1. Sách
  2. ///

Tác Giả Chusang Tulku Rinpoche

Tổng hợp sách của tác giả Chusang Tulku Rinpoche tại KhoSach.com.vn
nhiếp loại học - thiết lập con đường lý luận khai mở tuệ nhãn - tập 1

Nhiếp Loại Học - Thiết Lập Con Đường Lý Luận Khai Mở Tuệ Nhãn - Tập 1

Nhiếp loại học là tài liệu học tập Triết học Phật giáo. Ngoài ra còn phù hợp với những ai muốn tìm hiểu sâu thêm về Phật giáo, cần tiến sâu hơn vào nội hàm ẩn chứa bên trong.

Môn Nhiếp Loại Học là một trong những nền tảng giúp chúng ta tích lũy kiến thức và làm quen với thuật ngữ Phật giáo. Môn học này trình bày rõ về Nhân - Quả, pháp Chung và pháp Riêng, đặc biệt nhiều thuật ngữ liên quan đến Bát-nhã. Khi hiểu rõ các thuật ngữ và ý nghĩa của chúng, ta sẽ biết cách áp dụng vào thực hành tu tập một cách đúng đắn.

Tập sách có độ dài vừa phải, khoảng 300 trang, nhưng chất chứa nội dung phong phú, khúc chiết, được trình bày sinh động, tươi tắn, tự nhiên. Có lẽ nguyên bản được ghi âm lại từ những lần thuyết giảng của Ngài Chusang, một vị Phật sống Vô cùng Cao quý (Tulku Rinpoche), được chuyển dịch sang Việt ngữ rất công phu, suôn sẻ.

Bản dịch này là phần thứ nhất trong ba phần của Lượng học, tức là Nhiếp loại học: Học để nắm chắc, hiểu rõ đúng theo Kinh để tu tập và hoằng pháp. Đặc biệt trong sách này là chú trọng phương pháp giáo dục gọi là biện kinh, tức là hỏi đáp, hay còn gọi là đàm thoại, trò chuyện trực tiếp.

Mục lục:

Tán dương – Phát nguyện

Phần dẫn nhập

Chương 1. Màu sắc phương thức lý luận và trả lời

Chương 2. Định nghĩa và thuật ngữ

Chương 3. Thành sở y

Chương 4. Nhận diện phản thể

Chương 5. Ngược lại – không ngược lại

Chương 6. Có trí chứng biết đúng – không có trí chứng biết đúng

Chương 7. Một và khác

Trích đoạn nội dung:

I. Khai Pháp – giới thiệu sơ lược về nhiếp loại học

Sau khi thành đạo, Đức Phật đã giữ im lặng trong 49 ngày. Vào ngày mùng 4 tháng 6 theo lịch Tạng, 2565 năm trước, Đức Phật đã giảng bài Pháp đầu tiên tại Vườn Nai (Sarnath), Ấn Độ.

Thứ Tư hằng tuần là một ngày đặc biệt, ngày bổn mạng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Đây là một cơ duyên lành để chúng ta khởi sự những công việc tốt đẹp.

Theo truyền thừa Nalanda, môn Lượng học được đặc biệt truyền bá bởi hai Ngài Trần Na và Pháp Xứng. Hội tụ đủ nhân duyên, hôm nay chương trình Triết học Phật giáo của Chusang Dharma Garden – CDG (Chusang Choekyi Gatsel) chính thức khai giảng tại Việt Nam. Đó là nhờ sự gia trì của chư Phật, chư Tổ, mười bảy vị Hiền trí dòng truyền thừa Nalanda, cũng như tấm lòng mong cầu học Pháp của quý vị.

Với tinh thần tri ân và báo ân, hãy cùng cầu nguyện lớp học luôn nhận được sự gia trì của chư Phật, hội đủ phước lành và tinh tấn tu học. Cầu cho Chánh pháp luôn trường tồn và phát triển hưng thịnh.

1. Lý do mở lớp Triết học Phật giáo

Thứ nhất, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thường dạy rằng: “Nếu là Phật tử thì phải hiểu biết giáo lý của Đức Phật”. Hơn nữa, trong kỷ nguyên mới hiện nay, khi mà công nghệ và thế giới vật chất đang rất phát triển, để trở thành một Phật tử chân chính và không bị rơi vào vòng mê tín, thì chúng ta nhất định phải học Giáo Pháp của Đức Phật.

