e = mc2 thực sự có nghĩa gì ngay khi họ biết chúng ta là những nhà vật lý. Trong tất cả những người trí thức biết làm thế nào để dễ thương, khiêm tốn và đùa bỡn với truyền thông. Trong những người tỏ rõ lập trường. Trong mỗi cuộc biểu tình chống lại vũ khí hạt nhân. Trong tất cả những người trẻ biểu lộ một chút bất kính đối với quyền uy, và trong tất cả những người lớn tuổi uy tín có tư tưởng cấp tiến. Trong những người đã trốn chạy khỏi những gia đình độc tài, áp bức và những nhà giáo dục đầu óc hẹp hòi. Trong tất cả sinh viên của chúng ta, những em có thể giải được một bài toán mà chúng ta không thể giải. Trong tất cả những người chúng ta nghĩ là thiên tài thơ ngây không xem mình là quan trọng lắm. Trong tất cả những nhà vật lý cứng đầu và khó tính, những người nghĩ về những bài toán vật lý như lý do tồn tại của mình. Và trong tất cả những người tìm cách giải quyết những bài toán mà họ biết họ không thể hay sẽ không giải được.”
maria piropulu
Fukuzawa Yukichi Và Công Cuộc Kiến Thiết Thế Giới Hiện Đại
Tác giả cuốn sách FUKUZAWA YUKICHI VÀ CÔNG CUỘC KIẾN THIẾT THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI là Alan Macfarlane, hiện là giáo sư danh dự của trường King’s Colledge và của đại học Cambridge. Ông viết: “Fukuzama Yukichi là một nhà tư tưởng thời Minh Trị, nhưng ông cũng là một nhà tư tưởng hiện đại.
Fukuzawa... kết hợp khoa học công nghệ, thể chế chính trị và kinh tế thị trường của phương Tây, với tinh thần truyền thống hay văn hóa của Nhật Bản cổ truyền. Đất nước Nhật Bản ngày nay- có sự pha trộn đáng tò mò giữa “Đông” và “Tây” là nhờ một phần không nhỏ tầm nhìn của ông về vấn đề này, (mà như ông nói là), về “tính ưu việt của phương Tây chắc chắn lớn hơn Nhật Bản rất nhiều, nhưng văn minh phương Tây không hề hoàn hảo”.
Chuyện Tình Các Danh Nhân Việt Nam (Tập 2)
Sách CHUYỆN TÌNH CÁC DANH NHÂN VIỆT NAM (hai tập) giúp bạn đọc hiểu thêm tình cảm sâu kín - những tình cảm rất thật trong đời thường và rất đáng cho hậu thế chúng ta trân trọng cũng như cần biết khi nghiên cứu, tìm hiểu sự nghiệp của các danh nhân Việt Nam. Qua đó, có thể thấy được những tình cảm trong sáng, những rung động đầu đời rất mãnh liệt; những mối tình thủy chung son sắt đáng cho đời sau nhớ mãi.
Làm sao có thể quên được những giai nhân đã góp phần không nhỏ cho các bậc danh nhân làm nên sự nghiệp lớn? Có thể khẳng định, họ là những người lặng lẽ đứng phía sau, nhiều lúc không ghi lại tuổi tên, nhưng công đức của họ thật lớn lao.
Nếu không có những phụ nữ biết quên mình, biết chịu đựng để lo toan cho chồng như bà Dương Như Ngọc (vợ Ngô Quyền), bà Ba Cẩn (vợ Đề Thám), bà Lê Thị Tỵ (vợ Phan Châu Trinh), bà Lê Thị Lễ (vợ Lương Văn Can), v.v… liệu các danh nhân này có để lại sự nghiệp hiển hách như ngày nay?
Điều khiến chúng ta cảm động, dù không lưu lại tuổi tên như người tình đầu, người vợ của Vũ Khâm Lân, Cao Bá Quát, Tú Xương v.v… nhưng họ mãi mãi là hình ảnh đáng tự hào của phụ nữ nước Nam ta. Và cũng qua các mối tình này, ta thấy được tấm lòng thủy chung son sắt của bà Đặng Thị Cẩn, Lê Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân, Trương Thị Sáu, v.v… khi dành cho người tình đầu, người chồng của họ.
