Tìm Hiểu Phật Học Phổ Thông
Dù có tu hành Phật pháp hay không, đều nên ăn chay, vì xét về phương diện khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay đoàn thể, về hiện tại hay tương lai, ăn chay đều có rất nhiều lợi ích. Vì vậy, nếu muốn thân thể được khỏe mạnh, tinh thần được nhẹ nhàng, thanh sạch, minh mẫn, tiết kiệm được tiền của, công sức, thời gian, gia đình được hòa thuận yên vui, sự nghiệp thành đạt, thì hãy mau chóng làm quen với những thức ăn chay. Vẫn biết, nói thì dễ mà làm thì khó. Nhưng một con người khi đã muốn tiến bộ và đã thấy rõ những điều lợi ích đó, thì dù khó bao nhiêu, cũng dũng mãnh tinh tiến tiến lên quyết thực hành cho được. Sự thực hành ấy, không phải là nóng vội nhanh chóng làm ngay trong một lần, mà phải tuần tự tiến bước. Nếu thực hành ăn chay như những cách trên, thì thiết nghĩ không có gì là khó lắm. Ðiều quan trọng nhất là có thật sự quyết tâm hay không mà thôi. Nếu đem công đức ăn chay mà hồi hướng cho chúng sinh tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện, phát tâm ăn chay trường, thì công đức vô lượng.
Trích đoạn sách:
CHƯƠNG I
SÁU CÕI LUÂN HỒI
“Thế gian là bể khổ, muôn nghìn đắng cay”, “nước mắt chúng sinh nhiều hơn bốn biển”. Đúng như những gì Phật nhãn1 của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thấy khi Ngài thành đạo, Ngài đã thấy lại vô lượng vô biên kiếp quá khứ và vô lượng vô biên kiếp tương lai của bản thân và của chúng sinh4 . Cái thấy đó là sự thống khổ của chúng sinh. Chúng sinh đến thế gian này chỉ là cõi tạm, đời sống chỉ là để thọ quả báo tức là chính báo và y báo, đã hiện ra trong thời khắc đó, sự khổ đau của chúng sinh không một từ ngữ nào có thể diễn tả hết được. Nỗi khổ này chưa vơi, thì niềm đau khác lại ập đến. Tâm lý đau đớn, bức xúc nối tiếp, chồng chất diễn ra trong tâm trí không ngừng dứt, chi phối toàn bộ đời sống. Sự vô minh chìm đắm trong khổ đau ấy là sinh tử khổ đau luân hồi vô cùng tận, như bánh xe lăn không ngừng nghỉ qua vô lượng vô biên các chiều không gian thế gian tương tự như sáu đạo là: Trời, Atula, Người, Súc Sinh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục. Cách sinh ra và tuổi thọ của chúng sinh trong vô lượng vô biên các chiều không gian ấy đều có sự khác nhau: Một là Thai sinh tức là những loài trong thai mẹ sinh ra; Hai là Noãn sinh tức là những loài trong trứng sinh ra; Ba là Thấp sinh tức là những loài từ nơi ẩm thấp mà sinh ra; Bốn là Hóa sinh tức là những loài hóa hiện sinh ra, tự biến hiện thân thể theo nghiệp lực quả báo.
I. CÕI NGƯỜI
Cõi này là thai sinh. Những ai biết đoạn ác tu thiện, tu hành năm giới nghiệp thiện gồm:
Một: Không sát sinh; Hai: Không trộm cướp; Ba: Không tà dâm; Bốn: Không nói dối; Năm: Không dùng rượu bia, chất kích thích thì thường được chuyển sinh vào các chiều không gian cõi Người.
Chư Phật thường hay xuất hiện ở cõi Người để giảng kinh thuyết pháp. Do quá khứ gieo nhân khác nhau nên quả báo của cõi Người không đồng đều, dưới đây chỉ là khái lược, còn rất nhiều loại quả báo khác nữa.
Mục lục:
CHƯƠNG I: SÁU CÕI LUÂN HỒI
I. Cõi Người
1. Quy ước thời gian và đơn vị trong đạo Phật
2. Năm Trược Ác Thế
3. Tam Khổ và Bát Khổ
II. Cõi Trời
1. Dục Giới Thiên
2. Sắc Giới Thiên
3. Vô Sắc Giới Thiên
4. Năm Tướng Suy
III. Cõi Atula
IV. Cõi Súc Sinh
V. Cõi Ngạ Quỷ
VI. Cõi Địa Ngục
VI. Kết luận
CHƯƠNG II: QUY Y TAM BẢO
1. Quy y Phật
2. Quy y Pháp
3. Quy y Tăng
4. Kết luận
CHƯƠNG III: MƯỜI NGHIỆP THIỆN
1. Không sát sinh
2. Không trộm cướp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không nói thêu dệt
6. Không nói lưỡi hai chiều
7. Không nói lời hung ác
8. Không tham lam
9. Không sân hận
10. Không si mê
CHƯƠNG IV: BÁT CHÍNH ĐẠO
1. Chính Kiến
2. Chính Tư Duy
3. Chính Ngữ
4. Chính Nghiệp
5. Chính Mạng
6. Chính Tinh Tiến
7. Chính Niệm
8. Chính Định
CHƯƠNG V: LỤC ĐỘ BA LA MẬT
1. Bố thí Ba La Mật
2. Trì giới Ba La Mật
3. Nhẫn nhục Ba La Mật
4. Tinh tiến Ba La Mật
5. Thiền định Ba La Mật
6. Trí tuệ Ba La Mật
CHƯƠNG VI: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
I. Đại nguyện của Đức Phật A Di Đà
1. Lợi ích và công đức của pháp môn niệm Phật
2. Tam Tư Lương
3. Lục Hòa
II. Giáo lý và kiến giải
1. Niết Bàn
2. Giáo lý kiến giải
3. Kết luận
III. Hành trì và chứng đắc
IV. Phát nguyện niệm Phật
V. Hồi hướng cho chúng sinh khi vô tình giết hại hoặc ăn năm tịnh nhục
CHƯƠNG VII: ĂN CHAY
I. Vì sao nên ăn chay
1. Vì lòng từ bi và bình đẳng
2. Vì muốn tránh quả báo luân hồi khổ đau
3. Vì tốt cho sức khỏe
4. Vì lợi ích cho bản thân và xã hội nhân loại
II. Phương pháp ăn chay
1. Ăn chay kỳ
2. Những việc nên làm khi ăn chay
III. Kết luận
Thực Hành Theo Luận Đại Thừa Khởi Tín
Luận Đại Thừa Khởi Tín là căn bản, quan trọng và quý báu, vì tổng hợp hai nhánh của Đại thừa: Tánh Không Trung Đạo và Duy thức. Từ hai nhánh Tánh Không và Duy Thức này mà có tất cả các tông phái của Đại thừa, và chúng gồm cả ba thời thuyết pháp của đức Phật Thích Ca là:
1/ Bốn Đế và Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã
2/ Tánh Không
3/ Phật tánh, hay Như Lai tạng, hay Tâm Chân Như
Ấn phẩm Thực Hành Theo Luận Đại Thừa Khởi Tín này được xem là rất cần thiết đối với những người muốn tìm hiểu và thực hành đầy đủ về con đường Đại thừa:
- Ba môn Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu mà Kinh Viên Giác nói rằng hoàn thành ba môn này tức là “Phật xuất hiện ở thế gian”
- Sáu ba la mật có giá trị như thế nào trong việc thể nhập Pháp thân
- Hai sự tích tập Trí huệ và Công đức
- Chi tiết về vô minh bất giác sanh sôi như thế nào để che chướng Pháp thân Chân Như và cách để tiêu trừ, tịnh hóa chúng
- Những cấp độ của con đường và những cấp độ tu chứng của Bồ tát
- Những ma chướng
Luận có tên là Đại Thừa Khởi Tín, vì luận giảng về Nền tảng và Quả của tất cả tông phái Đại thừa, kể cả Mật thừa, tức là “Pháp thân của tất cả chư Phật”. Luận đã giảng dạy đầy đủ cả Ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân hay Hóa thân.
Luận Đại Thừa Khởi Tín đề cập đến tất cả những pháp môn làm nên con đường Đại thừa, con đường Bồ tát. Thế nên những lời bình giảng ở đây hẳn là chưa đủ. Trong phần bình giảng, chúng tôi chú trọng vào sự thực hành, cho nên đã lặp lại nhiều lần những chữ trong luận: niệm, lìa niệm, phân biệt, vô tướng, vô niệm, vô trụ, huân tập, tùy thuận, tương ưng... Mỗi người tu tập có thể tìm thấy những đoạn, những câu trong luận để tự mình khai phá qua thực hành để càng ngày càng mở rộng con đường thẳng đến thực tại Chân Như.
Nguyện mọi người được an vui và lợi ích khi đọc và thực hành theo luận này.