Thứ hai, khoảng hai tháng trước khi khai giảng lớp Phật pháp căn bản, có một vài học viên đã thỉnh Thầy giảng môn Triết học Phật giáo. Sau đó số người thỉnh Pháp tăng lên. Thuận theo nguyện vọng của đại chúng, lớp Triết học sẽ được bắt đầu từ hôm nay.

Lý do thứ ba, Việt Nam là một đất nước có truyền thống Phật giáo lâu đời, rất nhiều Phật tử có tín tâm đối với Tam bảo, cho nên việc tiếp cận thêm một phương pháp mới sẽ giúp Phật giáo được lan tỏa đến nhiều người. Đây cũng là điều vô cùng tốt đẹp.

Nhờ những lý do và những duyên lành như trên, cùng với điều kiện thuận lợi là có người thông dịch, nên chúng ta thuận tiện khai giảng lớp học này.

Tác giả:

Ngài là tái sinh của Chusang Rinpoche đời thứ 3, Thupten Sherab Tenpë Gyaltsen. Từ năm 1990, Ngài tu học dưới sự chỉ dạy của tôn sư Yer Khensur Yeshe Jampa, bắt đầu nghiên cứu các môn học nội điển và Triết học Phật giáo như Nhiếp loại học và Tâm thức học.

Năm 2013, Ngài hoàn thành chương trình tiến sĩ Mật điển và đạt thủ khoa Ngakrampa. Ngài tiếp tục giảng dạy triết học và truyền trao kiến thức Phật giáo cho các thế hệ Tăng trẻ. Ngoài giảng dạy Triết học, Ngài còn dạy các lớp văn học Tây Tạng, lịch sử các bậc tu chứng “Namthar” và các môn học liên quan đến Mật điển, đồng thời soạn tác, luận giải các bộ Luận lớn.

Trong nhiều năm liền, Ngài thọ học Lamrim, thọ Quán Đảnh và nhận khẩu truyền trực tiếp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài Shung Dhakpa Tritrul Rinpoche và hơn 30 vị Đạo Sư khác nhau. Trong thời gian giảng dạy và tu học, Ngài thường dùng thời gian nghỉ để nhập thất.

Từ năm 2013 đến nay, Ngài thường xuyên đi nước ngoài truyền giảng Giáo Pháp cho Phật tử hữu duyên trên khắp thế giới.

tâm thức học - ngọn đèn soi sáng tâm thức

Tâm Thức Học - Ngọn Đèn Soi Sáng Tâm Thức

Tâm thức học là tài liệu học tập Triết học Phật giáo. Ngoài ra còn phù hợp với những ai muốn tìm hiểu sâu thêm về Phật giáo, cần tiến sâu hơn vào nội hàm ẩn chứa bên trong.

Tâm Thức Học là lượng học thứ hai sau Nhiếp Loại Học trong ba lượng học của trong Phật học Tây Tạng. Đây là Tâm học, học về Tâm. Tâm có rất nhiều nghĩa, từ cái tâm Vô, trống rỗng, bất sinh bất diệt, diệu kỳ, tuyệt đối an lạc của sự chứng ngộ Niết-bàn. bao gồm tất cả, và cái Tâm, hay Thức với vô số dữ liệu thiện và ác trong đó. Tâm học là học về Tâm, tìm hiểu Tâm, tu sửa Tâm để chứng ngộ tâm.

Do vậy, việc nghiên cứu Triết học Phật giáo, triết lý về Tâm và phân loại các Thức theo chiều sâu sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về pháp thiện và pháp bất thiện – biết đâu là điều cần đoạn trừ và đâu là điều đáng thực hành. Sử dụng trí tuệ để phân tích và ứng dụng theo đúng trình tự Văn – Tư – Tu là con đường dẫn tới tu tập rốt ráo. Vì vậy, soạn ra các bộ sách làm học liệu để giảng dạy và học tập về Tâm trở thành nhu cầu thiết yếu, giúp quá trình này được diễn ra có hệ thống.

Đây là dịch phẩm thứ hai của Sư cô Đạo Tịnh, Tâm Thức Học. Cả hai bộ sách đều được dịch từ nguyên tác Tạng bản của Đức Lạt-ma Chusang Tulku Rinpoche.