Nụ Cười Thiếu Nữ
Sách Những nụ cười của thiếu nữ có những câu văn lời lẽ đầy sinh động giúp người đọc có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của cuốn sách. Một nụ cười khó quên của cái tuôi đôi mươi sau sắc và trong sáng. Những câu chuyện trong sách sẽ giúp các bạn hiểu thêm nhiều về những nụ cười của thiếu nữ.
Tác giả Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng đã viết về người bạn thâm giao Phan Tây Hồ (Phan Chu Trinh) như sau: “Cùi cụi một mình, xông pha trăm ngả, gây thù chác oán, ngậm đắng nuốt cay; càng ngã xuống, càng đứng lên, càng bị thua, càng hăng hái, trước sau ôm một chủ nghĩa, lăn mình vào cái cảnh khổ... mà tìm một con đường rộng cùng ông Sào Nam chia đường đưa tới để cắm nêu chỉ lối cho người sau.
Ấy, dầu như đởm thức không đủ, nhiệt thành không tới nơi, làm sao lui mà địch với xã hội, tới mà dẫn đàng cho xã hội, mà làm một đấng tiên thời nhân vật ít ỏi như thế?
...Vậy tóm cả sự tích một đời tiên sinh, chia mấy thời kỳ làm một quyển sử, trước biểu bạch tâm sự một người đại chí sĩ, sau cùng để làm gương cho người sau, ấy cũng là nghĩa vụ một người học giả đối với quốc dân mà phải gắng vậy.”
Trong cuốn sách được xem là hồi ký này (CHÚNG TÔI ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ), tác giả PGS. TS. Nguyễn Ánh Tuyết, người bạn đời của Nhạc sĩ Phạm Tuyên chia sẻ: “Cuộc sống gia đình có nhiều biến đổi cùng với những biến động của xã hội, nhưng có một điều không thể thay đổi được trong gia đình chúng tôi, đó là tình yêu của chúng tôi và sự gắn bó của con cái với cha mẹ. Đó chính là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp của cả hai vợ chồng và là bệ phóng đưa các con đến những chân trời ước mơ.
... Ở ta, theo truyền thống, vợ thường là điểm tựa của chồng, lo lắng mọi việc cho chồng, hy sinh tất cả vì sự nghiệp của chồng là lẽ thường tình, nhưng chồng là điểm tựa của vợ, quan tâm lo lắng đến sự nghiệp của vợ thì không phải là phổ biến. Tôi thực sự hạnh phúc bởi đây lại là nét đặc biệt trong nhân cách của nhà tôi. Niềm vui đến với anh không chỉ khi mình thành công trong sáng tạo mà cả khi người vợ yêu qúy thành đạt một cái gì đó trong nghiên cứu khoa học hay trong giảng dạy. Để đạt tới một trình độ hay để hoàn thành một công trình khoa học nào đó, tôi đã phải mất nhiều công sức và thời gian. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự giảm sút trong việc chăm sóc gia đình. Những lúc đó, nhà tôi không những động viên mà còn tạo điều kiện cho tôi làm tốt nhiệm vụ...”. (trang 148, 149).
“Tới đây Orlando thức giấc.
Chàng duỗi dài người. Chàng ngồi dậy. Chàng đứng thẳng người, hoàn toàn trần trụi… Không một con người nào, kể từ thuở hồng hoang, trông mê hồn hơn thế. Cơ thể chàng hợp nhất sức mạnh của một gã đàn ông và sự thanh tú của một phụ nữ…Orlando đã trở thành phụ nữ – không thể phủ nhận điều đó… Orlando là một người đàn ông cho tới ba mươi tuổi, sau đó chàng trở thành một phụ nữ và vẫn giữ nguyên giới tính kể từ khi ấy…”
Theo Ted Gioia - Nhà phê bình Mỹ: “Tràn ngập các trang sách là một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng cao, không phải cuộc sống thật sự chúng ta vẫn sống, mà giống như một ảo ánh hay một giấc mơ”.
Cẩm Nang Tư Duy Kĩ Thuật
"Sau khi lang thang một đoạn đường giữa những tảng đá ảm đạm, tôi đã đến được lối vào một chiếc hang rất lớn… Hai cảm xúc trái ngược trào dâng trong tôi: sợ hãi và khao khát – sợ cái hang tối tăm đầy đe dọa và khao khát muốn nhìn xem liệu có thứ gì tuyệt vời trong đó hay không”.