Kinh Vua Của Định - Bài Ca Đại Ấn
Bản Kinh Vua của Định được xem là cực kỳ quan trọng đối với những người muốn hiểu và thực hành Đại Ấn, bởi vậy cuốn sách này dành cho:
Những ai đang tìm hiểu và thực hành theo Kim cương thừa nói chung và dòng Karma Kagyu nói riêng
Những ai đang thực hành và nghiên cứu Phật giáo nói riêng và tâm linh nói chung, trên tinh thần Bất bộ phái
Những ai còn đang loay hoay trên con đường tu học và thực hành Phật giáo
Những ai muốn tìm hiểu về bản chất thực sự của Định
Những ai hiểu rằng tâm linh là con đường tiến hóa tất yếu của con người và khát khao đi trên con đường nà
TRÍCH ĐOẠN TRONG SÁCH
HỌC TRÒ: Khi ngài nói định (samadhi), nó có giống như trạng thái thiền định thực sự?
RINPOCHE: Vâng, chúng ta có thể nói như thế. Trong tiếng Tây Tạng, ryamshag, từ dùng để diễn tả trạng thái thiền định có nghĩa đen là “Nghỉ ngơi trong trạng thái xả”. Truyền thống của những giáo huấn cốt lõi vạch ra hai cách lạc khỏi trạng thái xả: một được gọi là “lạc vào tinh túy bất động” và cái kia là “lạc vào sự khái quát tánh Không”. Khái quát tánh Không nghĩa là trùm phủ ý niệm tánh Không lên khái niệm của chúng ta về thực tại, giữ trong tâm ý niệm rằng mọi sự vật cụ thể là trống không. Đây là một tạo dựng giả tạo làm che ám trạng thái định.
HỌC TRÒ: Ngu độn hay vô minh thì vi tế hơn sân hay tham. Thế nên phương thuốc áp dụng cũng phải vi tế. Vô minh có phải là cái chúng ta kinh nghiệm như trạng thái bình thường của tâm? Nó có phải là tấm màn tự nhiên mà chúng ta phải làm tan biến hay nhìn thấu qua?
RINPOCHE: Chúng ta đã nói ngu độn hay vô minh có thể là trộn lẫn hay không trộn lẫn. Vô minh không trộn lẫn là không hiểu, hiểu sai, hay cảm thấy nghi ngờ. Nhưng khi chúng ta nhìn vào cái không hiểu, hiểu sai hay cảm thấy nghi ngờ, chúng ta không tìm thấy thực thể nào cả. Vào giây phút khám phá sự không có thực thể này, trạng thái ngu độn và vô minh không còn nữa. Thay vào đó, một sáng tỏ sống động hiện diện. Cái tỉnh thức sống động ấy vượt khỏi ngu độn và ngu tối.
HỌC TRÒ: Đôi khi bản tánh của tâm được thấy trong một thoáng chốc, như một le lói của sự thấy biết. Đâu là sự liên quan giữa khoảnh khắc ấy với tinh túy của giác ngộ?
RINPOCHE: Theo Uttara Tantra (Luận Phật tánh), trạng thái thức tỉnh, tinh túy của giác ngộ, là chứng ngộ hoàn toàn bản tánh vốn có của những sự vật - Pháp tánh. Thí dụ được dùng ở đây là so sánh với một đứa bé mới sinh nằm trong một căn phòng. Mặt trời chiếu sáng bên ngoài và vài tia sáng lọt qua cửa sổ. Đứa bé thấy tia sáng mặt trời, nhưng không thể bước ra ngoài và thấy mặt trời thực sự. Khi lớn lên và có thể ra ngoài, nó sẽ thấy mặt trời. Có liên hệ nào giữa ánh sáng mặt trời mà đứa bé thấy với mặt trời thật? Hẳn là có, nhưng để thấy mặt trời thật thì phải chờ đi ra ngoài khi lớn lên. Theo cùng cách, một thoáng thấy của sự thấy biết, một chớp sáng của nội quán mà bạn nói thì cũng giống như tia sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Có một liên hệ chắc chắn giữa cái này và trạng thái giác ngộ, nhưng không phải là bản thân trạng thái giác ngộ. Chúng ta cần kiên trì tu hành thiền định để chứng ngộ đầy đủ trạng thái này, thế nên hãy thực hành!
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CUỐN SÁCH
Kinh Vua của Định, tiếng Sanskrit là SamadhiRaja Sutra. Có nhiều lý do để Khenchen Thrangu Rinpoche chọn Kinh này để bình giảng. Bản Kinh này là cơ sở của sự tiếp cận căn bản để tu hành samadhi được dùng ở những tổ chức tâm linh chính thuộc dòng Karma Kagyu. Thiền định chính của dòng này là về bản tánh của Đại Ấn, Mahamudra. Khi đại sư Gampopa, cũng được biết đến là Dakpo Rinpoche, giải thích hệ thống Đại Ấn, ngài đã dùng chính Kinh này. Bởi thế bản Kinh này phải được xem là cực kỳ quan trọng đối với những người muốn hiểu và thực hành Đại Ấn. Họ cần học, tư duy và hiểu nghĩa của Kinh Vua của Định. Kinh Vua của Định được Đức Phật ban theo lời thỉnh cầu của một Bồ tát tên là Ánh trăng Trẻ trung, trong tiếng Tây Tạng là Dawö Shönnu Gyurpa. Vị Bồ tát này được xem là một trong những Hóa thân trong chuỗi những đời trước của Gampopa. Kinh này được Đức Phật thuyết ở Đỉnh Núi Linh Thứu gần Thành Vương Xá (Rajgir).
Tác giả: Khenchen Thrangu Rinpoche sinh năm 1933 tại Kham, Tây Tạng. Ngài là giám hộ riêng của Đức Karmapa thứ XVII – Ogyen Trinley Dorje theo chỉ định của Thánh Đức Dalai Lama. Từ 1976, Ngài bắt đầu hoằng pháp tại phương Tây, và đã thành lập nhiều tu viện, ni viện, trường học cho trẻ em Tây Tạng và nhiều phòng khám bệnh. Ngài đã xuất bản 45 cuốn sách về Phật pháp bằng tiếng Anh. Ngài được đặc biệt biết đến vì khả năng làm cho những giáo lý phức tạp trở nên dễ tiếp cận với các học trò thời hiện đại.
Vũ Trụ Trong Hạt Bụi - Đi Vào Kinh Hoa Nghiêm
Từ “Vũ trụ” hay “Kosmos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là trật tự, hài hòa. Hy Lạp là cái nôi của nền văn minh Tây phương cho đến hiện đại. Vũ trụ về mặt vĩ mô là các hành tinh, các ngôi sao, cho đến các thiên hà, về mặt vi mô là thế giới của các nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử. Tất cả chúng đều hiện hữu trật tự và hài hòa với nhau.
Với Đông phương cũng có những quan niệm xưa cổ về vũ trụ, trong văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng nói về vũ trụ rộng nhất và sâu nhất là Kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao nhất của Phật giáo, được nói ngay sau khi Đức Phật giác ngộ.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói vũ trụ ở mặt vĩ mô: những thế giới hải, những thế giới úp, những thế giới ngửa, những thế giới hình như hoa xoắn tròn, những thế giới hình hoa sen…về mặt vi mô, kinh nói “lỗ chân lông, vi trần (hạt bụi nhỏ), sát na (phần nhỏ nhất của một khoảnh khắc)… Và tất cả những cái đó hoàn toàn trật tự, hài hòa với nhau để tạo thành vũ trụ.
Nhưng trật tự hài hòa của vũ trụ Hoa Nghiêm còn sâu sắc hơn nữa, mở rộng hơn nữa, đến gần như vô tận. Một sự vật không chỉ trật tự hài hòa với tất cả các sự vật khác mà còn bao gồm tất cả các sự vật khác (nhiếp) và thâm nhập tất cả các sự vật khác (nhập). Điều này chỉ có thể xảy ra khi tất cả đều “vô ngại” với nhau, và vô ngại bởi vì đều là tánh Không. Như thế cho đến cảnh giới rốt ráo là “sự sự vô ngại” và “trùng trùng duyên khởi, trùng trùng vô tận”.
Để đạt đến sự thật “sự sự vô ngại”, người ta phải thấy trực tiếp, chứng kiến trực tiếp, qua thí nghiệm trực tiếp, như khoa học. Phòng thí nghiệm, dụng cụ khoa học của chúng ta chính là thân tâm mình. Chính nơi phòng thí nghiệm thân tâm mình mà người ta tìm ra, nhìn thấy sự thực “sự sự vô ngại” của vũ trụ. Thế nên người xưa thường dùng chữ “thân chứng”, đích thân chứng nghiệm. Phật giáo có rất nhiều dụng cụ phương tiện cho việc này, tất cả nằm trong những khả năng sẵn có – chỉ cần mài giũa, làm tinh xảo thêm – của con người. Đó là sức tập trung (Chỉ, Định), khả năng quan sát, tưởng tượng sắc bén (Quán), những hoạt động tương ứng với sự thật (Hạnh), sự tha thiết mong cầu (Nguyện), lòng vị tha muốn ích lợi cho người khác (từ bi)…
Bởi vì cảnh giới sự sự vô ngại này ở khắp mọi không gian thời gian của vũ trụ, không nơi nào không có, không phút giây nào không hiện hữu, thế nên người ta có thể bắt gặp nó vào bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Rồi cứ thế đi sâu vào thực tại ấy như phẩm Nhập Pháp Giới của kinh diễn tả.
Bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, cho nên người ta có thể bắt gặp Nó nơi một góc phố, nơi một chiếc lá nằm trên ghế đá công viên, nơi một đám mây lơ lửng trên thành phố chẳng ai để ý, nơi một âm thanh tình cờ buổi sáng, nơi khuôn mặt một người xa lạ, nơi một mảnh ngói bên lề đường, nơi một ngọn cỏ rung rinh theo gió…
Đó là điều kinh nói, “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”.
Nguyện mọi người được an vui và lợi ích khi đọc và thực hành theo luận này.
Hiện Tại Vĩnh Cửu
GIỚI THIỆU SÁCH:
Tình yêu với đất nước, con người, tình yêu với Phật giáo nói riêng và trí tuệ cổ xưa nói chung đã hiển bày thật hiện hữu qua từng câu chữ trong Hiện Tại Vĩnh Cửu. Với một ấn phẩm chứa đựng nhiều trí tuệ, được viết bằng thứ ngôn ngữ tràn đầy cảm hứng, qua mỗi một chương phần, chiều kích tinh thần của người đọc như được mở rộng thêm, sâu hơn, tràn hứng khởi để có thêm cơ hội tiếp chạm với sự tự do toàn diện, đó cũng chính là hiện tại vĩnh cửu.
Trong sự tự do toàn diện, có mặt khắp cả, tự do không còn là tự do hạn hẹp để phải chọn lựa, vì chọn lựa là mất mát. Tự do ở đây là một cái toàn thể, tự do như chim bay trong không gian, có tất cả mọi chọn lựa, có tất cả mọi phương hướng để chọn lựa, sự tự do ấy, không gian bao la của con chim bay có mọi tiềm năng, mọi khả thể cho sự chọn lựa. Khi người ta không còn sống trong những phần tử phân mảnh mà sống trong một đời sống toàn thể là Không, vô tướng, giải thoát thì sự chọn lựa không làm cho người ấy bị giới hạn, mà chọn lựa chính là tự do. Đó chính là tự do chọn lựa tự do.
Sự tự do toàn diện, đó cũng chính là cái hiện tại vĩnh cửu, cái quê nhà, cái nguồn mà tác giả đã nhiều lần nhắc đến:
Về đến quê nhà thì thấy khắp cả đều là quê nhà, đều là tánh Không, tánh Như…. Tất cả những con đường, những phương pháp, những pháp môn Phật giáo đều đưa chúng ta về đến nguồn ấy….
Đồng nguồn, đó là đại từ đại bi.
Nguyện ai ai cũng sẽ tiếp chạm được hiện tại vĩnh cửu nơi mỗi người khi đọc tác phẩm tuyệt vời này!
TRÍCH ĐOẠN SÁCH:
Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
Lịch sử là kết quả của những hành động đã tạo ra của con người và tiếp tục được tạo ra bằng những hành động hiện tại. Hành động có thể là tốt, xấu, hoặc trung tính. Làm người không ai thoát khỏi việc tạo ra hành động, tạo ra lịch sử, dù của một cá nhân hay một xã hội.
Lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp và nghiệp quả, nghĩa là sự biểu hiện của những hành động của con người. Lịch sử con người là những hưng thịnh và suy vi, những thành công và thất bại, những xây dựng và điêu tàn, những hòa bình và chiến tranh. Lịch sử, với rất nhiều máu và nước mắt, là những vết thương khổ đau in hằn lên cuộc sống của con người.
Một trong những công việc của Bồ tát là chữa trị những vết thương, những tai hại của giết hại, chiến tranh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say sưa và chuyển hóa tâm xấu ác của con người để họ không gây ra những nguyên nhân cho những tệ nạn ấy nữa. Thế nên Bồ tát là người sống cùng chúng sanh, chia sẻ cùng một lịch sử tốt xấu, hưng phế của chúng sanh, nhưng Bồ tát đi xuyên qua lịch sử mà không có các vết thương, các phiền não nhờ mặc áo giáp của trí huệ tánh Không và đại bi vô ngại...
Một ngàn năm, nhiều giấc mộng trong một giấc mơ
Một ngàn năm…
Một ngàn năm đã qua đi cho đến khi tôi nhìn thấy viên gạch hoàng thành Thăng Long này, bởi thế mà bỗng dưng tôi nhòe nước mắt. Trong giọt nước mắt của ngàn năm ấy, tôi mộng thấy tro cốt mình đã mấy lần rắc xuống sông Hằng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có lần mở cửa phòng thiền để nhìn những đỉnh núi tuyết trắng dưới trời xanh mùa xuân Tây Tạng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có một lần mình tụng kinh trên Ngũ Đài Sơn nhìn về phương Nam cố quốc, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần mặc áo thụng dài ngồi bên bờ sông Nile cạnh những vườn ô liu ngát nắng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần bì bõm cày ruộng giữa trưa, trên bờ là người vợ nghèo mặt đỏ bừng, mồ hôi lấm tấm đang ngồi nghỉ… Tôi mộng thấy biết bao “mình” trong một ngàn năm…
Cầm viên gạch trên tay, tôi tưởng thấy quân Pháp chiếm Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những ngày kháng chiến cho đến sự chia đôi đất nước giữa thế kỷ 20. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những người lính trẻ và già của hai miền ngã xuống, ngã xuống ở hai bên chiến tuyến vô hình, và những người dân cả trẻ lẫn già, cả nam lẫn nữ vĩnh viễn nằm lại bên những con đường nơi chiến tranh và lịch sử đã đi qua. Tất cả và tất cả những đồng bào của tôi nằm lại đâu đó rải rác trên quê hương này, trên đôi mắt khép vẫn còn loáng thoáng giấc mơ Thăng Long mờ mịt hương khói. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy ngày thống nhất, mọi đôi mắt của tất cả những người còn sống đều nhòa lệ. Và bây giờ, cầm viên gạch hoàng thành trên tay, tôi tưởng thấy nhịp đập của hàng chục triệu trái tim ở đất nước này và của hàng triệu trái tim của người Việt xa xứ, ở Nam Phi, Ai Cập, ở châu Âu, Bắc Mỹ, ở những nơi xa xôi nhất của trái đất, tất cả và tất cả đều ít nhất vẫn có một cái gì đó chung cùng với nhịp đập của Thăng Long....
Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy rất nhiều giấc mộng trong chỉ một giấc mơ:
Suốt một ngàn năm, tôi chưa hề mơ làm vương làm tướng,
Chỉ mơ làm một người lính già giữ mãi một Thăng Long.
Truyện Phật Thích Ca
Trong lần tái bản này, chúng tôi đã hiệu đính lại tập sách trên tinh thần giữ lại những điểm tinh túy của tác giả, nhưng có điều chỉnh bổ sung một số kiến thức cập nhật, cũng như nhuận sắc lại phần văn chương cho phù hợp hơn với độc giả hiện nay. Hy vọng là với những cố gắng đó, tập sách sẽ tiếp tục là món quà tinh thần bổ ích cho những ai bước đầu muốn tìm hiểu về đạo Phật và cuộc đời đức Phật Thích Ca.
Chuyện Phật Đời Xưa
Tập sách "Chuyện Phật Đời Xưa" đã được tác giả Đoàn Trung Còn biên soạn cách đây gần nửa thế kỷ, từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong Phật giáo. Nội dung của sách được chọn lọc một cách khá nhất quán xoay quanh trục chủ đề chính là các vấn đề luân lý, đạo đức. Bên cạnh đó, những vấn đề như đức tin, luật nhân quả và các phần giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cũng được đưa vào. Có thể xem đây là một sự minh họa phong phú và lý thú cho những bài giảng về giáo lý nhà Phật.
"Thuở xưa, tại thành Ba la nại có một vị vua rất nhân từ, thường noi theo đạo từ bi để trị nước và giáo hóa daanc húng. Ngài rất công minh, không bao giờ có sự thiên vị với bất cứ ai, ngài cai trị hơn 60 nước chư hầu, gồm hơn tám mươi quận, có trong tay hàng trăm thớt voi,. Trong nội cung của ngài có đến hai chục ngàn cung phi mỹ nữ. Nhưng thật không may là ngài vẫn chưa có con nối dõi.
Trí Tuệ Hoan Hỷ
Nội dung sách được chia làm ba phần:
Phần I: Những Nguyên Tắc Chung
Khảo sát thực trạng căn bản của chúng ta: bản chất và nguyên nhân những dạng thức phiền não dị biệt đang tác động lên cuộc sống ta và tiềm năng của chúng trong việc đưa ta đến một sự nhận hiểu sâu sắc về bản thể của chính mình.
Phần II: Kinh nghiệm tu tập
Cung cấp sự chỉ dẫn tuần tự từng bước một qua ba giai đoạn thiền tập căn bản để an định tâm thức, rộng mở tâm hồn và trau dồi trí tuệ.
Phần III: Ứng dụng phật pháp
Những phương pháp thiền tập căn bản
Trí Tuệ Đức Phật
Cuốn sách này giới thiệu tập hợp các bài giảng của Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche trong một số buổi thuyết Pháp và nhập thất tổ chức tại Viện Nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng Ghe Pel Ling ở Milan, Ý. Cuốn sách này là kết quả từ các bài học bao gồm những chủ đề được dạy theo truyền thống trong tác phẩm Lam rim (Đèn soi nẻo giác), do học giả, hành giả người Ấn Độ Atisha viết ở Tây Tạng vào thế kỉ 11 và được Lama Tsong Khapa- một trong số nhiều đạo sư Tây Tạng – luận giải vào nữa sau thế kỉ 14. Lam rim bao gồm toàn bộ phần thuyết Pháp nguyên thuỷ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được tổ chức theo một trình tự nhằm dẫn dắt thiền giả từng bước tinh luyện tâm mình, vượt qua các cảm xúc phiền não và quan điểm sai lầm, đạt được thành tựu giác ngộ.
Những điều chúng ta nghe được từ Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche trong các buổi thuyết Pháp quý giá đó và có may mắn đọc ở đây, đến với chúng ta qua dòng truyền thừa thanh tịnh và trọn vẹn của thầy. Cuốn sách này bao hàm toàn bộ con đường từng bước đi đến giác ngộ được giải thích theo kinh nghiệm dày dặn và kiến thức uyên thâm của Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche với sự thanh thoát mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp với thính giả mới mang lại được. Những hướng dẫn này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù đã xuất hiện từ hai nghìn năm trăm năm trước, đạo Phật vẫn đầy ý nghĩa thích hợp với tất cả chúng ta trong cuộc sống và trong xã hội ngày nay.
Những Giai Thoại Huyền Bí
Tập sách viết về tôn giáo này trình bày về lịch sử hình thành và phát triển của Hội Thông thiên học, một tổ chức huyền linh đã từng một thời tạo ra khá nhiều ảnh hưởng ở nhiều nơi trên thế giới. Tiếp theo tập hồi ký của Đại tá H.S.Olcott, một trong hai nhà đồng sáng lập của Hội Thông thiên học, tập sách này cũng do Đại tá Olcott kể lại một cách khách quan những giai thoại huyền bí mà bản thân ông đã tứng chứng kiến.
Độc giả có thể tin hoặc không tin vào lời kể của tác giả, và những giai thoại huyền bí được thuật lại ở đây có hàm chứa những ý nghĩa gì hoặc phải được giải thích như thế nào, những điều đó không quan trọng. Điểm đặc sắc nổi bật trong tập sách này là thông qua những câu chuyện được kể lại, nhiều sự kiện lịch sử có liên quan cũng được ghi nhận một cách chính xác, và được mô tả một cách chi tiết, sống động, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn cảnh về đất nước Ấn Độ trong một giai đoạn mà ngày nay rất ít người còn nhớ đến.
Kinh Thánh - Cựu Ước
VỀ KINH THÁNH
Kinh Thánh lâu nay đã được xem là một tác phẩm kinh điển nhất mọi thời đại với những kỉ lục mà chưa từng có tác phẩm nào vượt qua được như: cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại (hơn 7 tỉ ấn bản được phát hành (ước tính tới năm 2020)); được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất (Kinh Thánh trọn bộ được dịch sang 700 ngôn ngữ, và hơn 1.500 ngôn ngữ có bản dịch Tân Ước); cuốn sách được trích dẫn nhiều nhất, có ảnh hưởng nhất và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới…
Kinh Thánh có tên gốc trong tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”; trong tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo”; trong tiếng Anh gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển. Khi chuyển sang Tiếng Việt, các dịch giả sử dụng theo danh từ Hán Việt - thường gọi các sách tôn giáo dạy đạo lý là kinh, nên chúng ta có tên gọi là Kinh Thánh trong Tiếng Việt, được sử dụng rộng rãi từ xưa đến nay, dù tên gọi này mang màu sắc tôn giáo và gây nhiều hiểu lầm cho những độc giả chưa từng tiếp cận.
Kinh Thánh gồm hai phần: từ nhiều văn thư được thu lại thành hai bộ lớn là Cựu Ước và Tân Ước trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2, được viết bằng ba ngôn ngữ, chủ yếu là chữ Hebrew (hay Hipri của người Do Thái), Hi Lạp cổ và một vài phân đoạn trong Kinh Thánh được viết bằng tiếng Aram - một cổ ngữ được dùng phổ biến tại Do Thái trong thời Đức Chúa Yêsu.
Cựu Ước là Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thiên Chúa, gồm 46 cuốn chia 4 phần, chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN. Còn Tân Ước là Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thiên Chúa, nguyên văn từ các cổ bản Hi Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Yêsu.
Kinh Thánh có thể được xem là một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá... Nên có thể nói chưa đọc và hiểu Kinh Thánh thì rất khó hiểu được nền văn minh phương Tây nói riêng, cũng như thế giới nói chung.
VỀ BẢN DỊCH KINH THÁNH CỦA LINH MỤC NGUYỄN THẾ THUẤN
Việc chuyển ngữ Kinh Thánh sang tiếng Việt bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, cách đây hơn 100 năm, và đã có khoảng 6 bản dịch đầy đủ của tác phẩm này được xuất bản tại Việt Nam và phổ biến chủ yếu trong cộng đồng Công giáo.
Bản tiếng Việt do Omega+ xuất bản là bản dịch của cố Linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn - một học giả uyên thâm của Giáo hội Công giáo Việt Nam, lâu nay được xem là một trong những công trình dịch thuật khả tín, khoa học nhất đã từng được xuất bản bằng tiếng Việt, được giới nghiên cứu đánh giá rất cao và là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng đối với các chủng sinh Đại Chủng viện, Học viện của các Dòng Tu…
Bản dịch được thực hiện trong hơn 15 năm, kể từ khi Cha Thuấn du học về nước năm 1956 và gần hoàn tất cho đến khi mất năm 1975. Cuối năm 1976, toàn bộ bản dịch Kinh Thánh của Cha được các vị trong dòng tu hoàn thiện phần còn lại dở dang và xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn.
Những điểm nổi bật của bản dịch:
- Bản dịch công phu được Linh mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn thực hiện trên các nguyên bản tiếng Hipri, Aram và Hy Lạp, đối chiếu với các bản Syri và Latinh.
- Cha Thuấn đã dày công thực hiện việc chú giải Kinh Thánh một cách tỉ mỉ và công phu. Đây cũng là phần nội dung được đánh giá cao so với một số bản dịch khác.
- Cha khảo dị những sự khác nhau, thiếu/đủ từng chữ, từng câu trên các văn bản đã khảo sát. Ví dụ: (…) vòng lại những chữ trong văn bản không có, nhưng cần để rõ nghĩa chiếu theo mẹo, hay mạch lạc; hoặc […] vòng lại những chữ, hay câu, chắc được là có trong văn bản cựu trào, nhưng nhiều bản xưa lại không có…
- Cha Thuấn còn thực hiện một lớp chú giải khác bên lề sách, với nhiều trang sách chi chít ký tự và số, với mục đích chỉ ra các đoạn khác trùng nhau, đi song song với nhau về ý tưởng trong cùng một quyển sách.
NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA KINH THÁNH CỰU ƯỚC
Kinh Thánh – Cựu Ước là loạt sách quan trọng nói về Giao ước cũ (Cựu Ước – Old Testament) giữa Thiên Chúa và dân Do Thái, trước thời Chúa Yêsu giáng sinh. Loạt sách Cựu Ước trong tay bạn đọc gồm 46 sách, chia thành 4 phần chính, gồm:
- Lề luật hay Ngũ Kinh (được người Do Thái gọi chung là “Torah”), gồm các sách: Khởi nguyên, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Thứ luật. Năm quyển này kể lại liên tục lịch sử của dân Israel từ khởi thủy (Thiên Chúa sáng thế, tạo ra con người và vạn vật…), thiết lập giao ước với Noê, Abraham và các nhân vật Tổ phụ; xuyên suốt thời kỳ xuất hành rời khỏi Ai Cập đi về Đất Hứa, 40 năm lang thang trong sa mạc cho đến khi Môsê (tiên tri lớn nhất của dân Do Thái) chết, tức trước khi dân Do Thái qua được sông Yorđan để vào Đất Hứa. Nội dung quan trọng của phần này, ngoài lý giải về nguồn gốc vũ trụ, nguyên do hình thành Giao ước giữa Thiên Chúa và Do Thái dân được chọn, còn trình bày một cách hệ thống toàn bộ các lề luật/giáo lý quan trọng nền tảng của Do Thái giáo từ khởi thủy.
- Sử và Truyện: gồm loạt sách Yôsua, Thẩm phán, Bà Rút, 2 sách Samuel, 2 sách các Vua, 2 sách Ký sự, sách Ezra, Nêhêmya, Tôbya, Yuđita, Esther và 2 sách Macabê. So với Ngũ Kinh, nhóm sách Sử và Truyện thuật lại tiến trình lịch sử của người Do Thái, cùng quá trình gìn giữ và duy trì Giao ước thiết lập giữa họ và Thiên Chúa kể từ khi Yôsua đưa dân Do Thái qua sông Yorđan, từng bước chinh phục Đất Hứa, đến thời kỳ Quân chủ thiết lập nhà nước Do Thái, thời kỳ phân chia thành hai vương quốc Yuđa và Israel rồi đến thời mất nước phải chịu cảnh lưu đày; kế đến là thời phục quốc và phục hưng đạo Do Thái, phục hưng Đền thờ ngay trên đất thánh Yêrusalem.
Bên cạnh các yếu tố trần thuật về lịch sử của dân tộc và tôn giáo, bộ khung lề luật phủ khắp đời sống tinh thần Do Thái, nhóm Sử và Truyện còn ẩn chứa các chi tiết về dòng dõi của Chúa Yêsu, những ký hiệu sẽ lặp lại ở các sách Tin Mừng (thuộc Tân Ước) báo hiệu sự xuất hiện của một Đấng Mêsia Cứu thế vốn thuộc dòng vua Đavít.
- Thi phú: gồm các sách Yob, Thánh vịnh, Cách ngôn, Giảng viên, Diệu ca, sách Khôn ngoan và Huấn ca. Nhóm sách này còn được coi như nhóm sách Khôn ngoan, trong đó, những bậc thức giả Do Thái thể hiện sự khôn ngoan của mình thông qua kinh nghiệm sống cá nhân và khả năng luận lý của mình (thậm chí có thể xem là bắt bẻ Thiên Chúa), họ chú tâm tới thân phận của cá nhân con người nhưng đặt dưới ánh sáng soi chiếu của tôn giáo Yavê (Thiên Chúa). So với nền khôn ngoan phương Đông nói chung, cái gọi là khôn ngoan của dân Do Thái đậm chất “sùng đạo”, đầy tính chất biện bạch, vừa thể hiện sự khéo léo, óc xoay xở nhưng đồng thời bộc lộ khía cạnh mánh lới. Chính điều này đã đặt các sách Khôn ngoan ở vào thế gần như đối lập với quan điểm của các Tiên tri.
Dẫu vậy, đặt nhóm sách Khôn ngoan trong đối sánh với các sách Tiên tri lại gần như thể hiện hai khía cạnh quan trọng trong đặc tính dân Do Thái: năng lực và sự thiên phú, kinh nghiệm sống sâu sắc và khả năng xoay xở của dân-được-chọn (sự Khôn ngoan), với đòi hỏi tuyệt đối cấp thiết với tồn vong của dân tộc Do Thái đó là gìn giữ lề luật của đạo Do Thái, thông qua việc tuân thủ Giao ước với Thiên Chúa trong bất kể hoàn cảnh sống nào (lời của các Tiên tri).
- Nhóm sách Tiên tri: gồm các sách của tiên tri Ysaya, Yêrêmya, Êzêkiel và mười hai tiên tri khác. Trong tiếng Hipri (Hebrew), từ dùng để chỉ các tiên tri là Nabi (mà tiếng gốc có nghĩa là “gọi, loan báo”); theo đó, tiên tri là những người giữ trọng trách “người loan báo”, là sứ giả và là người đạo đạt “Lời” của Thiên Chúa.
Có lẽ vì vậy mà hình ảnh các Tiên tri Do Thái hiện lên thường đậm chất giảng thuyết, có thể bị coi là giáo điều, nhưng họ lại là phần tối quan trọng nếu muốn tìm hiểu về Giao ước giữa Thiên Chúa và dân-được-chọn. Qua các sách Tiên tri, người đọc sẽ một lần nữa được lược lại tiến trình lịch sử của dân Do Thái qua các thời kỳ, nhưng lần này là từ giác độ tinh thần của lịch sử Do Thái.
Như vậy, qua 4 phần nội dung chủ đạo của Kinh Thánh – Cựu Ước, người đọc được cùng lúc tiếp xúc với lịch sử một dân tộc và tôn giáo ở cùng lúc nhiều khía cạnh: tiến trình hình thành và phát triển của một cộng đồng từ du mục đến cát cứ một vùng đất; hệ thống luật lệ và luật pháp; dân tộc tính; và cuối cùng là khía cạnh thần bí về nguồn gốc khởi thủy và Giao ước với Thiên Chúa độc nhất của dân tộc Do Thái/Do Thái giáo.
Xét về khía cạnh tôn giáo, Kinh Thánh – Cựu Ước là một bản văn quan trọng trình bày lịch sử nguồn gốc của ba tôn giáo độc thần: Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo. Cựu Ước trình bày và lý giải mối quan hệ khắng khít giữa Yavê Thiên Chúa và Do Thái dân được Người chọn. Mối liên kết này xoay quanh hoạt động gìn giữ lề luật, trung thành với Giao ước đã thiết lập. Tùy vào mức độ trung tín người Do Thái thực hiện trong từng giai đoạn nhất định mà Thiên Chúa hiện lên ở khía cạnh thương xót hay trừng phạt: thương xót nếu dân/người đại diện biết giữ gìn lề luật và tỏ bày sự thủy chung với Thiên Chúa, cùng hỏa nộ và trừng phạt khi dân thất tín để lòng lung lạc trước ngoại đạo.
Riêng với Kitô giáo, trong kết nối với Tân Ước, phần lịch sử của Cựu Ước – nhìn từ nhiều giác độ – cung cấp nhiều dữ kiện dẫn dắt đến lý do cần thiết phải xuất hiện một Đấng Cứu thế, và vai trò-sứ mệnh này, theo tiến trình tôn giáo-dân tộc-lịch sử đã đậu lên vai Chúa Yêsu Kitô, ở đoạn cuối Cựu Ước, khi mà lịch sử Do Thái rơi vào thời kỳ mù mờ lạc lối cao độ giữa lòng đô hộ của Đế chế La Mã, một đế chế với nền cai trị đầy thử thách mà dân Do Thái chưa từng gặp phải trước đó.
Và chính ở điểm kết thúc của Cựu Ước, một đêm trường tăm tối nhưng vẫn nhen nhóm niềm tin và hy vọng của phục hưng tôn giáo – chiếu theo “Lời” Thiên Chúa đã phán về Lưu đày và hứa hẹn phục sinh sau đó – thì Tân Ước bắt đầu và nối vào bằng Lời rao giảng của Chúa Kitô: Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng (Mc 1 15).
Quyển sách Theo Chân Đạo Sư: Đức Liên Hoa Sinh Ở Nepal trình bày những kỳ công phi thường ngoài sức tưởng tượng của Đạo Sư Padmasambhava ở Nepal, thuộc vùng đất Hy Mã Lạp Sơn. Vị Hóa thân này tượng trưng cho sự giác ngộ theo con đường Mật thừa. Ngài đã dành nhiều năm nhập thất miên mật tại những vùng núi đồi và thung lũng nơi đây. Đại Đạo Sư cũng đã ban vô số giáo huấn cho chúng môn đồ và chôn giấu số lượng Mật điển nhiều vô kể.
Phần Đức Liên Hoa Sinh Ở Nepal sẽ khảo sát những Thánh địa, nơi Đức Padmasambhava đã hiển bày những hoạt động giác ngộ. Các nội dung của sách gần như bám sát vào Pema Kathang, Liên Hoa Biên Niên Sử Ký - một trong những phần tiểu sử thuộc kho tàng Mật điển quan trọng nhất của Đức Liên Hoa Sinh. Bên cạnh những câu chuyện do người dân xứ Hy Mã Lạp Sơn kể lại, các câu chuyện kể về linh kiến cũng được đan xen vào cùng lời giải thích quý giá từ các bậc đạo sư chứng ngộ của Tây Tạng như Jamyang Khyentsé Wangpo, Chokgyur Dechen Lingpa, và Jamyang Khyentsé Chökyi Lodrö.
Phần Bước Vào Vùng Thánh Địa sẽ tặng quý độc giả một bản dịch hoàn toàn mới cho phần tiểu sử kinh điển của Đạo Sư Liên Hoa Sinh, được biên soạn bởi Đức Jamgön Kongtrul. Ngoài ra, nội dung này còn được kết hợp với phần giảng giải của Neten Chokling Rinpoché và Phakchok Rinpoché, là những vị đạo sư Tây Tạng tín nhiệm đương thời.
Phần cuối cùng là tuyển tập những bài nguyện và khẩn cầu thiết yếu đến Đức Liên Hoa Sinh, cả Việt ngữ và Tạng ngữ. Ngoài ra, chắc chắn rằng những bức vẽ minh họa và những bức hình đặc sắc ở phụ lục sẽ góp phần dẫn dắt và truyền cảm hứng cho bạn trong chuyến du hành vào trong thế giới linh diệu.
Tác giả:
Tổ Chức Dịch Thuật SAMYE (tên cũ: Lhasey Lotsawa) bao gồm những dịch giả, biên tập viên, nhà văn mang nhiều quốc tịch khác nhau. Nhiệm vụ cốt lõi của SAMYE là góp sức vào việc bảo tồn, phổ biến Phật Pháp thông qua công tác chuyển dịch kho giáo huấn và SAMYE đã nhận được sự tín nhiệm cao trong cộng đồng Phật Giáo Tây Tạng ở nhiều quốc gia. Trong lúc vừa chú trọng vào việc cung cấp những tài liệu cần thiết cho quá trình tu học của những Phật tử thực hành kho tàng mới phát lộ bởi vị Sơ Tổ Chokgyur Lingpa (dòng truyền Chokling Tersar), SAMYE cũng chuyển dịch những bản Kinh văn thuộc tất cả các truyền thống Phật giáo được thuyết bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và những Luận điển kèm theo. Hoạt động của SAMYE được Kyabjé Tsikey Chokling Rinpoché và Phakchok Rinpoché trực tiếp dẫn dắt.
Mục lục:
PHẦN 1: BƯỚC VÀO VÙNG THÁNH ĐỊA
Cuộc đời và sự giải thoát của Đạo Sư Padmasambhava
Đại Đạo Sư
Bước trên con đường của lòng sùng mộ
Chuyến hành hương trên Đạo lộ tâm linh
Cảnh giới thiêng liêng của Đạo Sư Padmasambhava
Chuyến hành trình đến Nepal của Đại Đạo Sư
PHẦN 2: ĐỨC LIÊN HOA SINH Ở NEPAL
Trước khi bắt đầu
Đại Bảo Tháp Jarung Kashor
Khu Mộ Địa Lundrup Tsek
Maratika
Ngatupchen
Swayambhu
Động Asura và Yangleshö
Yarinak
Chumik Changchup
Tu Viện É
Những Huynh Đệ Quán Thế Âm
Tsawarong
Bhaktapur
Tóm lược: Hành trình của Đạo Sư Padmasambhava ở Nepal
Lời kết
PHẦ N 3: KHẨN CẦU ĐẠO SƯ LIÊN HOA SINH
Con đường của một người hành hương đích thực
Bài cầu nguyện bảy dòng đến Đạo Sư Liên Hoa Sinh
Bản thực hành Đạo Sư Du-già cô đọng
Sampa Nyur Drupma – Bài cầu nguyện tốc thắng viên thành nguyện ước
Sampa Lundrupma – Bài cầu nguyện cô đọng giúp nguyện ước tự nhiên viên thành
Barché Lamsel bản tối lược – Bài cầu nguyện xóa tan những chướng ngại trên Đạo lộ
Bài cầu nguyện là suối nguồn của tất cả sự giác ngộ chân chánh
Bài nguyện mạn-đà-la Kim Cương Giới
Bài nguyện cúng dườ ng đè n
Bài nguyện cầu sinh về cõi Núi Huy Hoàng Màu Đồng
Bài nguyện dâng Đại Đạo Sư
Bài cầu nguyện Kim Cương sáu dòng
Bài cầu nguyện Guru Rinpoché ban những thành tựu
Trích đoạn nội dung sách:
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ GIẢI THOÁT CỦA ĐẠO SƯ PADMASAMBHAVA
Vào thế kỷ XIX có một nhóm gồ m ba vị Đạo Sư Tây Tạng đã quy tụ lại để cùng nhau bảo vệ Phật Pháp và đặc biệt là giáo huấn của Đạo Sư Padmasambhava. Họ là Jamyang Khyentsé Wangpo, Jamgon Kongtrul Lodrö Thayé và Chokgyur Dechen Zhikpo Lingpa. Nhờ vào lòng từ ái và sự cống hiến của ba vị mà các giáo huấn Phật Pháp vô giá vẫn còn phát triển hưng thịnh đến ngày nay. Sự phối hợp của họ đã là điều kiện sống còn trong việc bảo tồn và tiếp nối các giáo lý của Đại Đạo Sư. Thế nên trong loạt sách gồm ba quyển này, mỗi quyển chúng tôi sẽ lần lượt trình bày một bản tiểu sử của Guru Rinpoché do từng vị đã biên soạn. Bản văn do Đức Jamgön Kongtrul viế t về cuộc đời của Đạo Sư Liên Hoa Sinh có lẽ là dễ tiếp cận nhất trong số ba phiên bản, tuy vậy, nội dung của nó vẫn đầy đủ những phần luận bàn về các chi tiết nhỏ trong cuộc đời của Đại Đạo Sư. Bản thân Đức Jamgon Kongtrul Lodrö Thayé trở nên nổi tiếng là nhờ vào việc ông đã tổng hợp kiến thức và kinh nghiệm của nhiều dòng truyền
Cuốn sách này giới thiệu tập hợp các bài giảng của Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche trong một số buổi thuyết Pháp và nhập thất tổ chức tại Viện Nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng Ghe Pel Ling ở Milan, Ý. Cuốn sách này là kết quả từ các bài học bao gồm những chủ đề được dạy theo truyền thống trong tác phẩm Lam rim (Đèn soi nẻo giác), do học giả, hành giả người Ấn Độ Atisha viết ở Tây Tạng vào thế kỉ 11 và được Lama Tsong Khapa- một trong số nhiều đạo sư Tây Tạng – luận giải vào nữa sau thế kỉ 14. Lam rim bao gồm toàn bộ phần thuyết Pháp nguyên thuỷ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được tổ chức theo một trình tự nhằm dẫn dắt thiền giả từng bước tinh luyện tâm mình, vượt qua các cảm xúc phiền não và quan điểm sai lầm, đạt được thành tựu giác ngộ.
Những điều chúng ta nghe được từ Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche trong các buổi thuyết Pháp quý giá đó và có may mắn đọc ở đây, đến với chúng ta qua dòng truyền thừa thanh tịnh và trọn vẹn của thầy. Cuốn sách này bao hàm toàn bộ con đường từng bước đi đến giác ngộ được giải thích theo kinh nghiệm dày dặn và kiến thức uyên thâm của Tôn sư Lama Thamthog Rinpoche với sự thanh thoát mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp với thính giả mới mang lại được. Những hướng dẫn này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù đã xuất hiện từ hai nghìn năm trăm năm trước, đạo Phật vẫn đầy ý nghĩa thích hợp với tất cả chúng ta trong cuộc sống và trong xã hội ngày nay.
Chứng nghiệm là giải thoát như một bản đồ đi tìm kho báu. Kho báu của những hành giả đi tìm đích đến của đời người. Mới quý độc giả nối bước tác giả - để như lời mong muốn chân thành của tác giả - của ông làm một cú nhảy vào vùng trải nghiệm cái Vô Hạn mà người đã đến gọi là GIÁC NGỘ
Duyên khởi của tập sách này có phần nào đó hơi khác thường và đối với tôi dường như lại còn là một điều hết sức thú vị. Trong một thời gian khá lâu, với nhiều công việc dở dang nên tôi gần như không đặt bút viết thêm được quyển sách nào trong Tủ sách Rộng mở tâm hồn, cho dù tôi đã chuẩn bị khá nhiều ý tưởng để chia sẻ cùng bạn đọc qua một số chủ đề đã được dự tính từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, thời gian và công việc thật ra cũng chỉ là một yếu tố, vẫn còn một yếu tố khác quan trọng hơn nữa là tôi thực sự chưa tìm được nguồn hứng khởi để đưa những ý tưởng sẵn có của mình lên trang giấy.
Thế rồi, thật tình cờ tôi nhận được một bài thơ rất đặc biệt, từ một người quen gửi đến. Tôi gọi là một “bài thơ” vì với tôi nó gần như đã gợi lên được trọn vẹn cả một đề tài mà từ lâu tôi hằng ấp ủ, nhưng thật ra có lẽ với đa số người đọc khác thì không hẳn đã xem đó là một “bài thơ”, bởi nó chỉ gồm hai câu ngắn ngủi được đặt trang trọng bên dưới một chủ đề – rất có thể chính là toàn bộ ý tưởng mà người viết muốn diễn đạt.
Chủ đề được nêu lên là: “Chân-lý đi về đâu” và hai câu lục bát ngắn ngủi ấy như sau:
Chân-lý đi, chân-lý về,
Chẳng còn, hay có; cũng “huề” một “tâm”.
Tôi đã cố ý ghi chép lại chính xác như những gì tôi được đọc thấy, bởi mỗi chi tiết trong hai câu thơ này đều mang những ý nghĩa nhất định đối với tôi.
Trước hết, quý độc giả có thể đã dễ dàng nhận ra những chữ chân lý đều được viết có gạch nối. Đây là dấu ấn cho thấy người viết thuộc một thế hệ khá lớn tuổi, ít nhất cũng đã theo học bậc trung học từ trước năm 1975, bởi hiện nay không ai còn giữ cách viết này. Những dấu gạch nối thời ấy làm nhiệm vụ liên kết một cụm từ ngữ khi người viết muốn người đọc phải tiếp nhận nguyên vẹn mà không tách rời chúng ra.
Điểm đặc biệt thứ hai là cách dùng chữ huề, một dạng trước đây của chữ hòa. Ngày nay ít thấy ai dùng chữ huề nữa, mặc dù theo quy luật chung của ngôn ngữ, nó vẫn còn được lưu dấu trong những cụm từ cố định như huề vốn, huề cả làng v.v… Nhưng khi dùng riêng rẽ, ta chỉ nói xử hòa chứ không nói xử huề, cũng như nói hòa thuận chứ không ai nói huề thuận v.v… Ngoài ra, tôi cũng chú ý đến cách dùng các dấu ngoặc kép trong câu với mục đích nhấn mạnh vào hai chữ huề và tâm.
Đối với tôi, các đặc điểm nhận dạng qua hình thức như vừa nêu là những chỉ dấu để tôi tiếp cận ý nghĩa hai câu thơ theo một hướng đặc biệt, trong chừng mực nào đó có vẻ gần giống như là một cuộc đối thoại trực giao giữa hai thế hệ – một ngày xưa cổ kính thâm trầm với nội tâm sâu lắng và một hiện tại năng động tư duy với ngập tràn tri thức.
Chân lý vốn là một khái niệm hết sức mơ hồ, chưa từng và cũng sẽ không bao giờ có thể được cụ thể hóa thành một khuôn mẫu duy nhất. Mặc dù không ít người vẫn tin chắc rằng “chân lý chỉ có một”, nhưng họ thường quên rằng điều đó chỉ đúng khi xét trong trường hợp của riêng một người hay một nhóm người hoàn toàn có cùng quan điểm. Và vì thế, cho dù mỗi người hay một nhóm người có thể đạt đến chân lý “duy nhất” nào đó, thì thực tế vẫn luôn tồn tại đó đây vô số những “chân lý” khác đối với những người khác hay nhóm khác.
Tính chất mơ hồ của khái niệm này dường như lại càng được đẩy xa hơn nữa khi người viết cố ý đặt chúng kèm theo những động từ đi, về:
Chân-lý đi, chân-lý về … …
Chân lý ở đây được mô tả đang dịch chuyển theo dòng biến động của những tâm thức chưa từng lắng đọng, đang ngày đêm quay quắt với những đúng-sai, phải-trái, được-thua, hơn-thiệt… Và trong cuộc xoay vần không đích đến như thế, những chuyến đi về tất yếu cũng không bao giờ tìm được một điểm dừng cố định. Đây chính là bi kịch muôn đời của những con người khát khao chân lý nhưng không đủ phước duyên để gặp được một bậc minh sư soi đường chỉ lối.
Về điểm này, chắc hẳn sẽ có không ít độc giả khởi lên sự hoài nghi: “Lẽ nào mỗi chúng ta không thể tự mình tìm ra con đường đi đến chân lý tuyệt đối hay sao?”
Vâng, tất nhiên đó là điều hoàn toàn có khả năng xảy ra, nhưng chỉ là trong suy diễn và lý thuyết mà thôi. Hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua kể từ khi bậc Đại Giác Thế Tôn ra đời và chỉ bày con đường đi đến tận nguồn chân lẽ thật, trong thực tế có vô số người đã nối tiếp nhau đạt được sự an lạc giải thoát nhờ đi theo con đường do Ngài mở lối, nhưng chưa một người nào nhận rằng chính mình đã tự khai sáng con đường ấy hoặc mở ra được một hướng đi nào khác hơn những gì đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã từng thuyết giảng.
Tri thức giới hạn của hầu hết chúng ta dường như luôn vấp phải bức tường bế tắc khi nỗ lực soi rọi đến tận cùng ý nghĩa hiện hữu của đời sống. Và trong nỗ lực vô vọng để vượt qua sự bế tắc ấy, có những điều hôm nay ta tưởng chừng là chân lý tuyệt đối thì có thể ngày mai đã trở thành một mớ tri thức hỗn độn vô nghĩa; có những thành tựu tưởng chừng như đang làm thay đổi cả cuộc đời ta, thì có thể trong phút chốc bỗng đẩy ta vào chỗ hoang mang lạc lõng… Tất cả những thực tiễn ấy, những ai dấn thân vào con đường tìm kiếm chân lý đều rất có thể đã từng trải qua. Và chính vì vậy mà giá trị khai mở của những lời dạy sáng suốt từ một bậc thầy chân chánh là vô cùng quý giá.
Không riêng gì mỗi chúng ta hôm nay, nhiều thế hệ nhân loại nối tiếp nhau trong lịch sử cũng đã từng loanh quanh trên những lối mòn đi tìm chân lý mà thật ra không đưa người ta đến bất cứ nơi nào cả. Nhân danh chân lý, người ta đã từng chém giết, tàn hại lẫn nhau, nhưng thực tế lại cho thấy cả kẻ thắng lẫn người thua đều chẳng ai có được trong tay mình chân lý!
Cũng nhân danh chân lý, có những người, những nhóm người đã từng hy sinh tuổi thanh xuân cho đến cả cuộc đời mình để lao vào cuộc kiếm tìm không mệt mỏi, nhưng rồi khi đến cuối đời mới đau đớn nhận ra mình thậm chí còn chưa biết được chân lý là gì!
Và không chỉ trong những vấn đề lớn lao trọng đại, chúng ta còn luôn gặp phải những biện luận, tranh chấp về cái gọi là “chân lý” dưới mọi hình thức ngay trong cuộc sống hằng ngày. Không ai có thể dễ dàng chấp nhận mình là người đã “sai lầm”, dù chỉ là trong ý tưởng. Mỗi người đều cố gắng hết sức để giành về mình phần “lẽ phải”, phần “đúng đắn” nhất hay “chân lý” trong phạm vi đang có sự tranh cãi. Chúng ta tranh giành “chân lý” với mọi người quanh ta, từ thuở ấu thơ cho đến tuổi già, rồi một hôm nào đó bỗng băn khoăn nhìn lại và chợt nhận ra mình vẫn chưa thực sự hiểu được thế nào là “chân lý”!
Hiểu một cách đơn thuần về mặt ngôn ngữ thì chân có nghĩa là chân thật, không sai lầm, không giả dối, và lý có nghĩa là đúng đắn, thích hợp với sự suy luận, nhận hiểu theo tư duy của lý trí. Như vậy, chân lý là lý lẽ đúng thật, không sai lầm và hoàn toàn phù hợp với khả năng suy luận nhận hiểu của chúng ta.
Thế nhưng, “đúng thật” không phải là một chuẩn mực bất biến, và khả năng suy luận nhận hiểu của mỗi chúng ta cũng không hoàn toàn giống nhau. Ngay cả khi chỉ xét riêng khả năng suy luận nhận hiểu của chính bản thân mình, ta cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng điều đó luôn biến đổi theo thời gian, gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự tích lũy kinh nghiệm cũng như tri thức của chúng ta trong mỗi giai đoạn của cuộc sống. Và chính vì vậy mà hiện tượng “sáng đúng, chiều sai, đến mai lại đúng” nếu có xảy ra cũng không có gì là khó hiểu.
Một khi chúng ta vận dụng những tri thức, kinh nghiệm không thường hằng và thường xuyên biến đổi như thế làm công cụ, phương tiện để truy tìm một chân lý thường hằng bất biến thì tính chất bất khả thi của vấn đề dường như đã tự nó bộc lộ ngay từ khởi điểm. Mâu thuẫn ở đây là, chúng ta thường không muốn thừa nhận sự bất khả thi đó, vì cho rằng nó đồng nghĩa với việc ta nhận thua “đối phương”, những người đang đi theo một hướng khác với ta.
Ở hai đầu chiến tuyến, mỗi người lính đều tự nhủ rằng họ đang bảo vệ, đang theo đuổi “chân lý” của mình, và tin chắc rằng những kẻ đối nghịch với họ là sai lầm, là cần phải đánh bại… Sự thật bi đát này đã tồn tại gần như trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Trừ ra một số ít người tỉnh táo nhận biết, còn lại phần đông hầu như đều chấp nhận sự thật này mà không thấy được tính chất vô lý ngay từ mặt nhận thức của mình.
Đạo Phật bác bỏ hoàn toàn cuộc chạy đua tranh giành cái gọi là “chân lý” như trên bằng một ý niệm rất rõ ràng xuất phát từ trí tuệ quán chiếu sâu vào thực tánh hay bản chất của tất cả sự việc:
是非無實相
究竟總成空 。
Thị phi vô thật tướng,
Cứu cánh tổng thành không.
Đúng, sai vốn không tướng thật,
Xét cùng hết thảy đều không.
Tính chất đúng-sai của mọi lý lẽ, lập luận đều không phải là một giá trị tuyệt đối bất biến. Chúng được hình thành và phụ thuộc, biến đổi tùy theo bối cảnh nhân duyên tương quan. Những gì được xem là đúng của hôm nay chưa hẳn đã đúng trong tương lai, cũng như những gì từng được xem là đúng trong quá khứ thì hiện tại có thể không còn đúng nữa. Những gì được xem là đúng đắn ở địa phương này lại có thể là sai lầm ở một địa phương khác. Vì thế, nếu chúng ta cố chấp vào một giá trị đúng sai nào đó thì việc xảy ra mâu thuẫn xung đột với người khác sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Và những nhận thức khác biệt qua thời gian hay không gian thật ra đều xuất phát từ một cội nguồn duy nhất là tâm thức con người. Một tâm thức sáng suốt cho chúng ta những nhận thức đúng đắn về bản chất sự vật, nhưng một tâm thức mê muội, nhiều che chướng sẽ dẫn đến nhận thức mơ hồ hoặc sai lệch về bản chất sự vật, và do đó cũng khiến ta có những hành vi ứng xử sai lệch, gây tác hại cho chính bản thân cũng như mọi người quanh ta.
Tính chất quyết định của tâm thức được mô tả trong câu thơ thứ hai, cũng là vế cuối của bài thơ trên:
Chẳng còn, hay có; cũng “huề” một “tâm”.
Tồn tại hay không tồn tại – To be or not to be… Vấn đề lại quay về nguyên ủy của nó, chính là tâm thức. Trong bản thể sáng suốt tự nhiên của tâm thức ấy không có những cặp phạm trù tương đối như sinh-diệt, dơ-sạch, thêm-bớt, và do đó tất nhiên cũng không có cả những khái niệm như đúng-sai, phải-trái, hơn-thua… Như trong Tâm kinh Bát-nhã đã dạy: “…bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm…”
Tất cả đều hòa nhập và bình đẳng như nhau trong dòng tâm thức, vì xét cho cùng thì chúng đều có cùng một bản thể rốt ráo siêu việt mọi khái niệm tương đối.
Tuy nhiên, việc phủ nhận tính chất duy nhất và bất biến của bất kỳ chân lý nào trong phạm trù tư duy khái niệm của chúng ta hoàn toàn không có nghĩa là mọi khái niệm đều vô nghĩa và chúng ta có thể chấp nhận một kiểu nhận thức mơ hồ không xác định, hoặc nói nôm na là một kiểu quan niệm “ba phải”, thế nào cũng đúng, cũng được. Bởi cho dù khi “xét đến cùng” thì “tất cả đều rỗng không” trong ý nghĩa chúng không tự có một tự thể độc lập thường hằng, nhưng trong phạm trù của thực tại tương đối mà ta đang hiện hữu thì vẫn rất cần phải có một sự phân biệt thật sáng suốt, rõ ràng những tính chất khác biệt của mọi sự vật.
Như vậy, để có thể mang lại ý nghĩa tốt đẹp và tích cực cho cuộc sống của chính mình thì việc chọn lựa những phương cách tư duy, nói năng hoặc ứng xử sao cho thích hợp với hoàn cảnh, mang lại lợi lạc cho bản thân ta cũng như mọi người quanh ta vẫn là một yêu cầu khó khăn mà tất cả chúng ta đều phải cố gắng thực hiện tốt. Chỉ khi hiểu được điều này ta mới có thể sống tốt trong cuộc đời mà vẫn không bị lôi cuốn vào vòng xoáy “thị phi vô thật tướng” của những cuộc tranh chấp vô lý không đáng có.
Bởi vì mọi tư duy, lập luận hay nhận thức của chúng ta đều xuất phát từ “nguồn tâm”, nên tâm thức luôn quyết định tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, nói năng hay hành động. Một tâm thức trong sáng, hiền thiện sẽ lưu xuất những tư tưởng, lời nói và việc làm mang lại lợi ích cho bản thân và người khác, kèm theo đó là một cuộc sống an vui, hạnh phúc đến từ nội tâm. Ngược lại, một tâm thức si ám, xấu ác sẽ luôn thúc đẩy những tư tưởng, lời nói và việc làm gây tổn hại đến chính mình và người khác, kèm theo đó là một cuộc sống bất an, khổ đau luôn dằn vặt trong tâm hồn.
Như một nguồn nước chảy ra muôn dòng nước, nếu nguồn nước ấy bị nhiễm bẩn, mọi dòng nước cũng đều ô nhiễm không dùng được. Nếu nguồn nước được giữ cho trong sạch, thanh khiết, thì mọi dòng nước từ đó chảy ra đều sẽ là những dòng nước trong trẻo, mát lành. Cũng vậy, việc gìn giữ một tâm thức trong sáng, hiền thiện chính là cội nguồn chân thật để từ đó khởi sinh hết thảy mọi việc lành, và ngược lại thì tâm ô nhiễm sẽ là cội nguồn khởi sinh muôn việc xấu ác.
Xuất phát từ những nhận xét như trên, có thể thấy rằng mọi tư duy lập luận trong phạm vi khái niệm của chúng ta đều là tương đối, không hề tồn tại bất kỳ một giá trị tuyệt đối duy nhất bất biến nào. Vì thế, khi ta có sự tu dưỡng để vun bồi gìn giữ một cội nguồn bản tâm chân thật thì mọi lý lẽ cũng theo đó mà trở nên thuận hợp, đúng thật. Ngược lại, khi xuất phát từ một tâm thức xấu ác, nhiễm ô thì mọi lý lẽ dù có văn hoa uyên bác đến đâu chắc chắn cũng chỉ là những lập luận ngụy biện, được dùng để lấp liếm che đậy cho những ý đồ vốn khởi sinh từ tham lam, sân hận và si mê.
“Nguồn chân lẽ thật” được viết ra từ tâm nguyện chia sẻ một vài kinh nghiệm nhận thức nhỏ nhoi trong việc áp dụng những lời dạy của đức Phật vào việc tu tâm dưỡng tánh, và xem đó như là cội nguồn chân thật nhất để khởi sinh mọi thiện hạnh. Trong ý nghĩa đó, chúng ta sẽ không đi sâu vào sự biện giải đúng-sai, phải-trái… mà sẽ soi rọi vào tận cội nguồn khởi sinh của tất cả mọi quan điểm, nhận thức bằng ánh sáng của những lời Phật dạy để thấy được những gì bản thân ta cần phải nhận hiểu và thực hành. Từ đó, ta sẽ nhận ra một sự thật rất thường gặp là, ngay cả khi ta vận dụng những lời Phật dạy nhưng với một tâm thức không chân chánh, không trong sáng, thì chính những lời dạy đó sẽ rất dễ có nguy cơ bị nhận hiểu và vận dụng hoàn toàn sai lệch, trở thành lý lẽ ngụy biện cho những hành vi, tư tưởng và lời nói sai lầm của chúng ta.
“Nguồn chân lẽ thật” sẽ bàn đến một số những nhận thức cơ bản và quen thuộc nhất với mọi người Phật tử, nhưng cũng chính là những vấn đề thường dễ bị nhận hiểu sai lệch nhất. Hy vọng những chia sẻ chân thật này sẽ có thể mang lại được ít nhiều lợi ích cho những ai đang nỗ lực hoàn thiện bản thân mình.
Trân trọng!
Bộ Truyện Tranh Phật Giáo - Chớ Nên Ăn Sò
Câu chuyện kể có tranh minh họa thật ly kỳ hấp dẫn, tuy đơn giản nhưng nêu lên một đạo lý nhân quả thật quan trọng, đồng thời cũng hiển bày tâm từ bi của đạo Phật, xem tất cả sinh mạng chúng sinh đều bình đẳng và đáng quý như nhau. Vì thế, đâu chỉ là chớ nên ăn sò? Hãy đọc và suy ngẫm để thấy cái khuynh hướng “ỷ mạnh hiếp yếu”, bắt muôn loài phải chết để nuôi dưỡng mạng sống con người thật là bất nhân và vô lý. Từ đó chúng ta sẽ giảm bớt đi những hành vi làm tổn hại sự sống của muôn loài, để môi trường sống trên trái đất này có thể sớm thoát khỏi tình trạng nguy cấp như hiện nay.
"Lý luân hồi là một cơ cấu hệ thống trong Phật pháp, bào gồm có nhân quả, nghiệp báo; là căn bản đạo đức của người tu Phật. Không thông lý luân hồi, người Phật tử khó bề tu tiến được. Do đó, chúng ta cần phải tìm hiểu cho thấu đáo."
Sách gồm những nội dung chính như sau:
Đạo lý luân hồi
Luân hồi là sự thật và vạn vật đều bị luân hồi
Nguyên nhân giác ngộ
Nguyên nhân luân hồi
Thoát ly luân hồi
Tự tại trong sinh tử
Về Tính Cách Hư Không Của Giấc Mộng
“Mộng là do mê mà có, tam giới đi giống như một giấc mộng từ vô minh hiện khởi. Rõ suốt vô minh thì tỉnh mộng, mộng tỉnh thì tất cả là Phật pháp…Vô minh với Bồ Đề cùng chung một tự tánh. Biết tự tánh bổn tâm tức Bồ Đề, không biết tự tánh bổn tâm tức vô minh…Vì vô minh mà có sai biệt thánh phàm, từ hà sa cấp độ tâm thức cho đến mọi cảnh giới, vì vạn pháp duy tâm chúng sanh tạo tác.”
Hình Tượng Phụ Nữ Trong Phật Giáo
Tập sách sưu tầm và chuyển dịch những mẩu chuyện rải rác đó đây trong kinh điển nói về hình tượng người phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ kiệt xuất, đã trở thành những tấm gương tu tập.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi