1. Sách
  2. ///

Tác Giả Nguyễn Thế Đăng

Tổng hợp sách của tác giả Nguyễn Thế Đăng tại KhoSach.com.vn
Cuoc Doi Le Hoi

Cuộc Đời Lễ Hội

Trong cuộc sống hiện đại đầy rẫy những xáo trộn và phiền não, làm thế nào để tìm thấy sự an lạc và tự tại? Cuộc Đời Lễ Hội không phải là một cuốn sách thông thường, mà là một lời khai thị sâu sắc, mang đến câu trả lời cho những ai đang kiếm tìm ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Tác phẩm này đặc biệt dành cho những người đang nghiêm túc thực hành hoặc nghiên cứu con đường Bồ-tát, cần một sự dẫn dắt uyên thâm để thấu suốt những giáo lý cao cấp của Phật giáo.

Cuốn sách mang đến một quan niệm đột phá: hãy biến cuộc đời thành một "lễ hội". "Lễ hội" ở đây không phải là yến tiệc trần tục, mà là trạng thái hân hoan, tự tại của một vị Bồ-tát khi đã thấu suốt bản chất thật sự của vạn pháp. Câu trả lời mà tác giả Nguyễn Thế Đăng đưa ra thật phi thường: bằng cách luận giải các kinh điển Đại thừa, cuốn sách chỉ ra rằng chúng ta có thể sống một cuộc đời trọn vẹn và giải thoát ngay giữa cõi đời đầy khổ đau

Trái tim của cuốn sách là sự hợp nhất không thể tách rời giữa Trí huệ thấu suốt Tánh Không và Lòng Đại bi vô bờ bến với chúng sanh. Vị Bồ-tát không trốn chạy khỏi thế gian, mà khoác lên mình “áo giáp” của trí huệ và lòng bi mẫn để đi vào nơi khổ đau nhất, không phải để bị nhấn chìm, mà để cứu độ và chuyển hóa. Như cuốn sách đã nói, "Mũ giáp của Bồ-tát là trí huệ tánh Không và đại bi hợp nhất". Trí huệ giúp soi thấu đến chiều sâu của vạn vật, còn đại bi ôm trùm tất cả chiều rộng của chúng

Cuốn sách Cuộc Đời Lễ Hội là một vũ điệu an nhiên giữa sóng gió cuộc đời, bởi người vũ công đã nhận ra mình và đại dương là một. Tác phẩm giúp người đọc chiêm nghiệm và thấu suốt những giáo lý cao cấp, từ trạng thái chứng ngộ khi tâm thức hòa nhập với bản thể Chân Như bất động, đến bản chất của vạn pháp như "sắc như đám bọt, trong không có chắc thật".

Đó chính là một cuộc đời lễ hội đích thực - khi được trí tuệ giác ngộ soi chiếu, mỗi khoảnh khắc đều trở thành an lạc. Cuốn sách này là một lời mời gọi mạnh mẽ, thôi thúc chúng ta dấn thân vào con đường của một Bồ-tát: dũng mãnh đi vào nơi khổ đau để cứu độ chúng sinh.

Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn sách không chỉ cung cấp tri thức mà còn mang đến nguồn cảm hứng để sống một cuộc đời trọn vẹn, vượt lên trên mọi khổ đau, Cuộc Đời Lễ Hội chính là tác phẩm dành cho bạn.

Cu Tran Lac Dao Phu

Cư Trần Lạc Đạo Phú

Cư Trần Lạc Đạo Phú là bản văn đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ Nôm. Quan trọng hơn nữa, nó chỉ dạy cho chúng ta sống giải thoát ngay trong cuộc đời, được vị sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam vào thế kỷ 13 – Trần Nhân Tông viết ra. Ngài là vị vua thứ ba của đời Trần, có thể nói là vị vua lỗi lạc nhất, và cũng là một Thiền sư sáng chói trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Tại sao ở đời vui đạo? Sao không ở đời vui đời hay bỏ đời vui đạo?