Mục lục:

PHẦN 1: TÁN DƯƠNG – PHÁT NGUYỆN

Tán dương đảnh lễ

Phát nguyện trước tác

TỔNG QUAN VỀ TÂM THỨC

I. Định nghĩa của tâm thức

II. Định nghĩa của tâm

III. Sự khác nhau giữa tâm và tâm thức

IV. Phân loại của tâm thức

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÂM THỨC HỌC

Chương 1. Tâm biết pháp khác – tâm tự ngộ(ngộ tha – tự ngộ)

I. Tâm biết pháp khác (ngộ tha)

II. Tự ngộ (chỉ biết chính nó)

Chương 2. Nhận thức nhầm lẫn – nhận thức không nhầm lẫn

I. Nhận thức nhầm lẫn

II. Nhận thức không nhầm lẫn

Chương 3. Tâm phân biệt – tâm vô phân biệt

I. Tầm quan trọng khi nói về tâm phân biệt –tâm vô phân biệt

II. Tâm phân biệt – tâm vô phân biệt

III. Phương cách tâm phân biệt – tâm vô phân biệt thấy đối tượng

Chương 4. Tâm chứng biết – tâm không chứng biết

I. Tâm chứng biết

II. Tâm không chứng biết

Chương 5. Nhận thức đúng – nhận thức không đúng (lượng – phi lượng)

I. Nhận thức đúng (lượng)

II. Nhận thức không đúng (phi lượng)

Chương 6. Bảy loại tâm thức

I.Bảy loại tâm thức

II. Nếu là tâm thức thì không nhất thiết là một trong bảy loại tâm thức

III. Bảy loại tâm thức theo pháp đoạn, pháp tu

IV. Mục đích khi phân chia tâm thức thành bảy loại

PHẦN 3: LỜI KẾT

Phụ lục: Các thuật ngữ và định nghĩa

Cầu nguyện: Pháp trí nguyện

Trích đoạn nội dung:

I. ĐỊNH NGHĨA CỦA TÂM THỨC

Định nghĩa của “tâm thức”: Minh རིག་པ། བློའི་མཚན་ཉིད།

“Minh” là “rõ ràng”, nghĩa là hiển hiện rõ ràng đối tượng của nó, là cảnh hiện lên nhận thức giống như khuôn mặt hiện lên trong gương một cách rõ ràng, minh bạch.

Cũng vậy, sắc pháp hiện rõ lên nhận thức của mắt, âm thanh hiện rõ lên nhận thức của tai, mùi hương hiện rõ lên nhận thức của mũi… cho tới ý thức đều có cảnh riêng của nó và đối tượng đó hiển hiện rõ ràng lên nhận thức của nó.

Rõ ràng

“Rõ ràng” ở đây nghĩa là đối tượng hay cảnh của nhận thức hiển hiện rõ ràng lên nhận thức đó. Vì thế, dù là nhận thức đúng hay nhận thức sai lầm, nhận thức đó vẫn “hiển hiện rõ ràng đối tượng của nó”. Ví dụ, mắt thấy có ngôi nhà trước mặt hoặc do ảo giác thấy trên đầu con thỏ có sừng.

Dù là tâm thức thô hay vi tế, đối tượng vẫn hiện một cách rõ ràng lên tâm thức ấy. Ví dụ, tâm thức vi tế lúc ngủ say vẫn có đối tượng riêng của nó hiển hiện rõ ràng lên tâm thức.

Bản chất trong sáng của tâm

Quan điểm khác về định nghĩa của tâm thức: “Trong sáng và rõ ràng” (quang minh). Trong đó “trong sáng” là chỉ cho bản chất trong sáng của tâm thức, còn “rõ ràng” là chỉ cho công năng của tâm thức. Những trường phái khác nhau sẽ đưa ra những định nghĩa khác nhau về tâm thức, mặc dù vậy những định nghĩa như “minh”, “quang minh”, “hiển hiện rõ ràng đối tượng của nó”, “trong sáng và rõ ràng” đều đồng nghĩa. Bản chất trong sáng hay ánh quang minh không tìm thấy ở các ngoại vật chất mà chỉ có ở tâm thức. Nói rộng hơn là năng lực của nội tâm giúp chúng ta chứng ngộ tánh không, đạt được giác ngộ giải thoát… Tất cả những điều này đều nhờ vào sự phát triển ánh quang minh của tâm mà đạt được, nó luôn hiện hữu trong mỗi chúng ta.