– Leonardo Da Vinci –
Trong cuốn sách ;THẾ GIỚI MỘT THOÁNG NÀY, bạn đọc sẽ nhận ra một nhà sử học lớn có thể làm rõ các mối quan hệ giữa những Homo sapiens đầu tiên và phiên bản hôm nay của loài này; và một nhà kể chuyện lớn có thể làm cho các mối quan hệ kia trở nên sống động. David Christian làm được cả hai, và ;THẾ GIỚI MỘT THOÁNG NÀY ;là cuộc du hành - từ kỷ nguyên hái lượm sơ khai qua kỷ nguyên nông nghiệp phát triển để đến kỷ nguyên hiện đại ngày nay, hay "Thời đại thế Nhân sinh" - (Anthropocene, Paul Crutzen), một kỷ nguyên thú vị nhất nhưng cũng rối rắm nhất, ẩn chứa nhiều hiểm nguy chưa từng có cho con người và hành tinh. ;
Hãy bước vào ;THẾ GIỚI MỘT THOÁNG NÀY ;- và cởi bỏ hết thành kiến cho rằng cái gì cũ là buồn tẻ. Độc giả sẽ cảm nhận một ý thức mới về cuộc trường chinh của Homo sapiens và về quê hương của chúng ta trước một cục diện mới mà chúng ta, dù ý thức hay không, là những thành viên tích cực trong đó. Cũng như trong thuyết tương đối rộng của Einstein, hành tinh xanh cũng không phải là sân khấu để Homo sapiens diễn tuồng một cách độc lập. Cả hai chung cuộc cùng tồn tại hay cùng biến mất.
Vũ Điệu Buồn Của Chữ
VŨ ĐIỆU BUỒN CỦA CHỮ là tập tạp văn của Nguyễn Thành Nhân. Dường như tác giả rất yêu thơ, và có lẽ đã từng viết nhiều thơ, nhưng lại không hài lòng với những đứa con tinh thần của mình. Anh thổ lộ: “Muốn viết, mê viết mà viết ngày càng không ra chữ. Muốn làm thơ ngây thơ, hồn hậu như hồi mới lớn, mới biết yêu, cứ nghĩ thế nào thì tuôn ra thế ấy cũng không thể nào được nữa. Thơ chẳng còn bao dung dễ dãi với tôi. Làm thơ không tiến bộ nổi, tôi chuyển sang... viết văn xuôi. Nhưng những gì tôi viết ra chẳng mấy khi làm tôi hài lòng.” (Vũ điệu buồn của chữ).
Trong một tạp văn khác (Qua những miền xuân cũ), chúng ta biết nguồn gốc của bài thơ đầu tay mà chính bản thân tác giả cũng không còn nhớ, anh viết: “Tôi ra ngồi ngó những con bướm vàng bay chấp chới trên những đóa hoa vàng, và nảy ra một vài câu thơ xuân đầu tiên trong trí óc. Tôi chép lại mấy câu thơ đó và còn giữ được chúng vài năm, lý do để giờ đây còn nhớ tới sự tích ra đời của chúng, nhưng chẳng thể nào nhớ nổi mình đã viết gì. Chao ôi, tôi chỉ có tâm hồn thi sĩ, nhưng lại chẳng có thi tài. Từ bài thơ đầu tay đó tới giờ tôi làm thơ không nhiều, không liên tục nhưng cũng kha khá.”
Qua một số bài viết như Qua những miền xuân cũ, Vũ điệu buồn của chữ, Về thăm chiến trường xưa… người đọc có thể hiểu thêm chút ít về cuộc đời của tác giả, chỉ những chi tiết rất nhỏ, nhưng chúng gợi lên một thời kỳ, một giai đoạn xã hội anh đã trải qua. Một số bài viết khác như Nghĩ về nhà thơ Quang Dũng; Đọc Tây tiến viễn chinh; Đọc Như mơ thấy bướm của Ngô Khắc Tài; Đêm mưa đọc Sài Gòn giữa cơn mưa; Mạc Can, người nói tiếng bồ câu; Đọc lại Dưới ánh sao thu của Knut Hamsun… phản ánh với chúng ta những cảm nhận, cảm xúc của Nguyễn Thành Nhân đối với những tác phẩm hay tác giả mà anh đã đọc.