Từ cách đây gần một nghìn năm, Trần Nhân Tông đã trả lời được câu hỏi đó. Ngài viết Cư Trần Lạc Đạo Phú khi đã thấy ra bản tánh đến hiện tướng của đời, là đạo. Đói thì ăn, mệt thì ngủ, chuyện ăn, chuyện ngủ trong đời cũng là đạo. Cái hay là chữ “thì” được ngài dùng rất tự nhiên. Chữ “thì” (tức) này nói lên sự không có chủ thể và đối tượng, hành động không có chủ thể và đối tượng tức là không hành động. Không hành động tức là không có nghiệp, vì nghiệp (karma) có nghĩa là hành động.

Với sự hiểu biết sâu rộng về nhiều trường phái Phật giáo khác nhau, tác giả Nguyễn Thế Đăng không giới hạn chú giảng Cư Trần Lạc Đạo Phú vào một trường phái cụ thể nào. Thay vào đó, ông chú giảng bản văn này bằng Thiền, Đại Toàn Thiện (Dzogchen, Maha Ati) của Ấn Tạng và bằng Kinh, với ước nguyện làm rõ Nền tảng của Phật giáo, không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và văn hóa.

"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói thì ăn, hề, mệt ngủ yên

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền."

Tue Trung Thuong Si - Thong Dong Giua Doi

Tuệ Trung Thượng Sĩ - Thong Dong Giữa Đời

“Trong lịch sử Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, có rất nhiều bậc thánh giải thoát sống đời sống xuất gia. Nhưng những vị cư sĩ tại gia đạt được mức chứng ngộ cao cấp để giải thoát thì rất ít. Trong đó, phải kể đến Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 – 1291) đời Trần. Tuy ông chứng đạo nhưng sống cuộc đời bình thường, một cuộc đời “hoan hỷ”, “sanh tử nhàn mà thôi”, “giang hồ tự vui thích”, “tự tại”, “muôn sự là trò chơi”, “phóng cuồng”, “rong chơi”… Ông là tấm gương sáng kết hợp được Đạo và đời ngay trong cuộc sống bình thường thế tục.

Phật giáo đời Trần mạnh mẽ, hiệu quả vì đi sâu vào đời sống xã hội. Trong xã hội phát triển ngày nay, Phật giáo cần đi sâu, thấm khắp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thế nên, đọc lại, tư duy lại, học lại cuộc đời đầy sức sống của Tuệ Trung Thượng sĩ không chỉ là tìm hiểu ý nghĩa những câu chữ Hán, những dấu vết khảo cổ hay ở trong bảo tàng viện, mà là học cái sức sống của ông, cái anh hùng hỷ xả của ông, cái sâu sắc về đạo biểu lộ trong cuộc đời thường của ông.”

trần nhân tông, đời - đạo không hai

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo Không Hai

Trần Nhân Tông (1258-1308) là một vị vua anh minh, nhân vật lịch sử nổi bật trong

triều đại nhà Trần. Ngài còn là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam, ngài đã sáng lập ra

dòng Thiền Trúc Lâm, vẫn phát triển cho đến ngày nay. Bên cạnh việc triều chính, ngài không chọn hẳn chỉ con đường tâm linh (Đạo) ngay từ đầu bằng cách xuất gia, cũng không chỉ chọn hẳn con đường xã hội (Đời), ở mãi với đời. Hai con đường ấy đi song song với nhau, đến tuổi trưởng thành thì hòa hợp với nhau, đến tuổi trung niên thì hợp nhất với nhau cho tới khi ra đi khỏi thế gian. Qua bình giảng các bài thơ của ngài, cuốn sách Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai đã nói lên được điều đó. Cuốn sách đặc biệt ở chỗ, tác giả cũng là một tu sĩ Phật giáo, vừa là một nhà tu hành vừa là một người sống trong đời sống, nên cái nhìn Đời - Đạo không hai của tác giả với ngài Trần Nhân Tông có sự thông giao nhau. Tác giả cảm, thấu, hiểu, bình giảng thơ của ngài với cùng một cái thấy ra “khuôn mặt chúa xuân nay khám phá”.