“Bản chất trong sáng của tâm”, “ánh quang minh của tâm” được giải thích qua hai ví dụ sau:

Bầu trời: Bản chất của bầu trời là trong xanh nhưng khi bị mây mù, sương, khói… che mờ, bầu trời sẽ tạm thời không còn trong trẻo. Mà khi hết mây, bầu trời trở lại bản chất trong xanh của nó. Mây mù sương khói ấy chỉ là tạm thời.

Nước: Bản chất của nước là trong sạch nhưng vì bụi bẩn làm nước bị vấy dơ. Nếu loại bỏ hết những nhân duyên làm cho nước vẩn đục, nước sẽ trở về bản chất vốn có của nó là trong sạch.

Tâm của chúng ta cũng vậy. Bản chất của tâm là trong sáng và không phiền não, nhưng do bởi vô minh, tham, sân, si chi phối làm tâm chúng ta không thấy rõ ràng các pháp. Nếu chúng ta có thể gạt bỏ được hết những nhân duyên sinh ra phiền não, tâm sẽ trở về trạng thái trong sáng tự nhiên của nó.

Tác giả:

Chusang Tulku Rinpoche - Ngài là tái sinh của Chusang Rinpoche đời thứ 3, Thupten Sherab Tenpë Gyaltsen. Từ năm 1990, Ngài tu học dưới sự chỉ dạy của tôn sư Yer Khensur Yeshe Jampa, bắt đầu nghiên cứu các môn học nội điển và Triết học Phật giáo như Nhiếp loại học và Tâm thức học.

Năm 2013, Ngài hoàn thành chương trình tiến sĩ Mật điển và đạt thủ khoa Ngakrampa. Ngài tiếp tục giảng dạy triết học và truyền trao kiến thức Phật giáo cho các thế hệ Tăng trẻ. Ngoài giảng dạy Triết học, Ngài còn dạy các lớp văn học Tây Tạng, lịch sử các bậc tu chứng “Namthar” và các môn học liên quan đến Mật điển, đồng thời soạn tác, luận giải các bộ Luận lớn.

Trong nhiều năm liền, Ngài thọ học Lamrim, thọ Quán Đảnh và nhận khẩu truyền trực tiếp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài Shung Dhakpa Tritrul Rinpoche và hơn 30 vị Đạo Sư khác nhau. Trong thời gian giảng dạy và tu học, Ngài thường dùng thời gian nghỉ để nhập thất.

Từ năm 2013 đến nay, Ngài thường xuyên đi nước ngoài truyền giảng Giáo Pháp cho Phật tử hữu duyên trên khắp thế giới.

tâm - tâm sở - gương sáng quang minh

Tâm - Tâm Sở - Gương Sáng Quang Minh

Tâm – Tâm sở là tài liệu học tập Triết học Phật giáo. Ngoài ra còn phù hợp với những ai muốn tìm hiểu sâu thêm về Phật giáo, cần tiến sâu hơn vào nội hàm ẩn chứa bên trong.

Tâm – Tâm sở là một phần trong Tâm Thức Học, là lượng học thứ hai sau Nhiếp Loại Học trong ba lượng học của trong Phật học Tây Tạng. Đây là Tâm học, học về Tâm. Tâm có rất nhiều nghĩa, từ cái tâm Vô, trống rỗng, bất sinh bất diệt, diệu kỳ, tuyệt đối an lạc của sự chứng ngộ Niết-bàn. bao gồm tất cả, và cái Tâm, hay Thức với vô số dữ liệu thiện và ác trong đó. Tâm học là học về Tâm, tìm hiểu Tâm, tu sửa Tâm để chứng ngộ tâm.

Do vậy, việc nghiên cứu Triết học Phật giáo, triết lý về Tâm và phân loại các Thức theo chiều sâu sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về pháp thiện và pháp bất thiện – biết đâu là điều cần đoạn trừ và đâu là điều đáng thực hành. Sử dụng trí tuệ để phân tích và ứng dụng theo đúng trình tự Văn – Tư – Tu là con đường dẫn tới tu tập rốt ráo. Vì vậy, soạn ra các bộ sách làm học liệu để giảng dạy và học tập về Tâm trở thành nhu cầu thiết yếu, giúp quá trình này được diễn ra có hệ thống

Đây là dịch phẩm thứ hai của Sư cô Đạo Tịnh, Tâm Thức Học. Cả hai bộ sách đều được dịch từ nguyên tác Tạng bản của Đức Lạt-ma Chusang Tulku Rinpoche.