Những suy tư trằn trọc của anh về nghề (viết và dịch) về vấn đề sáng tác, xuất bản, về thế thái nhân tình và cả những cảm xúc vui buồn rất đời thường của anh cũng thể hiện qua một số bài như Nắng
nhớ, Cám ơn em và những bài hát cũ, Dịch thuật - con dao hai lưỡi, Một phát hiện mới về Mrs. Dalloway…
Với giọng văn có khi hiền lành dung dị, có lúc lại táo tợn “ba gai”, toàn tập VŨ ĐIỆU BUỒN CỦA CHỮ gợi cho người đọc nhiều cảm xúc và suy ngẫm. Và chúng ta cũng có một cái nhìn mới hơn về tác giả sau khi đọc tác phẩm này của anh.
Quốc Hội Khóa 6 - Chuyện Về Kỳ Họp Thứ Nhất (Tập 5)
Quốc Hội Khóa 6 - Chuyện Về Các Đại Biểu Của Dân (Tập 6)
Quốc Hội Khóa 1 - Chuyện Về Các Đại Biểu Nhân Dân (Tập 3)
Nàng Tuyết
Trước đây, một tuyển tập thu góp tác phẩm văn xuôi của mười hai tác giả Nhật Bản tiền cận đại và cận đại do nhiều dịch giả dịch ra tiếng Việt và Nguyễn Nam Trân chủ biên đã được Nhà xuất bản Trẻ ở Thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời vào năm 2007. Từ ngày ấy đến nay nhóm bạn văn chúng tôi vẫn đi theo chiều hướng đó nghĩa là tiếp tục cống hiến cho độc giả bốn phương những bản dịch mới liên quan đến văn học Nhật Bản.
Lần này, do một cơ may đến từ phía cơ quan xuất bản, vài thành viên trong nhóm dịch thuật chúng tôi và một bạn trẻ đã có dịp gom góp những bản dịch của mình để giới thiệu một số tác giả Nhật Bản cận đại, gồm mười nhà văn và hai nhà thơ.
Trong tuyển tập văn thơ mang tên Nàng Tuyết này, chúng tôi dịch thêm vài tác phẩm mới của năm nhà văn đã xuất hiện trong tuyển tập trước. Đó là Ueda Akinari, Koizumi Yakumo, Natsume SŌseki, Akutagawa Ryūnosuke và Dazai Osamu. Cùng lúc, chúng tôi giới thiệu năm người khác: Higuchi IchiyŌ, Izumi KyŌka, Nagai Kafū, Miyazawa Kenji và Kajii MotojirŌ. Xen vào mười nhà văn đó là hai nhà thơ: Ishikawa Takuboku (tanka) và Taneda SantŌka (haiku). Từ tuyển tập trước đến tuyển tập này, chỉ là một bước mới trong cuộc tản bộ để thưởng ngoạn vườn hoa đầy hương sắc của văn học Nhật Bản.
Các tác giả nói trên với nhân cách và văn phong đa dạng, đều có tính cổ điển vì đã để lại dấu ấn vững chắc của họ trong văn học Nhật Bản cận đại. Ngoài phần dịch các truyện ngắn do Quỳnh Chi, Nam Tử và Nguyễn Nam Trân, còn có những bài dẫn nhập và phân tích của Phạm Vũ Thịnh và Nguyễn Nam Trân nhằm cung cấp thêm thông tin có tính văn học sử về thân thế và sự nghiệp của các tác giả có mặt trong cuốn sách. Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản và các đối tác liên hệ đã giúp cho quyển sách này có thể chào đời. Trân trọng.
Tōkyō ngày 20 tháng 1 năm 2016
NGUYỄN NAM TRÂN
Hãy Cầm Lấy Và Đọc
'Những bài viết tập hợp trong cuốn sách này, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến vấn đề văn hóa đọc và đã được công bố trên các báo Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Sài Gòn Giải Phóng Thứ Bảy, Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Thanh Niên, Người Lao Động, Phụ Nữ, Pháp Luật, Nhà Văn, Quán Văn, Văn Nghệ, Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Lý luận - phê bình văn học nghệ thuật, Sài Gòn Tiếp Thị, Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần…
Khi đưa vào sách, chúng tôi có lược bỏ một số đoạn trùng lặp và một vài số liệu đã mất thời gian tính. Cuốn sách gồm hai phần. Phần đầu dành cho những bài viết bàn về việc đọc sách cùng một số hiện tượng của xuất bản và tiếp nhận văn học. Phần sau là những bài viết về một số tác giả, tác phẩm văn học hiện đại mà người viết có cơ may tiếp xúc. Nhằm phục vụ kịp thời cho báo chí, những bài viết trong tập này thường có tính chất giới thiệu, điểm sách nên không tránh khỏi hạn chế, mong bạn đọc lượng thứ. Chúng tôi chỉ hy vọng cuốn sách ghi nhận và làm chứng cho một vài phương diện của đời sống văn hóa, văn học những năm gần đây. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban biên tập các báo nói trên.'