Với lối bình thơ gần gũi, dễ hiểu, lật mỗi trang sách lại cho người đọc chạm vào những ngày tháng từ “đãi cát kén vàng” cho đến ngày thấy ra “khuôn mặt chúa xuân” của ngài. Nhìn vào cuộc đời cao đẹp đó, chúng ta thấy rằng mình cũng cần “rèn lòng làm Bụt, chỉ cần chuyên nhất dồi mài” thì có ngày chúng ta thấy Trần Nhân Tông ở trong mình.

Có thể nói, Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là bậc quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hoá mà còn là vị thiền sư lỗi lạc. Thời đại oanh liệt đã sản sinh ra ngài và ngài đã làm cho thời Trần càng thêm oanh liệt.

*Tác giả:

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng là một nhà sư, thuộc thế hệ thứ ba của chùa Tây Tạng ở Bình Dương. Nhiều năm qua, tác giả Nguyễn Thế Đăng đã viết hàng trăm bài đăng trên Văn Hóa Phật Giáo. Tuần san và Nguyệt san Giác Ngộ cũng đã đăng hàng chục bài của tác giả, chưa kể các báo điện tử, mỗi báo cũng đã đăng hàng chục bài. Tổ khai sơn chùa Tây Tạng ở Bình Dương là Thiền sư Nhẫn Tế (1888 – 1951). Tổ vốn thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, từng sang Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng tham bái và tu học. Tổ đã cầu đạo ở Tây Tạng, đắc pháp và được ban cho pháp danh Thubten Osel bởi những vị cao cấp của dòng Mũ Vàng (Gelugpa). Sau hơn một năm ở Tây Tạng, Tổ được phép trở về Việt Nam để lập chùa Tây Tạng, Bình Dương.

*Cuốn sách này dành cho:

- Những ai quan tâm, tìm hiểu lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung và dòng Thiền Trúc Lâm nói riêng

- Những ai quan tâm đến những nhân vật lịch sử nổi tiếng, mang bản sắc Việt Nam nhưng có tầm ảnh hưởng thế giới

- Những ai muốn tự hoàn thiện bản thân, hướng tới chân - thiện - mỹ

- Ai đó muốn đóng góp cho đất nước và thế giới trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, có thể coi Trần Nhân Tông là một con người lý tưởng để noi theo

*Trích đoạn sách hay

Đây là câu đầu tiên trong bài Xuân Vãn của ngài. Bài này nói sơ qua về con đường tâm linh cá nhân:

Niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không,

Một xuân tâm ở tại trăm hoa

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá

Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc – Không. Vào thời niên thiếu, chưa từng rõ (liễu), chưa từng ngộ (liễu ngộ), chưa từng biết trực tiếp tánh Không là gì.

Chưa có kinh nghiệm tâm linh trực tiếp về tánh Không, nhưng không phải ngài không có kiến thức và không học hỏi về tánh Không, bởi vì ông nội ngài là vua Trần Thái Tông (1218 – 1277) và cha ngài là vua Trần Thánh Tông (1240 – 1292) đều là những người ngộ đạo, và ngộ đạo khi đang làm vua.

tâm linh như là sự tiến hoá tất yếu của con người

Tâm Linh Như Là Sự Tiến Hoá Tất Yếu Của Con Người

CUỐN SÁCH NÀY DÀNH CHO NHỮNG AI QUAN TÂM TỚI::

- Con đường Phật giáo là sự chuyển hóa tâm thức, từ tâm bất tịnh đến tâm thanh tịnh (càng thanh tịnh đến đâu càng chứng nghiệm tự do và hạnh phúc đến đó).

- Mục đích sống thực sự của cuộc đời con người qua con đường giáo dục Phật giáo.

- Sự phát triển của cuộc đời con người qua các tầng tiến hóa.

- Tìm hiểu đời sống tâm linh thực sự là gì.

- Kết nối với thiên nhiên, với con người, với chính mình.

- Hòa hợp giữa “Đời” và “Đạo”, giữa đời sống vật chất và đời sống tâm linh.