Mục lục:

PHẦN 1. TÁN DƯƠNG – PHÁT NGUYỆN

Tán dương đảnh lễ

Phát nguyện trước tác

PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÂM TÂM SỞ

Chương 1. Tâm

I. Định nghĩa của tâm

II. Sự khác nhau giữa tâm và tâm thức

III. Phân loại của tâm

Chương 2. Tâm sở

5 Tâm sở biến hành

5 Tâm sở biệt cảnh

11 Tâm sở thiện

6 Căn bản phiền não

20 Tùy phiền não

4 Tâm sở bất định

PHẦN 3. LỜI KẾT

Phụ lục: Các thuật ngữ và định nghĩa

Cầu nguyện: Pháp trí nguyện

Trích đoạn nội dung:

I. ĐỊNH NGHĨA CỦA “TÂM”

Tâm thức có khả năng tự thấy biết tổng thể đối tượng của nó và luôn đi kèm với các tâm sở tương ưng với nó རང་ཡུལ་ཏུ་གྱུར་པའི་དོན་གྱི་ངོ་བོ་ རང་སྟོབས་ཀྱིས་མཐོང་བའི་ཆ་ནས་བཞག་པ་གང་ཞིག། རང་གི་འཁོར་སེམས་བྱུང་དང་མཚུངས་ལྡན་ དུ་ཡོད་པའི་རིག་པ། སེམས་ཀྱི་མཚན་ཉིད།

Ví dụ: Một tâm thức “vừa là nhãn thức nhìn thấy ngôi nhà vừa là tâm vương” là tâm, vì “vừa có khả năng tự thấy biết tổng thể đối tượng của nó, vừa hiển hiện rõ ràng tâm sở tương ưng với nó”.

Mọi đối tượng luôn có tổng thể và chi tiết. Thông thường, tâm thức quán sát đối tượng theo cách thấy biết tổng thể và thấy biết chi tiết đối tượng. Tâm vương tự thấy biết tổng thể đối tượng của nó, tâm sở tự thấy biết chi tiết đối tượng của nó.

“Tổng thể của đối tượng”

Ví dụ, nhãn thức nhìn thấy ngôi nhà là thấy biết tổng thể của ngôi nhà. Tổng thể của ngôi nhà là bản chất của ngôi nhà. Tâm phân biệt thấy ngôi nhà xấu hay đẹp, to hay nhỏ là thấy chi tiết của ngôi nhà. Giống như con người là pháp chung, là tổng thể đối tượng và người Việt Nam là pháp riêng, là chi tiết đối tượng.

“Khả năng tự thấy biết”

Chúng ta sẽ gặp cụm từ này rất nhiều trong phần học về tâm và tâm sở. Ví dụ, chúng ta nói: “Tôi thấy”, “Tôi ăn”, “Tôi nghe”, “Tôi đi”… nhưng thực ra khả năng thấy biết đó là nhãn thức nhìn thấy, thiệt thức ăn nếm ra, nhĩ thức nghe được, thân thức di chuyển. Mỗi tâm thức đều có công năng đặc biệt của nó.

Khi “nhãn thức nhìn thấy ngôi nhà” thì đó là tâm vương có khả năng tự thấy biết tổng thể ngôi nhà. Còn khi thấy ngôi nhà đẹp hay xấu, to hay nhỏ là do tâm sở có khả năng tự thấy biết chi tiết của ngôi nhà.

Tác giả:

Chusang Tulku Rinpoche - Ngài là tái sinh của Chusang Rinpoche đời thứ 3, Thupten Sherab Tenpë Gyaltsen. Từ năm 1990, Ngài tu học dưới sự chỉ dạy của tôn sư Yer Khensur Yeshe Jampa, bắt đầu nghiên cứu các môn học nội điển và Triết học Phật giáo như Nhiếp loại học và Tâm thức học.

Năm 2013, Ngài hoàn thành chương trình tiến sĩ Mật điển và đạt thủ khoa Ngakrampa. Ngài tiếp tục giảng dạy triết học và truyền trao kiến thức Phật giáo cho các thế hệ Tăng trẻ. Ngoài giảng dạy Triết học, Ngài còn dạy các lớp văn học Tây Tạng, lịch sử các bậc tu chứng “Namthar” và các môn học liên quan đến Mật điển, đồng thời soạn tác, luận giải các bộ Luận lớn.

Trong nhiều năm liền, Ngài thọ học Lamrim, thọ Quán Đảnh và nhận khẩu truyền trực tiếp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài Shung Dhakpa Tritrul Rinpoche và hơn 30 vị Đạo Sư khác nhau. Trong thời gian giảng dạy và tu học, Ngài thường dùng thời gian nghỉ để nhập thất.

Từ năm 2013 đến nay, Ngài thường xuyên đi nước ngoài truyền giảng Giáo Pháp cho Phật tử hữu duyên trên khắp thế giới.

nhiếp loại học - thiết lập con đường lý luận khai mở tuệ nhãn - tập 2

Nhiếp Loại Học - Thiết Lập Con Đường Lý Luận Khai Mở Tuệ Nhãn - Tập 2

Nhiếp loại học là tài liệu học tập Triết học Phật giáo. Ngoài ra còn phù hợp với những ai muốn tìm hiểu sâu thêm về Phật giáo, cần tiến sâu hơn vào nội hàm ẩn chứa bên trong.

Môn Nhiếp Loại Học là một trong những nền tảng giúp chúng ta tích lũy kiến thức và làm quen với thuật ngữ Phật giáo. Môn học này trình bày rõ về Nhân - Quả, pháp Chung và pháp Riêng, đặc biệt nhiều thuật ngữ liên quan đến Bát-nhã. Khi hiểu rõ các thuật ngữ và ý nghĩa của chúng, ta sẽ biết cách áp dụng vào thực hành tu tập một cách đúng đắn.

Tập sách có độ dài vừa phải, khoảng 300 trang, nhưng chất chứa nội dung phong phú, khúc chiết, được trình bày sinh động, tươi tắn, tự nhiên. Có lẽ nguyên bản được ghi âm lại từ những lần thuyết giảng của Ngài Chusang, một vị Phật sống Vô cùng Cao quý (Tulku Rinpoche), được chuyển dịch sang Việt ngữ rất công phu, suôn sẻ.

Bản dịch này là phần thứ nhất trong ba phần của Lượng học, tức là Nhiếp loại học: Học để nắm chắc, hiểu rõ đúng theo Kinh để tu tập và hoằng pháp. Đặc biệt trong sách này là chú trọng phương pháp giáo dục gọi là biện kinh, tức là hỏi đáp, hay còn gọi là đàm thoại, trò chuyện trực tiếp.

Mục lục:

Chương 8. Pháp chung và pháp riêng

Chương 9. Mâu thuẫn – không mâu thuẫn

Chương 10. Mối liên hệ

Chương 11. Nhân – quả

Chương 12. Ba thời gian

Chương 13. Thực pháp và phản pháp

Chương 14. Phủ định và khẳng định (bác bỏ và thành lập)

Chương 15. Phủ định tướng – khẳng định tướng

Chương 16. Ứng thành (mệnh đề đúng không)

Chương 17. Đối tượng và có đối tượng (cảnh và hữu cảnh)

Phần kết thúc

Phụ lục: Các thuật ngữ và định nghĩa

Cầu nguyện: Pháp trí nguyện

Trích đoạn nội dung:

I. ĐỊNH NGHĨA CỦA PHÁP CHUNG

Định nghĩa của “pháp chung”: Pháp luôn theo sau những gì là nó རང་གི་གསལ་བ་ལ་རྗེས་སུ་འགྲོ་བའི་ཆོས། སྤྱིའི་མཚན་ཉིད།

Thông thường, pháp chung là các pháp lớn hơn những gì là nó, còn những pháp nhỏ hơn nó là pháp riêng.

Trong định nghĩa trên có hai ý: (1) Những gì là nó và (2) Pháp luôn theo sau.

Những gì là nó

Nghĩa là các pháp: (1) Vừa là nó, (2) Vừa nhỏ hơn nó.

Pháp luôn theo sau

Ở đây có hai ý: (1) Nếu có pháp riêng nhỏ hơn nó thì nhất thiết phải có pháp chung lớn hơn. Nhưng ngược lại, (2) Nếu có pháp chung lớn hơn thì không nhất thiết phải có pháp riêng nhỏ hơn. Ví dụ: Cái bình và vật chất. Cái bình là pháp riêng của vật chất, cho nên vật chất luôn theo sau cái bình. Vì sao? Vì nếu có cái bình thì nhất thiết có vật chất. Nếu có vật chất thì không nhất thiết có cái bình.

Pháp chung luôn lớn hơn và pháp riêng luôn nhỏ hơn. Ví dụ: Người Việt Nam và con người. Người Việt Nam là pháp nhỏ hơn, con người là pháp lớn hơn và biến trùm khắp tất cả. Con người là tổng thể, người Việt Nam là một phần riêng trong số con người. Cho nên người Việt Nam là pháp riêng, con người là pháp chung. Con người là pháp luôn theo sau người Việt Nam. Vì sao? Vì nếu có người Việt Nam thì nhất thiết có con người, nhưng nếu có con người thì không nhất thiết có người Việt Nam. Phải hiểu nghĩa của cụm từ “pháp luôn theo sau” là như vậy.

Định nghĩa của pháp chung phải là “pháp luôn theo sau những gì là nó” thì mới đúng. Nếu chỉ nói một vế “pháp luôn theo sau” thì sẽ không đúng. Hoặc nói pháp luôn theo sau một pháp bất kỳ thì cũng không chính xác. Chẳng hạn pháp đó (pháp riêng) phải nhỏ hơn pháp đi theo (pháp chung) thì mới chính xác. Ví dụ, vật chất và vô thường luôn theo sau lẫn nhau. Vật chất luôn theo sau vô thường và ngược lại, nhưng nó không phải là “pháp luôn theo sau những gì là nó”. Vì sao? Vì hai pháp này đồng nghĩa, lực của hai pháp này ngang nhau cho nên nó không thể “luôn theo sau những gì là nó”. Lực của nó phải lớn hơn lực của những pháp mà nó theo sau. Pháp chung phải lớn, pháp riêng phải nhỏ hơn.

Cở sở minh họa của pháp chung, ví dụ như vật chất. Vật chất là pháp chung. Vì sao? Vì nó có pháp riêng. Nếu nó không có pháp riêng thì không thể gọi nó là pháp chung. Vật chất có những pháp nhỏ hơn nó, ví dụ như bình, cột, sắc, âm thanh… Các pháp này là pháp riêng của vật chất vì vật chất luôn theo sau các pháp này. Nếu có bình, cột, sắc, âm thanh… thì nhất thiết có vật chất; Nếu không có vật chất thì nhất thiết không có bình, cột, sắc, âm thanh… nhưng ngược lại, nếu có vật chất thì không nhất thiết có bình, cột, sắc, âm thanh… Đây là cách để hiểu và áp dụng cho tất cả các pháp chung và pháp riêng.

Tác giả:

Ngài là tái sinh của Chusang Rinpoche đời thứ 3, Thupten Sherab Tenpë Gyaltsen. Từ năm 1990, Ngài tu học dưới sự chỉ dạy của tôn sư Yer Khensur Yeshe Jampa, bắt đầu nghiên cứu các môn học nội điển và Triết học Phật giáo như Nhiếp loại học và Tâm thức học.

Năm 2013, Ngài hoàn thành chương trình tiến sĩ Mật điển và đạt thủ khoa Ngakrampa. Ngài tiếp tục giảng dạy triết học và truyền trao kiến thức Phật giáo cho các thế hệ Tăng trẻ. Ngoài giảng dạy Triết học, Ngài còn dạy các lớp văn học Tây Tạng, lịch sử các bậc tu chứng “Namthar” và các môn học liên quan đến Mật điển, đồng thời soạn tác, luận giải các bộ Luận lớn.

Trong nhiều năm liền, Ngài thọ học Lamrim, thọ Quán Đảnh và nhận khẩu truyền trực tiếp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài Shung Dhakpa Tritrul Rinpoche và hơn 30 vị Đạo Sư khác nhau. Trong thời gian giảng dạy và tu học, Ngài thường dùng thời gian nghỉ để nhập thất.

Từ năm 2013 đến nay, Ngài thường xuyên đi nước ngoài truyền giảng Giáo Pháp cho Phật tử hữu duyên trên khắp thế giới.

1
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

  • Giới Thiệu
  • Chính Sách Bảo Mật
  • Liên Hệ
  • Email: Taisachebook@gmail.com