(Huỳnh Như Phương)
Nhà Lê Sơ (1428 - 1527) Với Công Cuộc Chống Nạn 'Sâu Dân, Mọt Nước'
'Thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam luôn có sức hấp dẫn đối với giới nghiên cứu lịch sử trong nước và ngoài nước, bởi những thành tựu mà triều đại này đã đóng góp vào tiến trình phát triển của dân tộc trên nhiều phương diện. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tổng quan hoặc chuyên sâu về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của thời Lê sơ được công bố. Tuy nhiên, phần lớn đều là những công trình nghiên cứu về thành tựu và những đóng góp thiên về hướng tích cực. Hiện vẫn còn chưa nhiều những công trình nghiên cứu về những tồn tại, hạn chế và cách thức ứng phó với những biểu hiện tiêu cực, hạn chế của thời Lê sơ. Công trình nghiên cứu Nhà Lê sơ (1428 - 1527) với công cuộc chống nạn “sâu dân, mọt nước” của anh Trần Đình Ba có thể được xem là một trong số ít ỏi đó. Thông qua tư liệu lịch sử và phương pháp tiếp cận của sử học để xem xét, đánh giá những nỗ lực của nhà Lê sơ trong việc bài trừ vấn nạn tham nhũng, công trình nghiên cứu của Trần Đình Ba đã góp phần làm sáng tỏ bức tranh hiện thực lịch sử về thời Lê sơ không chỉ ở gam màu sáng mà còn ở cả gam màu tối. Qua đó, hiện thực lịch sử được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan và toàn diện hơn. Đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt của công trình nghiên cứu này.
Bằng văn phong khoa học, Trần Đình Ba đã dẫn dắt người đọc chậm rãi nghiền ngẫm về vấn nạn tham nhũng của thời Lê sơ nhưng cũng là vấn nạn của mọi thời đại. Qua thời Lê sơ đối với tệ nạn tham nhũng tuy chưa phổ biến nhưng cũng đã xảy ra trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tượng; những nỗ lực ngăn chặn nạn sâu dân, mọt nước của nhà Lê sơ thông qua một hệ thống các biện pháp kết hợp giữa răn đe, trừng phạt và giáo dục; chính sách bồi dưỡng và sử dụng con người trong bộ máy công quyền nhằm đề cao tinh thần “dưỡng liêm” và năng lực thực hành công vụ của đội ngũ quan lại… Công trình này sẽ rất có giá trị với nhiều đối tượng bạn đọc, nhất là bạn đọc yêu thích lịch sử nước nhà. Tác giả Trần Đình Ba còn rất trẻ, cần có sự bồi bổ kinh nghiệm nghiên cứu không ngừng để các công trình nghiên cứu của anh có hàm lượng khoa học ngày càng cao hơn, thể hiện sự sắc sảo hơn nữa. Riêng đối với công trình nghiên cứu này, Trần Đình Ba đã cho thấy được năng lực nghiên cứu, năng lực kiến giải những vấn đề lịch sử “gai góc” cùng sự say mê đối với khoa học lịch sử của anh. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm này!'
(PGS.TS TRẦN THỊ MAI)
Trò Chuyện Với Khoa Học Và Giáo Dục
'Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là tập hợp những suy nghĩ, quan điểm, và tầm nhìn của tác giả về các vấn đề trên. Nội dung được chia làm 4 phần: Khoa học, đạo đức khoa học, xuất bản khoa học, và giáo dục. Đây không phải là một công trình nghiên cứu khoa học, mà chỉ là những ý kiến mang tính thảo luận của cá nhân tôi. Cũng có thể xem những ý kiến này mang tính “phản biện” và góp ý vào chính sách khoa học và giáo dục. Những quan điểm và tầm nhìn trong danh sách này thể hiện cũng là những trải nghiệm của một người đã có hơn 30 năm trong các đại học và kinh qua các môi trường khoa học phương Tây. Tôi không muốn áp đặt những quan điểm lên chính sách ở trong nước, mà chỉ muốn thuyết phục bạn đọc bằng những dữ liệu và kinh nghiệm thực tế. Những suy nghĩ được viết ra với tâm nguyện đóng góp một phần vào nỗ lực đổi mới và xây dựng một nền giáo dục đại học tốt hơn, và một nền khoa học đàng hoàng hơn.
Nước ta đang trong tiến trình hội nhập thế giới. Năm 2016, Việt Nam tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, và thời điểm này cũng đánh dấu một sự hòa nhập toàn diện nền kinh tế của 10 quốc gia trong vùng, trong đó dĩ nhiên có cả giáo dục và khoa học. Rồi sẽ đến một ngày các trường đại học và nhà khoa học Việt Nam cạnh tranh với các trường và đồng nghiệp ASEAN. Để có khả năng cạnh tranh tốt, chúng ta cần phải biết những qui ước khoa bảng, những tiêu chí trong khoa học đang được dùng ở các nước ngoài Việt Nam. Tôi tin rằng bạn đọc sẽ tìm thấy nhiều khác biệt và hiểu thêm những “luật chơi” khoa học quốc tế.
Nhiều ý kiến và quan điểm trong cuốn sách này đã được trình bàu trên các diễn đàn báo chí đại chúng và hội nghị trong nước. Nhân dịp này, tôi trân trọng cám ơn các bài Tuổi trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tuần Việt Nam, VNExpress, Sài Gòn Tiếp thị cũ, Ngày nay, Lao động, Sinh viên Việt Nam đã biên tập và công bố những bài viết của tôi hơn 10 năm qua. Tôi biết chắc rằng những dữ liệu trình bày trong sách, dù đã được xem xét cẩn thận về nguồn gốc, vẫn còn có sai sót hoặc thiếu sót. Do đó, tôi rất mừng nếu nhận được góp ý và bổ sung của bạn đọc.'
(Nguyễn Văn Tuấn)
Nhà Ở Cuối Đường Conventry
Bạn có thể gọi đây là tập truyện cổ tích dành cho người lớn. Bạn cũng có thể gọi đây là tập truyện hiện thực huyền ảo dành cho trẻ em. Tại sao không phải là ngược lại? Có vẻ như sẽ hợp lí hơn nếu đây là cổ tích dành cho trẻ em và hiện thực huyền ảo dành cho người lớn. Tuy nhiên, sự hợp lí đó có nguy cơ sẽ biến tập truyện này thành hai tập truyện khác nhau trong cùng một quyển sách. Thế nhưng, chính vì có sự nghịch lí ấy, chất cổ tích và chất hiện thực huyền ảo hòa quyện trong tập truyện này đã tạo nên không khí đặc trưng riêng vừa dễ thương vừa sâu lắng. Ở những truyện viết theo phong cách cổ tích như Tuyết lửa, Lời nói dối… thì tác giả gửi gắm những suy tư của mình theo lối hiện thực huyền ảo. Ngược lại, ở những truyện viết theo lối hiện thực huyền ảo như Nàng tiên cá hồ Rupert, Độc dược Taxus Baccata, Cô rắc rối và con mèo già… cách lựa chọn bối cảnh, nhân vật, sắp xếp tình tiết lại dễ khiến người ta liên tưởng đến những truyện cổ tích. Vì vậy, mở đầu những truyện ngắn trong tập truyện này có thể mang đến cảm giác vừa lạ vừa quen; thứ cảm giác không lạ lẫm hoàn toàn ấy kích thích bạn dự tưởng về tiến trình phát triển câu chuyện; nhưng đừng vội chủ quan, rất nhiều truyện ngắn trong Nhà ở cuối đường Coventry chọn kết thúc ở thời điểm không hẳn là hoàn toàn thích hợp.
Ngọc Huyền dường như không có tham vọng kể một câu chuyện hoàn chỉnh, điều cô cố gắng nỗ lực là tái tạo lại không khí trong thế giới mà nhân vật đã sống thông qua chính cảm xúc của họ. Cảm xúc của một con người (ngôi thứ nhất) hay nhiều con người (ngôi thứ ba) không phải lúc nào cũng ổn định. Sự nghiêm túc và bỡn cợt luân phiên hoán đổi trong lối kể của Huyền. Vì vậy mà ở đây chúng ta có truyện cổ tích dành cho người lớn, truyện hiện thực huyền ảo dành cho trẻ em, thậm chí chúng ta cũng có cả truyện cổ tích dành cho trẻ em và hiện thực huyền ảo dành cho người lớn nữa.