GIỚI THIỆU SÁCH: Đúng như tên gọi của cuốn sách: “Tâm linh như là sự tiến hóa tất yếu của con người” – Tác giả Nguyễn Thế Đăng đã chỉ rõ cho độc giả thấy sự tiến hóa tâm linh là cần thiết cho con người. Sự tiến hóa đó được tác giả thể hiện qua việc phân tích ba tầng chính: Tầng thứ nhất là tầng vật chất, con người chia sẻ với nhau một đời sống giác quan để sống trong thế giới hay trái đất này: mắt để thấy, tai để nghe, mũi để ngửi, lưỡi để nếm, thân để xúc chạm. Tầng thứ hai là tầng ý thức, bao gồm trí thông minh và trí tuệ cảm xúc. Nhưng ý thức là giới hạn vì nó không thể giải quyết được nỗi khổ đau tiềm ẩn trong chúng ta, sinh ra để rồi chết, làm sao vượt khỏi cái chết và như thế cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì. Tầng thứ ba giải quyết được tận cùng nỗi khổ của con người, đó chính là tầng tâm linh, nơi cội nguồn của cái Biết, của Tự do và Hạnh phúc.

Từ đó, giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về cuộc đời con người với ba tầng tiến hóa, tầng vật chất và ý thức không thể giải quyết được sự thiếu thốn muốn tìm kiếm hạnh phúc trọn vẹn. Có cái nhìn đó giúp chúng ta không còn bị lệ thuộc vào vật chất, vào ý thức, vào những ham muốn không có điểm dừng nữa. Khi đạt tới tầng cao nhất là tầng tâm linh thì con người được mở toang cánh cửa của tự do. Một cuốn sách thật giá trị dành cho những ai đang đi tìm kiếm hạnh phúc thực sự là gì và ở đâu?

vũ trụ trong hạt bụi - đi vào kinh hoa nghiêm

Vũ Trụ Trong Hạt Bụi - Đi Vào Kinh Hoa Nghiêm

Từ “Vũ trụ” hay “Kosmos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là trật tự, hài hòa. Hy Lạp là cái nôi của nền văn minh Tây phương cho đến hiện đại. Vũ trụ về mặt vĩ mô là các hành tinh, các ngôi sao, cho đến các thiên hà, về mặt vi mô là thế giới của các nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử. Tất cả chúng đều hiện hữu trật tự và hài hòa với nhau.

Với Đông phương cũng có những quan niệm xưa cổ về vũ trụ, trong văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng nói về vũ trụ rộng nhất và sâu nhất là Kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao nhất của Phật giáo, được nói ngay sau khi Đức Phật giác ngộ.

Kinh Hoa Nghiêm cũng nói vũ trụ ở mặt vĩ mô: những thế giới hải, những thế giới úp, những thế giới ngửa, những thế giới hình như hoa xoắn tròn, những thế giới hình hoa sen…về mặt vi mô, kinh nói “lỗ chân lông, vi trần (hạt bụi nhỏ), sát na (phần nhỏ nhất của một khoảnh khắc)… Và tất cả những cái đó hoàn toàn trật tự, hài hòa với nhau để tạo thành vũ trụ.

Nhưng trật tự hài hòa của vũ trụ Hoa Nghiêm còn sâu sắc hơn nữa, mở rộng hơn nữa, đến gần như vô tận. Một sự vật không chỉ trật tự hài hòa với tất cả các sự vật khác mà còn bao gồm tất cả các sự vật khác (nhiếp) và thâm nhập tất cả các sự vật khác (nhập). Điều này chỉ có thể xảy ra khi tất cả đều “vô ngại” với nhau, và vô ngại bởi vì đều là tánh Không. Như thế cho đến cảnh giới rốt ráo là “sự sự vô ngại” và “trùng trùng duyên khởi, trùng trùng vô tận”.

Để đạt đến sự thật “sự sự vô ngại”, người ta phải thấy trực tiếp, chứng kiến trực tiếp, qua thí nghiệm trực tiếp, như khoa học. Phòng thí nghiệm, dụng cụ khoa học của chúng ta chính là thân tâm mình. Chính nơi phòng thí nghiệm thân tâm mình mà người ta tìm ra, nhìn thấy sự thực “sự sự vô ngại” của vũ trụ. Thế nên người xưa thường dùng chữ “thân chứng”, đích thân chứng nghiệm. Phật giáo có rất nhiều dụng cụ phương tiện cho việc này, tất cả nằm trong những khả năng sẵn có – chỉ cần mài giũa, làm tinh xảo thêm – của con người. Đó là sức tập trung (Chỉ, Định), khả năng quan sát, tưởng tượng sắc bén (Quán), những hoạt động tương ứng với sự thật (Hạnh), sự tha thiết mong cầu (Nguyện), lòng vị tha muốn ích lợi cho người khác (từ bi)…

Bởi vì cảnh giới sự sự vô ngại này ở khắp mọi không gian thời gian của vũ trụ, không nơi nào không có, không phút giây nào không hiện hữu, thế nên người ta có thể bắt gặp nó vào bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Rồi cứ thế đi sâu vào thực tại ấy như phẩm Nhập Pháp Giới của kinh diễn tả.

Bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, cho nên người ta có thể bắt gặp Nó nơi một góc phố, nơi một chiếc lá nằm trên ghế đá công viên, nơi một đám mây lơ lửng trên thành phố chẳng ai để ý, nơi một âm thanh tình cờ buổi sáng, nơi khuôn mặt một người xa lạ, nơi một mảnh ngói bên lề đường, nơi một ngọn cỏ rung rinh theo gió…

Đó là điều kinh nói, “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”.

Nguyện mọi người được an vui và lợi ích khi đọc và thực hành theo luận này.

hiện tại vĩnh cửu

Hiện Tại Vĩnh Cửu

GIỚI THIỆU SÁCH:

Tình yêu với đất nước, con người, tình yêu với Phật giáo nói riêng và trí tuệ cổ xưa nói chung đã hiển bày thật hiện hữu qua từng câu chữ trong Hiện Tại Vĩnh Cửu. Với một ấn phẩm chứa đựng nhiều trí tuệ, được viết bằng thứ ngôn ngữ tràn đầy cảm hứng, qua mỗi một chương phần, chiều kích tinh thần của người đọc như được mở rộng thêm, sâu hơn, tràn hứng khởi để có thêm cơ hội tiếp chạm với sự tự do toàn diện, đó cũng chính là hiện tại vĩnh cửu.

Trong sự tự do toàn diện, có mặt khắp cả, tự do không còn là tự do hạn hẹp để phải chọn lựa, vì chọn lựa là mất mát. Tự do ở đây là một cái toàn thể, tự do như chim bay trong không gian, có tất cả mọi chọn lựa, có tất cả mọi phương hướng để chọn lựa, sự tự do ấy, không gian bao la của con chim bay có mọi tiềm năng, mọi khả thể cho sự chọn lựa. Khi người ta không còn sống trong những phần tử phân mảnh mà sống trong một đời sống toàn thể là Không, vô tướng, giải thoát thì sự chọn lựa không làm cho người ấy bị giới hạn, mà chọn lựa chính là tự do. Đó chính là tự do chọn lựa tự do.

Sự tự do toàn diện, đó cũng chính là cái hiện tại vĩnh cửu, cái quê nhà, cái nguồn mà tác giả đã nhiều lần nhắc đến:

Về đến quê nhà thì thấy khắp cả đều là quê nhà, đều là tánh Không, tánh Như…. Tất cả những con đường, những phương pháp, những pháp môn Phật giáo đều đưa chúng ta về đến nguồn ấy….

Đồng nguồn, đó là đại từ đại bi.

Nguyện ai ai cũng sẽ tiếp chạm được hiện tại vĩnh cửu nơi mỗi người khi đọc tác phẩm tuyệt vời này!

TRÍCH ĐOẠN SÁCH:

Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử

Lịch sử là kết quả của những hành động đã tạo ra của con người và tiếp tục được tạo ra bằng những hành động hiện tại. Hành động có thể là tốt, xấu, hoặc trung tính. Làm người không ai thoát khỏi việc tạo ra hành động, tạo ra lịch sử, dù của một cá nhân hay một xã hội.

Lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp và nghiệp quả, nghĩa là sự biểu hiện của những hành động của con người. Lịch sử con người là những hưng thịnh và suy vi, những thành công và thất bại, những xây dựng và điêu tàn, những hòa bình và chiến tranh. Lịch sử, với rất nhiều máu và nước mắt, là những vết thương khổ đau in hằn lên cuộc sống của con người.

Một trong những công việc của Bồ tát là chữa trị những vết thương, những tai hại của giết hại, chiến tranh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say sưa và chuyển hóa tâm xấu ác của con người để họ không gây ra những nguyên nhân cho những tệ nạn ấy nữa. Thế nên Bồ tát là người sống cùng chúng sanh, chia sẻ cùng một lịch sử tốt xấu, hưng phế của chúng sanh, nhưng Bồ tát đi xuyên qua lịch sử mà không có các vết thương, các phiền não nhờ mặc áo giáp của trí huệ tánh Không và đại bi vô ngại...

Một ngàn năm, nhiều giấc mộng trong một giấc mơ

Một ngàn năm…

Một ngàn năm đã qua đi cho đến khi tôi nhìn thấy viên gạch hoàng thành Thăng Long này, bởi thế mà bỗng dưng tôi nhòe nước mắt. Trong giọt nước mắt của ngàn năm ấy, tôi mộng thấy tro cốt mình đã mấy lần rắc xuống sông Hằng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có lần mở cửa phòng thiền để nhìn những đỉnh núi tuyết trắng dưới trời xanh mùa xuân Tây Tạng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có một lần mình tụng kinh trên Ngũ Đài Sơn nhìn về phương Nam cố quốc, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần mặc áo thụng dài ngồi bên bờ sông Nile cạnh những vườn ô liu ngát nắng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần bì bõm cày ruộng giữa trưa, trên bờ là người vợ nghèo mặt đỏ bừng, mồ hôi lấm tấm đang ngồi nghỉ… Tôi mộng thấy biết bao “mình” trong một ngàn năm…

Cầm viên gạch trên tay, tôi tưởng thấy quân Pháp chiếm Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những ngày kháng chiến cho đến sự chia đôi đất nước giữa thế kỷ 20. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những người lính trẻ và già của hai miền ngã xuống, ngã xuống ở hai bên chiến tuyến vô hình, và những người dân cả trẻ lẫn già, cả nam lẫn nữ vĩnh viễn nằm lại bên những con đường nơi chiến tranh và lịch sử đã đi qua. Tất cả và tất cả những đồng bào của tôi nằm lại đâu đó rải rác trên quê hương này, trên đôi mắt khép vẫn còn loáng thoáng giấc mơ Thăng Long mờ mịt hương khói. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy ngày thống nhất, mọi đôi mắt của tất cả những người còn sống đều nhòa lệ. Và bây giờ, cầm viên gạch hoàng thành trên tay, tôi tưởng thấy nhịp đập của hàng chục triệu trái tim ở đất nước này và của hàng triệu trái tim của người Việt xa xứ, ở Nam Phi, Ai Cập, ở châu Âu, Bắc Mỹ, ở những nơi xa xôi nhất của trái đất, tất cả và tất cả đều ít nhất vẫn có một cái gì đó chung cùng với nhịp đập của Thăng Long....

Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy rất nhiều giấc mộng trong chỉ một giấc mơ:

Suốt một ngàn năm, tôi chưa hề mơ làm vương làm tướng,

Chỉ mơ làm một người lính già giữ mãi một Thăng Long.

bài ca của tự do và niềm vui

Cuốn sách cung cấp cho người đọc những phương pháp để đạt đến một cuộc sống thực sự ý nghĩa và trọn vẹn. Dưới ánh sáng của Phật pháp, thi ca, nghệ thuật, khoa học thực nghiệm, vụ trụ quan Đông phương và Tây phương được soi tỏ để từ đó mỗi người có được cái nhìn thấu suốt và tìm thấy được con đường đi của chính mình.

Thế nên, đạo Phật vô thượng là vì thế: đối với cái già nua, cổ lỗ của chúng ta là tính chất trẻ thơ vĩnh cửu vì chưa từng ô nhiễm của nó, ngược với cơn vô thường chóng vánh của đời người thì nó là Bất tử, Chân thường, đối với nỗi khổ đau vô vàn hình trạng của chúng ta thì nó là An Lạc, đối với phận kiếp sanh già bệnh chết của chúng ta thì nó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Tính cách trẻ thơ, luôn luôn tươi trẻ, vui đùa, khoái hoạt tự tại của tất cả các vị tăng Phật giáo đều bắt nguồn từ cái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh này.

Sự trẻ trung tươi mới đó là do đã chết đi cái con người cũ kỹ của vòng sanh già bệnh chết, đã chết đi cái bản ngã nặng nề hợp tạo bằng tham, sân, si, mạn, nghi, tà, kiến… và bởi thế, nỗi sợ hãi chết đi, sự quay cuồng lo lắng giữa được và mất đã chết đi, các tướng sanh diệt đã chết đi: “Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền”. Nói như một đệ tử trả lời thầy mình: “Con hiện nay da dẻ đã lột sạch, chỉ còn nguyên một Nhất Chân”. Hay nói một cách văn vẻ như Trần Thái Tông:

Ai hay mây cuốn trời không tịnh

Bên trời núi biếc lộng uyên màu.

Trong truyện Tây Du Ký, ở đoạn cuối cuộc hành trình, thầy trò Đường Tam Tạng đến một dòng sông rộng chỉ có độc nhất một chiếc đò để qua. Khi đò cập bến, sắp bước lên thì ngài Đường Tăng giật mình vì con đò không có đáy. Đang còn lưỡng lự, thì Tôn Ngộ Không đẩy ngài lọt vào trong đò rồi tất cả leo lên. Ra đến giữa sông, tất cả thầy trò mỗi người đều thấy cái xác chết của chính mình từ thượng nguồn trôi xuống. Đoạn này diễn tả cái chết của phàm ngã mà Thiền gọi là “đại tử nhất phiên”. Con người cũ kỹ ngàn năm có chết đi, tâm phân biệt gây ra bao nhiêu tội lỗi có chết đi, thì mới đến được đất Phật, mới đến được bờ bên kia, bờ Niết bàn mà Đại thừa gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Mục lục:

Phần 1: Bài ca của tự do và niềm vui

Tính chất trẻ thơ trong đạo phật

Quan niệm của phật giáo về cuộc đời và hạnh phúc

Chúng ta đến trần gian này để làm gì?

Bài ca của tự do và niềm vui

Những giá trị sống cho tuổi trẻ

Gần, quá gần

Trẻ trung vui đùa

Lời kêu gọi tâm linh

Tự do, bình an và hạnh phúc

 

Phần 2: Văn hóa là hiểu biết và thương yêu

Văn hóa là hiểu biết và thương yêu

Giáo dục Phật giáo: con đường chuyển hóa toàn diện

Đạo phật trong thế giới ngày nay

Sứ mạng thi sĩ: nhớ và tưởng

Linh hồn hay yếu tính thi ca

Nhân đọc lại tự thú của lev tolstoy

Einstein và con đường hài hòa của đông phương

Khoa học hiện đại và con đườngPhật giáo

Vũ trụ quan tây phương và đông phương

 

Phần 3: Con đường hạnh phúc

Mùa xuân từ cảm nghĩ đạo phật

Con đường hạnh phúc

Vài suy nghĩ về một nền văn hóa phật tánh

Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo

Đi vào bản tánh của tâm thức

Mùa xuân vĩnh cửu của trí huệ từ bi

Tánh nghe

Tánh thấy

Đều đã thành Phật đạo

Tác giả:

Nguyễn Thế Đăng

Tác phẩm đã in: Thực Tại Thiền (2003), Bát nhã tâm kinh thiền giải (2010), Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật (2011), Con người toàn diện, hạnh phúc toàn diện (2012), 10 tư tưởng Pháp Hoa trong đời sống hằng ngày (2013), Thực Hành Kinh Kim Cương Bát Nhã (2015)….

Trích đoạn nội dung:

Chúng ta thấy muôn loài đều đi tìm hạnh phúc. Ðạo Phật cũng thế, cùng chung với mọi người, đạo Phật đi tìm hạnh phúc. Và nếu dùng chữ “tu hành” theo cái nghĩa để chỉ cuộc đi tìm hạnh phúc, thực hiện hạnh phúc, thì quả thật, cả nhân loại không ai mà không tu hành. Người thì tu hành thực hiện tiền tài, người thì tu hành thực hiện dục lạc, người thì tu hành thực hiện danh vọng, người thì tu hành thực hiện trí thức... là những thứ mà người đời cho là hạnh phúc.

Nhưng tiếc thay, vì không thấy trước tất cả những cái đó đều vô thường, vô ngã; tất cả những thứ đó đều vô nghĩa trước sự vận hành không ngừng nghỉ của cuộc đời, nghĩa là sự vận hành không ngừng nghỉ của cái chết, cho nên khổ đau, tiếc hận, không thể nắm giữ là điều tất yếu.

Vậy thì chúng ta hãy ngồi xuống. Đành rằng ngồi thiền không phải là cách duy nhất để tiếp cận với thực tại, nhưng đó là cách cụ thể, vừa tầm cho tất cả chúng ta. Hãy ngồi xuống, cảm nhận và thể nghiệm trong thân tâm này có ánh sáng, có sự bình an càng ngày càng lớn rộng, có sự ngưng nghỉ của những tư tưởng cứ mãi lao xao trong những vòng quay hữu hạn của chúng, có tự do, tự do đối với tất cả những gì hữu hạn và tạm thời, có tình thương, có năng lực, có cái gì vô thượng và siêu việt, và nhiều nhiều thứ nữa. Thân tâm này chính là con đường đi đến thực tại tối hậu (đây là một cách nói vì thực tại tối hậu cũng phải là thực tại ban đầu, thực tại bổn nguyên).

Để đưa con người đến sự sống đúng hầu tiếp cận với cái chân thật, Phật giáo có rất nhiều pháp môn, phương pháp để chuyển hóa. Thế nên, ở đây chúng ta chỉ có thể nói đến sự học Phật giáo một cách chung chung. Sự học và thực hành ấy xảy ra trong mọi hoàn cảnh, mọi thời gian cho đến khi chết. Nhưng chúng ta có thể tóm tắt con đường Phật giáo là sự chuyển hóa tâm thức, từ tâm bất tịnh (càng bất tịnh bao nhiêu càng khổ đau bấy nhiêu) đến tâm thức thanh tịnh (càng thanh tịnh đến đâu càng chứng nghiệm Niết bàn đến đó). Như vậy, khi nói “từ bỏ” là từ bỏ cái giả (cái này sẽ đem đến khổ đau) để sống với cái chánh, cái thật (và cái này sẽ đem lại tự do và an lạc).

Phật tánh vốn có ở mỗi con người, nên một nền văn hóa như vậy đặt trọng tâm và mọi giá trị vào từng con người. Mỗi người vốn tiềm tàng điều kiện “cần và đủ” để thành tựu nhân cách tối thượng (Bi, Trí, Dũng) nên chính mỗi người cần được trân trọng dù đang ở trong hoàn cảnh như thế nào.

Từ cái nhìn này, mọi tương quan sinh hoạt xã hội càng có ý nghĩa hơn, ít nhất là đồng trên con đường trốn tránh khổ đau và hướng đến hạnh phúc, con đường thành tựu nhân cách tối thượng.

Khi nhìn chính mình và người khác với ý nghĩa “Người là Phật sẽ thành”, người ta có được giới luật, không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối… Chỉ với sự tôn trọng trên nền tảng của giới, người ta sẽ cư xử đúng pháp, biết được giá trị của đời sống, tin yêu mình, người khác và đời sống.

1
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

  • Giới Thiệu
  • Chính Sách Bảo Mật
  • Liên Hệ
  • Email: Taisachebook@gmail.com