Chuyện Về Ngày Bầu Cử (Tập 1)
Cuộc họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày độc lập tại Bắc Bộ phủ (3-9-1945) đã mở đầu quá trình chuẩn bị cho cuộc phổ thông đầu phiếu gấp rút được thực hiện trong khoảng thời gian gần 4 tháng. Đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm trên đất nước vừa hồi sinh, “hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” .
Từ cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, đánh dấu bước nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới. Trong Diễn văn khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút rằng: “Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này là lần đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó là một kết quả của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, mà cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.
Ngày 5-1-1946, Người ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu với lý lẽ “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình” . Người hy vọng ngày mai sẽ có những đại biểu có mặt trong thành phần Quốc hội sau cuộc Tổng tuyển cử sao cho xứng đáng với niềm tin yêu, sự phó thác trách nhiệm cao cả của quốc dân lên đôi vai mình mà “ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào”, phải biết lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc làm lợi ích cao nhất, thiêng liêng nhất.Kết quả cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 diễn ra thật tốt đẹp như mong muốn của Người.
70 năm đã trôi qua, nhưng ngày bầu cử Quốc hội 6 tháng 1 năm 1946 - ngày khai mở cho lịch sử lập hiến nước Việt Nam độc lập, tự do vẫn mãi mãi lắng sâu trong ký ức dân tộc. Những thế hệ người Việt Nam 70 năm qua và thế hệ tiếp nối mãi mãi lưu giữ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đứng đầu Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, người lĩnh trách nhiệm cao nhất trong việc đề xướng và chỉ đạo tổ chức cuộc Tổng tuyển cử lịch sử, Người cũng là hiện thân của nền dân chủ cộng hòa.Những câu chuyện về ngày bầu cử đầu tiên ấy đã trải qua 70 năm nhưng vẫn được lưu truyền, được kể để nhớ mãi, như cách vua Trần Nhân Tông xưa làm “Người lính già đầu bạc; Kể mãi chuyện Nguyên Phong” …
Chuyện Về Kì Họp Thứ Nhất (Tập 2) Cuộc họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày độc lập tại Bắc Bộ phủ (3-9-1945) đã mở đầu quá trình chuẩn bị cho cuộc phổ thông đầu phiếu gấp rút được thực hiện trong khoảng thời gian gần 4 tháng. Đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm trên đất nước vừa hồi sinh, “hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” .Từ cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, đánh dấu bước nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới. Trong Diễn văn khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút rằng: “Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này là lần đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó là một kết quả của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, mà cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”. Ngày 5-1-1946, Người ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu với lý lẽ “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình” . Người hy vọng ngày mai sẽ có những đại biểu có mặt trong thành phần Quốc hội sau cuộc Tổng tuyển cử sao cho xứng đáng với niềm tin yêu, sự phó thác trách nhiệm cao cả của quốc dân lên đôi vai mình mà “ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào”, phải biết lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc làm lợi ích cao nhất, thiêng liêng nhất.Kết quả cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 diễn ra thật tốt đẹp như mong muốn của Người. 70 năm đã trôi qua, nhưng ngày bầu cử Quốc hội 6 tháng 1 năm 1946 - ngày khai mở cho lịch sử lập hiến nước Việt Nam độc lập, tự do vẫn mãi mãi lắng sâu trong ký ức dân tộc. Những thế hệ người Việt Nam 70 năm qua và thế hệ tiếp nối mãi mãi lưu giữ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đứng đầu Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, người lĩnh trách nhiệm cao nhất trong việc đề xướng và chỉ đạo tổ chức cuộc Tổng tuyển cử lịch sử, Người cũng là hiện thân của nền dân chủ cộng hòa.Những câu chuyện về ngày bầu cử đầu tiên ấy đã trải qua 70 năm nhưng vẫn được lưu truyền, được kể để nhớ mãi, như cách vua Trần Nhân Tông xưa làm “Người lính già đầu bạc; Kể mãi chuyện Nguyên Phong” …
Trại Hè Những Bí Ấn Khoa Học - Hồn Ma Hồ Than Thở Tại Trại hè Dakota, nhiều điều kỳ lạ diễn ra. Bộ sách kể về Cuộc truy tìm của các trại viên về các hiện tượng bí ẩn xung quanh, và trong lúc truy tìm các bạn đã học hỏi được nhiều điều lý thú về các kiến thức khoa học về hiện tượng tự nhiên. Các âm thanh lạ phát ra từ hồ trong khu vực trại hè Dakota. Các trại viên cho rằng các âm thanh than vãn đó là tiếng ma, nhưng liệu điều đó có phải là sự thật? Braelin và Megan đã vận dụng những kiến thức về âm thanh và khuyếch đại âm thanh của mình để tìm kiếm xem tiếng ma ở đâu. Đó là một buổi sáng sấm chớp và tối tăm tại Trại hè Dakota, nhưng điều này không ngăn việc điều tra của hai bạn. Còn gì khác ngoài ma? Các trại viên thu âm và phóng to các âm thanh, nhưng đột nhiên các tiếng biến mất. Braelin và Megan không từ bỏ, thậm chí vì cuộc săn đuổi ma họ bị lạc vào rừng sâu. Liệu họ có thể sử dụng trí thông minh của mình về âm thanh để quay trở lại an toàn?
Ở báo Lao Động trước Huỳnh Dũng Nhân khoảng chục năm có Kỳ Lâm là một tay viết tạp bút phải nói là kỳ tài. Chẳng may anh mất sớm, và từ đó mục tản mạn trên báo ấy thiếu người chăm. May là sau chục năm lại có Huỳnh Dũng Nhân. Tôi đọc tản văn của Nhân với sự vui mừng và cả xúc động. Nhiều bài viết trong tập sách mỏng và nhỏ khiến người ta không thể hững hờ, không thể đọc rồi bỏ, như đọc một bài báo đơn giản trên nhật trình.
Cái hay đầu tiên là sự chân thành của người viết. Viết tản văn mà văn hoa bóng bẩy, mà nỉ non, ỉ ôi thương vay khóc mướn là vứt. Huỳnh Dũng Nhân viết rất có văn, nhưng anh không lạm dụng sự "làm văn". Anh viết từ bộ lọc của ký ức, nhiều bài tản văn ngắn có cảm giác như đã sống trong anh nhiều năm trước khi hiện lên trang giấy. Là nhà báo, đi nhiều, súc tích nhiều, suy nghĩ nhiều nhưng nếu thiếu đi sự chân thành - làm nên cả lương tâm và cách thể hiện - thì Huỳnh Dũng Nhân khó lòng có được tập tản văn đọc "vào" như thế này
Đây là những nội dung mà người tiêu dùng luôn muốn biết nhưng không có ai để hỏi. Hướng dẫn cho người tiêu dùng cách thức dễ dàng để biết chất phụ gia nào có trên nhãn bao bì thực phẩm, tự tìm ra tên hóa chất từ mã số của chất phụ gia đó và hiểu được vai trò, chức năng của nó. Giúp người tiêu dùng tự tin chọn lựa và quyết định: THẬT SỰ, SẢN PHẨM GÌ NÊN CÓ TRONG GIỎ ĐI CHỢ CỦA MÌNH.
Trung Quốc là quốc gia đang phát triển có dân số đông nhất thế giới, với đất đai rông lớn, điều kiện khí hậu, địa phương phức tạp. Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, nền kinh tế Trung Quốc phát triển vượt bậc nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc phải đối mặt với những vấn đề quan trọng như môi trường, tài nguyên. Dân số đông cùng với điều kiện tự nhiên phức tạp đã khiến cho việc bảo vệ môi trường Trung Quốc gặp phải những thử thách vô cùng to lớn. Trung Quốc rất chú trọng đến công tác xây dựng và bảo vệ môi trường, hơn thế nữa công tác bảo vệ môi trường chính thức trở thành một trong những quốc sách cơ bản của quốc gia này. Đồng thời, Trung Quốc cũng đã đưa ra một loạt cách thức để thực thi chiến lược bảo vệ môi trường, cùng chung tay với chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới, có những hành động ngăn chặn không để môi trường tiếp tục bị ô nhiễm, bảo vệ trái đất của chúng ta. Ggiải quyết được vấn đề môi trường của Trung Quốc, vừa phù hợp với mục tiêu phát triển của riêng quốc gia này, vừa phù hợp với lợi ích chung của nhân loại. Trung Quốc thông qua một loạt những quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và có những biện pháp tích cực để thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường, nên đã đạt được hiệu quả rõ rệt.
Mời các bạn đón đọc!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi