Tiền Cổ Việt Nam là sách tái bản nguyên bản một số công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam trong thập kỷ 70, 80, 90 của thế kỷ XX.
Việc xuất bản những công trình nghiên cứu này nhằm mục đích lưu giữ những "di sản công trình nghiên cứu" của các học giả, đồng thời, cung cấp nguồn tư liệu tham khảo có giá trị và những tri thức bổ ích về lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Hoàng Việt Luật Lệ Toát Yếu Diễn Ca
Hoàng Việt Luật Lệ đã được diễn ca ra chữ nôm Hoàng Việt Luật Lệ Toát Yếu Diễn Ca nhằm mục đích tuyên truyền rộng rãi trong dân chúng,giúp cho dân chúng hiểu được luật lệ của quốc gia để thực thi và tuân theo. Đã có nhiều công trình nghiên cứu các văn bản cổ luật bằng chữ Hán, tuy nhiên nghiên cứu về văn bản luật pháp bằng chữ Nôm, cũng như diễn Nôm thì chưa thực sự được quan tâm.Đó là lý do chúng tôi chọn văn bản Nôm Hoàng Việt Luật Lệ Toát Yếu Diễn Ca để khảo cứu, phiên âm và chú giải.
Tác phẩm là nguồn tài liệu xác thực để khảo cứu các điều luật Việt Nam dưới triều Nguyễn, hiểu hơn về chính sách của vương triều Nguyễn đối với văn tự của dân tộc. Từ góc độ khảo cứu nhằm góp phần xác lập địa vị xã hội của chữ Nôm, đồng thời làm rõ một số vấn đề chính trị, luật pháp Thời Nguyễn, đặc biệt là vấn đề đưa tư tưởng, chính sách và pháp luật của triều đình Nho giáo vào xã hội Việt Nam truyền thống.
Kiến trúc đền tháp Champa là một loại hình kiến trúc tôn giáo đặc sắc, một di sản chứa nhiều giá trị để góp phần tìm hiểu nền văn hóa Champa trong lịch sử. Sự kỳ vĩ, vẻ đẹp thanh tú, hài hòa của hình khối, sự nuột nà, tinh tế trong điêu khắc trên mỗi công trình là sức hút hấp dẫn nhiều thế hệ học giả hơn một thế kỷ nay quan tâm nghiên cứu.
️Kế thừa những kết quả nghiên cứu trong các công trình đã công bố về kiến trúc Champa, hai nhà khảo cổ học Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu ra mắt bạn đọc cuốn sách Kiến trúc Champa trong lịch sử – Architecture of Champa in History.
Với công trình này, trải qua nhiều năm nghiên cứu, các tác giả đã dành công sức chỉnh lý nhiều nhận thức về kiến trúc đền tháp Champa trong các công trình đã công bố, đồng thời, bổ sung nhiều tư liệu mới, cập nhật các kết quả khai quật và nghiên cứu trong những năm gần đây. Chuyên khảo Kiến trúc Champa trong lịch sử cũng cung cấp nhiều nhận thức mới về các di sản kiến trúc đặc biệt này. Cuốn sách tập hợp, thống kê, khảo tả những kiến trúc Champa theo lịch đại và không gian các vùng đất từ Bắc xuống Nam một cách logic, chặt chẽ cộng với một văn phong nhuần nhị và mượt mà cuốn hút người đọc vào cuộc hành trình khám phá những bí ẩn kiến trúc và văn hóa Champa dọc chiều dài đất nước.
“Phủ biên tạp lục” là một công trình sử học – địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của nhà bác học Lê Quý Đôn, được ông biên soạn tập trung trong năm 1776, khi đang làm Hiệp trấn phủ, Tham tán quân cơ tại Huế; đã được Ngô Thì Sĩ viết lời bạt ngợi ca năm 1777.
Tài liệu cơ bản mà Lê Quý Đôn sử dụng để biên soạn Phủ biên tạp lục, ngoài các sách sử ký, địa chí, còn là các văn bản hành chính, thuế khóa, ruộng đất, binh chế, học chế, thơ văn dưới các đời chúa Nguyễn. Ông còn sử dụng tư liệu nhân chứng sống của các viên chức cũ và ông đã trực tiếp đi thực tế tìm hiểu địa thế, di tích, thu thập tư liệu mọi mặt.
Bản dịch bổ chính Phủ biên tạp lục của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh được MaiHaBooks tái bản lần này đã đóng góp vào việc hoàn thiện một danh sách làng xã, thôn ấp, phường giáp, trang trại thuộc các tổng, huyện, phủ của 2 xứ Thuận Hóa và Quảng Nam vào cuối thời chúa Nguyễn; cung cấp những hiểu biết xác đáng về các làng nghề, các địa phương tại Đàng Trong; đính chính những sai lầm về địa danh của các bản dịch trước đây. Điều đó góp phần phát huy hiệu quả sử dụng của Phủ biên tạp lục.
Đặc biệt, trong lần tái bản này, MaiHaBooks đã bổ sung nội dung bản chữ Hán Phủ biên tạp lục được lưu trữ tại Centre National de la recherche scientifique – Paris (Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học – Paris), ký hiệu lưu trữ là: 8453-6. Microfilme le 1175, có đóng dấu tên Henri Maspéro (có lẽ đây là bản mà Henri Maspéro cho tiến hành sao chép đầu thế kỷ XX khi nghiên cứu về miền Trung Việt Nam nên có đóng dấu của ông). Đây là bản Phủ biên tạp lục đầy đủ gồm 6 quyển, với đủ các chương mục, trong đó ở cuối quyển 1 có bản danh sách tên, số lượng phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang, trại ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
Với những nội dung đã điều chỉnh, bổ sung, MaiHaBooks hi vọng sẽ cung cấp cho bạn đọc những tài liệu hữu ích phục vụ việc tìm hiểu, nghiên cứu vùng đất Đàng Trong, đặc biệt là xứ Thuận Hoá và Quảng Nam vào cuối thời chúa Nguyễn.
Cuốn sách CHÍNH SÁCH NGỤ BINH Ư NÔNG CÁC THỜI LÝ - TRẦN - LÊ SƠ (THẾ KỶ XI - THẾ KỶ XV) không chỉ giúp người đọc hiểu rõ được cơ chế động viên và sử dụng nhân lực trong việc xây dựng tiềm lực quốc phòng kết hợp quân sự với kinh tế, mà còn làm sáng tỏ được tầm nhìn chiến lược về phương thức và nghệ thuật “Chiến tranh nhân dân” của cha ông ta.
Trong một cuộc chiến tranh, thế chiến lược của mỗi bên tham chiến mạnh hay yếu tùy thuộc ở nhiều nhân tố, trong đó có một nhân tố quan trọng là “nghệ thuật” huy động lực lượng vũ trang. Chính sách “Ngụ binh ư nông” nhằm thực hiện toàn dân làm lính, cả nước đánh giặc, đâu đâu cũng có lực lượng chiến đấu tại chỗ, vừa tinh nhuệ cơ động, vừa có khả năng tự cung ứng hậu cần. Đó chính là một cơ sở để tạo nên một binh thế mạnh, một thế chiến lược vững chắc của chiến tranh giữ nước.
Dưới thời Nguyễn, miền Trung chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu. Sự an toàn của các tỉnh miền Trung ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của kinh đô Huế và vương triều Nguyễn. Nhận thức được điều đó, nhà Nguyễn đã cho xây dựng ở miền Trung một hệ thống chiến lược quốc phòng tương đối vững chắc bao gồm hệ thống phòng thủ cảng biển và biển đảo; hệ thống các doanh điền và sơn phòng miền núi. Hệ thống phòng thủ chiến lược ấy không chỉ có tác dụng về bảo vệ an ninh quốc phòng, chống giặc ngoại xâm mà còn có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế và trên thực tế đã phát huy tác dụng trong lịch sử.
“Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn” là công trình nghiên cứu khoa học, nghiêm túc của Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học Đỗ Bang. Nội dung sách đề cập đến hai vấn đề chính là: hệ thống công trình phòng thủ vùng biển và hệ thống công trình phòng thủ vùng núi được xây dựng ở miền Trung Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1802 đến năm 1885. Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu vào các công trình xây dựng có chức năng phòng thủ nhằm chống giặc ngoại xâm hơn là chức năng trấn áp của hệ thống đồn lũy ở miền núi mà tiêu biểu nhất là Tỉnh Man trường lũy.
Bố cục sách bao gồm 3 chương:
Chương 1. Vị trí chiến lược của các tỉnh miền Trung dưới triều Nguyễn (1802 – 1885).
Chương 2. Hệ thống công trình phòng thủ vùng biển.
Chương 3. Hệ thống công trình phòng thủ vùng núi.
Việt Nam là một quốc gia sớm hình thành ở khu vực Đông Nam Á, en bờ Thái Bình Dương, có sự giao lưu kinh tế, văn hóa với khu vực và cả thế giới từ rất lâu đời.Dáng vóc văn minh ở đây biểu hiện một mặt là ở các làng xã cổ truyền và mặt khác là ở các đô thị cổ đã sớm có mặt trong lịch sử Việt Nam.
Công trình nhằm khảo tả và giới thiệu 13 đô thị cổ ra đời và phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam về các mặt lịch sử; kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong các đô thị cổ được lựa chọn này, có đô thị đã xuất hiện từ rất sớm, nay đã bị mai một chỉ còn tồn tại như một xóm nhỏ. Có đô thị đã bị mai một hoàn toàn chỉ còn để lại một vài dấu tích trên mặt hoặc trong lòng đất. Nhưng cũng có đô thị tồn tại và liên tục phát triển cho đến ngày nay và trở thành đô thị hiện đại.
Tìm Hiểu Xã Hội Việt Nam Thời Lý - Trần
Cuốn sách “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần” do MaiHaBooks liên kết cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản năm 2022, là một công trình chuyên khảo đặc sắc với 17 chuyên luận của tập thể các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học cùng một số nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa thuộc nhiều cơ quan nghiên cứu khác nhau.
Với cấu trúc ba phần: Phần thứ nhất nghiên cứu về hình thái kinh tế; Phần thứ hai nghiên cứu về thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp; Phần thứ ba nghiên cứu về văn hóa – tư tưởng, cuốn sách đã thâu tóm toàn diện các khía cạnh nghiên cứu về xã hội Đại Việt thời Lý – Trần
Đây là một công trình nghiên cứu tiêu biểu về lịch sử Việt Nam cổ trung đại, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của giới sử học Việt Nam trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX trên bình diện gắn các vấn đề lịch sử dân tộc với tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước nhằm phục vụ phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
MaiHaBooks trân trọng giới thiệu đến bạn đọc gần xa một công trình nghiên cứu giá trị nhằm góp phần “lấp những lỗ hổng logic trong nhận thức lịch sử về thời kỳ Lý – Trần”.
Lịch sử đã lùi xa nhưng các di sản của văn hóa Tây Nguyên vẫn còn đó. Không gian văn hóa Tây Nguyên vẫn vang ngân tiếng đàn đá, các dàn cồng chiêng vẫn hòa nhịp với âm hưởng của núi rừng, rượu cần trong các ché cổ vẫn thấm, vẫn ngấm say lòng người. Chiều sâu văn hóa của đất và người Tây Nguyên đã và đang là động lực phát triển, là nguồn động năng lớn cuốn hút những tấm lòng, trí tuệ gần xa đến với “Miền đất huyền ảo” Cao Nguyên.
Với cách tiếp cận liên ngành và khu vực học, cuốn sách “Huyền thoại về một vùng đất – Không gian văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Ê-đê” của GS.TS.NGƯT. Nguyễn Văn Kim tham góp một góc nhìn mới về văn hóa và con người Tây Nguyên. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đã dành nhiều trang viết đậm chất suy tư về sự huyền ảo, chất bi tráng, anh hùng, kỳ vĩ của Tây Nguyên được thể hiện và phản ánh trong sử thi Dăm Săn và các bộ sử thi của đồng bào Ê-đê.
Qua đó, một Tây Nguyên giàu tiềm năng văn hóa, kinh tế đang trỗi dậy và chắc chắn (dù còn nhiều khó khăn, thách thức) sẽ tiếp tục có những đóng góp xứng đáng với văn hóa Việt Nam, văn hóa châu Á và thế giới.
MaiHaBooks hân hạnh ra mắt quý độc giả công trình nghiên cứu mới “Huyền thoại về một vùng đất – Không gian văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Ê-đê” của GS. TS. NGƯT. Nguyễn Văn Kim.
Lê Quý kỷ sự (Ghi chép lại những câu chuyện cuối thời nhà Lê) là một tác phẩm sử học chép tay của Nguyễn Bảo, tức Nguyễn Thu, một sử thần thời Nguyễn, từng làm đến chức Biên tu Quốc sử quán triều Nguyễn soạn thảo.
Cuốn sách ghi lại một cách đầy đủ và cẩn trọng các sự kiện lịch sử trong suốt 12 năm đầy biến động của lịch sử nước nhà từ năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) đến năm Chiêu thống thứ 3 (1789). Nhờ vậy, Lê Quý kỷ sự góp thêm một tiếng nói cụ thể và chi tiết hơn để phản ánh cục diện rối bời của triều đình Lê – Trịnh, khẳng định thêm những ảnh hưởng to lớn của phong trào Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo, góp phần đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ bị phong kiến Trung Quốc đô hộ một lần nữa.
Bên cạnh đó, tác giả cũng linh động trong việc sử dụng lối hành văn của thể ký, kết hợp với việc trình bày các sự kiện theo lối “cương mục” (nêu tóm tắt ý chính của sự kiến trước rồi mới diễn giải chi tiết sau) giúp cho các sự kiện và nhân vật lịch sử được mô tả lại trở nên sinh động, gần gũi, chứ không khô khan như lối hành văn chép chính sử đương thời.
Dù còn có nhiều những ngăn trở do điều kiện giai cấp và sự hạn chế của tư tưởng trung quân đương thời nhưng những giá trị mà Lê Quý kỷ sự mang lại vẫn là những tư liệu đáng quý, góp phần làm rõ hơn về nhiều mặt chính trị, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
Sau gần 50 năm của bản dịch đầu tiên do Hoa Bằng thực hiện và được Viện Sử học xuất bản, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu đến độc giả ấn phẩm Lê Quý kỷ sự tái bản lần thứ nhất với nhiều bổ sung cho hoàn thiện hơn. Trong đó, quan trọng nhất là việc bổ sung đầy đủ 96 trang chữ Hán nguyên gốc theo bản chép tay của tác giả Nguyễn Thu.
Hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ góp thêm một chút tư liệu quý giá cho các nhà sử học, các nhà nghiên cứu và bạn đọc gần xa trên hành trình tìm hiểu và gìn giữ những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc.
Vào những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, khi Viện sử học biên soạn bộ sách “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử”, cũng là lúc nông thôn Việt Nam đang chuyển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đây là một cuộc chuyển biến vĩ đại và rất sâu sắc, làm biến đổi cơ cấu nông thôn cổ truyền Việt Nam – sản xuất nhỏ tự cấp tự túc, tản mạn – lên một cơ cấu kinh tế mới công nông nghiệp xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh.
Việc tìm hiểu lịch sử nông thôn Việt Nam, những đặc điểm của nó, là để có một nhận thức và đánh giá toàn diện người nông dân Việt Nam, những chỗ mạnh, chỗ yếu của họ trên con đường tiến lên sản xuất lớn hiện nay, nói chung là trên con đường xây dựng chế độ mới, kinh tế mới, văn hóa mới và con người mới như đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp nối cuốn sách tập I, MaiHaBooks tiếp tục giới thiệu tới bạn đọc cuốn Nông thôn Việt Nam trong lịch sử tập II cũng là tập cuối cùng của bộ sách này. Khác với tập I, tập trung chủ yếu vào kinh tế làng xã – chế độ sở hữu ruộng đất – công thương nghiệp và vai trò của làng xã trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước và giải phóng đất nước – thì tập II này sẽ tập trung chủ yếu vào vấn đề thiết chế chính trị và hệ tư tưởng làng xã.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả trọn vẹn bộ sách!
Lược Khảo Binh Chế Việt Nam Qua Các Thời Đại
Cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại được cụ Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng biên soạn từ trước năm 1945 từ việc khảo cứu các tư liệu cổ và từ lời kể của những võ quan triều Nguyễn. Trong cuốn sách là những tư liệu quý nghiên cứu về chế độ quân sự, vũ khí, sơ đồ chiến thuật (trận đồ, trận pháp), chế độ thi tuyển võ quan trong lịch sử quân sự Việt Nam. Bên cạnh đó, Tiên Đàm còn khảo cứu một số trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Đây là tài liệu thực sự có giá trị khi nghiên cứu nhiều mặt: lịch sử, văn hóa, pháp luật, giáo dục, thể dục thể
Cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại là cuốn sách có số phận đặc biệt. Sách vốn được Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng cho ấn hành lần đầu vào năm 1946. Nhưng chưa kịp phát hành thì Toàn quốc kháng chiến diễn ra, sách bị thiêu hủy trong cơn binh lửa. Tiên Đàm tản cư về Thái Bình cũng không còn bản thảo. Năm 1950, khi hồi cư về Hà Nội, Tiên Đàm may mắn tìm lại được một bản thảo do ông chủ hiệu sách Thăng Long lưu giữ. Sách được in lại nhà xuất bản Ngày Mai và lần đầu tiên đến tay bạn đọc (nhưng là lần in thứ hai).
Sau một thời gian dài, nhờ sự cố gắng sưu tầm tư liệu và biên tập, chúng tôi cho in lại lần thứ ba cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại. 70 năm sau, một số địa danh trong bản in năm 1950 đã thay đổi. Nhiều kết quả nghiên cứu mới về lịch sử binh chế Việt Nam được công bố. Tuy nhiên, để tôn trọng tính lịch sử của văn bản, chúng tôi vẫn giữ nguyên những kết quả nghiên cứu và đánh giá của ông. Chúng tôi chỉ biên tập lại những lỗi chính tả và chú thích những địa danh mới cho phù hợp với hiện tại.
Hương Ước Làng Công Giáo Vùng Đồng Bằng Sông Hồng - Lịch Sử Và Hiện Tại
Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo từ khi du nhập vào Việt Nam (thế kỷ XVII) đến nay luôn đồng hành cùng dân tộc và có ảnh hưởng đến đời sống xã hội của người dân trong quá trình truyền giáo. Công giáo với nền văn hóa ngoại lai, từng bước hội nhập vào trong nền văn hóa dân tộc tạo nên sự phong phú và đa dạng cho văn hóa Việt Nam. Sự hội nhập văn hóa đó thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau như văn học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, lễ hội,...
Với cách tiếp cận mới - Tôn giáo học kết hợp với Sử học, Văn bản học, tác giả đã trình bày về lịch sử hình thành, quá trình phát triển, đặc điểm cũng như những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong lịch sử và hiện tại qua 4 chương sách cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu chung về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Lịch sử hìnhthành, quá trình phát triển của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.
Chương 3: Những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.
Chương 4: Hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong đời sống văn hóa - xã hội hiện nay.
Cuốn sách này như là một trong những đóng góp nhỏ vào khối Di sản văn hóa Công giáo ở Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm khối tư liệu về làng xã Việt Nam và cũng là nguồn giá trị có ý nghĩa, có sức sống dẻo dai trong nền văn hóa của Việt Nam.
Chữ, Văn Quốc Ngữ - Thời Kì Bắc Thuộc (Tái Bản Theo Bản In Năm 1974)
Chúng ta đều thống nhất rằng chữ Quốc Ngữ là thứ chữ mà các giáo sĩ phương Tây cùng rất nhiều người Việt dùng chữ Latinh để ghi âm cách phát âm của người Việt. Ban đầu, chữ Quốc Ngữ chỉ nằm trong mục đích truyền giáo, nhưng sau này, chữ Quốc Ngữ được người Việt chấp nhận.
Từ đó, đóng góp và ảnh hưởng của chữ Quốc Ngữ với xã hội đã là thứ đồng hành không thể tách rời với lịch sử. Với điều đó, hiểu được tầm quan trọng, nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu, đề cập về lịch sử hình thành và truyền bá.
Năm 1974, Nhà xuất bản Nam Sơn phát hành cuốn sách Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc tại Sài Gòn với nguồn là công trình khảo cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Trung – một người nổi danh trong những sinh hoạt văn chương, báo chí, triết học mang tính học thuật tại miền Nam trước năm 1975. Mục đích của công trình này là xem lại quan điểm cho rằng những nhà văn, nhà báo thời kỳ đầy phủ nhận quan điểm nhờ chữ Quốc ngữ mà ta được văn minh và cho rằng đã “quan trọng hóa” vài trò chữ Quốc Ngữ.
Chúng tôi đã tái bản cuốn sách này như để độc giả đương thời hiểu thêm, cũng như có một tài liệu nghiên cứu về lịch sử chữ viết, lịch sử văn học và lịch sử đất nước nói chung ở một giai đoạn tối tăm, nô lệ.
Có phải thực trạng tình hình kinh tế thương nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX như là một bức tranh "u ám" mà hậu quả là do triều Nguyễn thực thi chính sách "ức thương" và "bế quan tỏa cảng" đưa lại không? Đó là câu hỏi được đặt ra những năm gần đây khi cần phải nhận thức lại vấn đề lịch sử triều Nguyễn để có đánh giá khách quan nhằm tổng kết kinh nghiệm lịch sử, để lịch sử tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước ở lĩnh vực phát triển kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, thực thi chính sách mở cửa cho phù hợp với đặc điểm dân tộc và tình hình thế giới hiện nay.
Trong những công trình biên khảo về triều Nguyễn không nhiều lắm thì việc nghiên cứu kinh tế thương nghiệp lại rất hiếm hoi. Phải chăng do đây không phải là trọng tâm khi nghiên cứu về một triều đại phong kiến, hoặc do nguồn tư liệu để lại quá ít ỏi làm cho các nhà nghiên cứu e ngại không tiếp cận với một sự thực khách quan mà vốn tư liệu cơ bản không dduer để thuyết phục? Dù rằng, thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã phát triển, kinh tế hàng hóa và nền thương mại của các cường quốc đã chi phối toàn cầu trong bối cảnh thế giới lúc đó thì Việt Nam như thế nào? Trách nhiệm của triều Nguyễn đến đâu trước họa xâm lăng và trì trệ về kinh tế? Vấn đề này cần được nghiên cứu nghiêm túc mới có những nhận định thỏa đáng, khách quan và có những khuyến nghị hợp lý đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Tín Ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam
Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam là một tín ngưỡng phổ biến cả nước từ Bắc chí Nam, hay nói cho đúng hơn từ Bắc chí Nam tận thuở xa xưa nào đó cho đến năm 1945 thì bị lãng quên. Những năm gần đây, hội làng lại trỗi dậy sôi nổi, náo động làng quê và theo đó, tín ngưỡng Thành hoàng gắn bó với ngôi đình cũng dần tìm lại vị trí của mình trong thế giới tinh thần của người Việt.
Vậy cội nguồn của tín ngưỡng Thành hoàng là từ đâu? Cơ sở kinh tế văn hóa, sức mạnh, sức hấp dẫn của nó là gì? Người Việt Nam truy cầu cái gì trong ông Thành hoàng? Thành hoàng là ai?… Biết bao câu hỏi được đặt ra. Và cuốn sách Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam của tác giả Nguyễn Duy Hinh sẽ góp phần giúp bạn đọc giải đáp những câu hỏi đó.
Dựa vào nguồn tư liệu điền dã phong phú của chính tác giả trong nhiều năm, cũng như thừa kế kết quả nghiên cứu của các học giả đi trước, bức tranh về một khái niệm vô hình – Tín ngưỡng Thành hoàng – lại trở nên hữu hình, sinh động hơn bao giờ hết với nhiều khía cạnh khác nhau được khai thác: sử học, văn hóa dân gian, ca nhạc, kiến trúc, nghệ thuật…
Đến với Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, độc giả sẽ thu được cái nhìn tổng quan nhưng cũng tương đối chi tiết về một loại hình tín ngưỡng được mệnh danh là hiện tượng “Tiền tôn giáo” trong văn hóa dân tộc. Qua đó góp phần tìm hiểu tâm hồn Việt Nam.
Quan Hệ Biên Giới Trên Đất Liền Giữa Trung Quốc Với Các Quốc Gia Láng Giềng
Trung Quốc là một quốc gia lớn trên thế giới, có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa, với nền văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất thế giới cổ trung đại. Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ tư trên thế giới chỉ sau Liên bang Nga, Canada và Mỹ. Diện tích hiện nay của Trung Quốc rộng khoảng 9.596.961 km2, có đường biên giới trên bộ dài nhất thế giới, với 22.117km, tiếp giáp với 14 quốc gia, gồm: Triều Tiên, Nga, Mông Cổ, Nepal, Buthan, Ấn Độ, Pakistan, Afganistan, Tadjikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, Việt Nam, Lào, Myanmar.
Đến tháng 9/2019, Trung Quốc đã có quan hệ ngoại giao với 180 nước (kể cả Palestine, quần đảo Cook và Niue). Chính sách ngoại giao của Trung Quốc là “5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” có từ thời Thủ tướng Chu Ân Lai. Tuy nhiên, trong hơn 70 năm qua (1949-2020), đường lối và chính sách ngoại giao của Trung Quốc không hoàn toàn tuân thủ theo nguyên tắc đó, nhất là trong quan hệ biên giới – lãnh thổ với các quốc gia láng giềng.
Vì vậy, nghiên cứu về Quan hệ biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc với các quốc gia láng giềng không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa khoa học, mà còn thông qua đó, góp phần làm rõ hơn về chính sách và hành động của chính quyền Bắc Kinh trong quan hệ biên giới – lãnh thổ với các nước láng giềng. Các nghiên cứu và công bố về vấn đề này sẽ là một đóng góp về mặt sử học trong cuộc đấu tranh vì hòa bình hữu nghị tại các khu vực biên giới trên bộ và trên biển giữa các quốc gia trên thế giới và khu vực nói chung, giữa Trung Quốc và Việt Nam nói riêng.
Để góp thêm chút sức lực nhỏ bé vào quá trình nghiên cứu và nâng cao hiểu biết về lĩnh vực quan hệ biên giới, lãnh thổ, chủ quyền dân tộc nói riêng, cũng như lĩnh vực sử học và xây dựng chính sách nói chung, nhất là trong mối quan hệ với Trung Quốc, một nước lớn ở khu vực và trên thế giới, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn sách Quan hệ biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc với các quốc gia láng giềng. Hy vọng cuốn sách sẽ là một trong những chuyên khảo đặc sắc để mỗi độc giả tìm tòi và nghiền ngẫm.
Sự tồn tại của các thái ấp – điền trang là một trong những đặc điểm nổi bật góp phần tạo nên cơ sở kinh tế - xã hội thời Trần, một thời kỳ hiển hách trong lịch sử dân tộc với võ công ba lần kháng chiến thắng lợi chống quân xâm lược Mông – Nguyên. Trong công trình “Thái ấp – điền trang thời Trần (thế kỷ XIII-XIV)”, qua việc điểm lại rõ nét về tình hình xã hội Đại Việt thời Trần trên các mặt kinh tế, chính trị, tổ chức chính quyền, quân đội... tác giả Nguyễn Thị Phương Chi đã đưa ra được một số nội dung mới mẻ trong nghiên cứu về lịch sử thời kỳ Cổ - Trung đại khi gắn các vấn đề nông nghiệp, ruộng đất và sự tồn tại của thái ấp – điền trang thời Trần với điều kiện tự nhiên và môi trường như đất đai, sông biển... Tác giả đã đưa ra nhiều nhận xét, đánh giá khá táo bạo về vai trò của các thái ấp – điền trang thời Trần, nêu ý nghĩa tích cực của các loại hình này trong việc kết hợp nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước thời Trần, nhất là khi cả dân tộc dồn sức chống xâm lược. Đồng thời, tác giả cũng nêu những hạn chế của chế độ thái ấp và điền trang đã gây nên tình trạng phân tán là điều mâu thuẫn với xu hướng tập quyền thời bấy giờ.
Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI - THE STORY OF CIVILIZATION
Phần XI: Thời đại Napoléon | The Age of Napoleon
“LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI - THE STORY OF CIVILIZATION” là “biên niên sử” đồ sộ về các nền văn minh trải dài trong suốt 2.500 năm lịch sử của nhân loại - một trong những bộ sách về lịch sử các nền văn minh thành công nhất và phổ biến nhất từ trước đến nay trên thế giới!
Để nói về tầm vóc của bộ sách này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu mà Nhà giáo Giản Tư Trung – Viện trưởng Viện Giáo Dục IRED đã viết riêng dành cho Bộ sách “sống mãi với thời gian” này: “Hầu như ai trong chúng ta cũng muốn trở thành con người văn minh, gia đình nào cũng muốn trở thành gia đình văn minh, tổ chức nào cũng muốn trở thành tổ chức văn minh, đất nước nào cũng muốn trở thành quốc gia văn minh. Nhưng thế nào là “văn minh”, và làm sao chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi từ các nền văn minh trên thế giới từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây một cách nhanh nhất và trọn vẹn nhất để làm giàu văn minh của chính mình, gia đình mình, tổ chức mình và dân tộc mình?"
Lời đáp nằm ở Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI - THE STORY OF CIVILIZATION của tác giả Will & Ariel Durant mà IRED Books đã kỳ công mua bản quyền, tổ chức biên dịch, chú giải và lần đầu tiên xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Bộ sách này đặc biệt không chỉ được viết cho giới nghiên cứu, học thuật hay giới thức giả, mà còn được viết cho độc giả đại chúng nhằm giúp đông đảo mọi người có thể tiếp cận với các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Để hoàn tất bộ The Story of Civilization bao gồm 11 Phần này (mỗi Phần gồm 4-5 Tập sách), tácgiả Will Durant & Ariel Durant đã dồn mọi tâm sức và làm việc miệt mài suốt gần nửa thế kỷ (từ 1929 đến 1975) để tạo nên một thể loại mới mà họ gọi là "lịch sử tích hợp" (integral history) thông qua ngòi bút "kể chuyện" bậc thầy, nhằm thể hiện một cách sinh động nhất những gì đã góp phầnvào việc hình thành, phát triển và cả sự suy tàn của các nền văn minh.
Chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối theo thứ tự từng Phần hay từng Tập hay từngChương của Bộ sách này, mà người đọc có thể dễ dàng chọn đọc để tìm hiểu bất kỳ giai đoạn lịchsử hay bất kỳ nền văn minh nào trong Bộ sách mà mình quan tâm, như thể đây một cuốn “từ điển văn minh” đầy những trải nghiệm mang lại cho chúng ta những hiểu biết cô đọng về các nền văn minh trải dài trong lịch sử nhân loại.
Chính vì thế, công trình truyền đời này đã dễ dàng đi vào lòng người đọc trên khắp thế giới vàmang trong mình tính kinh điển & bất hủ của nó, bởi lẽ hiếm có ai dành trọn cuộc đời mình nhưông bà Durant để làm ra bộ sách lịch sử văn minh đồ sộ như vậy. Xuyên suốt chiều dài 2.500 lịch sử,bộ sách mô tả văn minh của từng thời đại khác nhau, thể hiện một quan niệm tiến bộ và hài hòa về cách đọc và cách hiểu lịch sử, với đầy đủ các khía cạnh không chỉ bao gồm các cuộc chiến tranh,diễn biến chính trị, tiểu sử của những vĩ nhân hay những tội đồ, mà còn cả văn hoá, nghệ thuật,triết học, tôn giáo, và cả sự trỗi dậy của thông tin đại chúng.
Do đó, chúng ta có thể gọi bộ LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI này là một trong những bộ ghi chép về lịch sử văn minh thành công nhất và phổ biến đại chúng nhất từ trước đến nay. Phần 10 của bộ sách này đã được trao giải Pulitzer năm 1968 về thể loại phi hư cấu; sau đó tác giả bộ sách đã được Tổng thống Gerald Ford trao huân chương cao quý nhất của Chính phủ Mỹ dành cho cá nhân, Huân chương Tự do của Tổng thống năm 1977. Bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, xuất bản ở nhiều nước trên thế giới và là bộ sách không thể thiếu ở vô số các thư viện lớn nhỏ trên khắp toàn cầu. Và nay, Bộ sách đã được IRED Books hoàn tất việc mua bản quyền, tổ chức dịch thuật và chú giải trọn bộ bằng Tiếng Việt dành riêng cho độc giả Việt Nam để có thể cùng được trải nghiệm “biên niên sử” này của nhân loại. Có thể nói, việc dịch bộ sách này ra tiếng nước mình chính là mong muốn của nhiều quốc gia để góp phần giúp người dân nâng cao kiến thức và cảm thức về các nền văn minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó rút ra bài học quý giá cho chính mình và cho cả dân tộc mình.”
***
Trong đợt ra mắt lần đầu này, IRED Books sẽ giới thiệu Phần XI của bộ sách: Thời đại Napoléon mà chúng tôi chia làm bốn tập:
1. Đại Cách mạng Pháp
2. Triều đại Napoléon
3. Văn minh Anh quốc
4. Âu lục và Thời đại Napoléon
Theo dịch giả Bùi Xuân Linh, cách trình bày của các tác giả tiện lợi ở chỗ người đọc có thể đọc theo chiều dọc một mạch từ tập 1 đến tập 4 để tìm hiểu về châu Âu vào thời của Napoléon, hoặc tách riêng từng tập để đọc theo chiều ngang như cách mà chúng tôi giới thiệu ở trên, trong đó mỗi tập là một chủ đề được trình bày đầy đủ, có lớp lang. Tương tự, nhìn trong tổng thể 11 phần của bộ sử, người đọc cũng thấy mình có quyền lấy ra phần nào đáng quan tâm nhất, thích thú nhất, để đọc trước, như một tác phẩm hoàn chỉnh.
Nếu bạn đang cầm trên tay tập sách này, thì có thể nói rằng bạn đang cầm trên tay một “mảnh ghép bất biến” của lịch sử. Nếu sưu tầm đầy đủ 11 Phần của cả Bộ sách này, thì có thể nói rằng bạn đọc đang chứa cả một “kho tàng lịch sử văn minh nhân loại” trong tủ sách nhà mình. Bởi lẽ, tất cả mọi thứ đều có thể thay đổi, nhưng lịch sử thì không. Chính vì thế, dù không thể tránh khỏi những khuyết thiếu nhất định, nhưng bộ sách này vẫn sẽ trường tồn về mặt giá trị và sống mãi theo thời gian.
Quá Trình Di Cư Và Hoạt Động Chính Trị - Xã Hội Của Người Việt Ở Lào (1893-1945)
Cuốn sách là một chuyên luận lịch sử được tác giả dày công tìm tòi, tích lũy, tập hợp, giải mã những số liệu, sự kiện, biến cố lịch sử, từ những nguồn sử liệu trong nước và nước ngoài (đặc biệt các nguồn tài liệu lưu trữ của chính quyền thực dân Pháp, các hồi kí của các nhà hoạt động cách mạng người Việt ở Lào) để cung cấp cho bạn đọc một cách hệ thống, chi tiết về một khía cạnh quan trọng của lịch sử Lào cũng như những biểu hiện bước đầu của quan hệ đoàn kết Lào – Việt.
Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung không đề cập đến mọi mặt hoạt động của người Việt ở Lào trong giai đoạn 1893 – 1945, mà chỉ tập trung vào khía cạnh quá trình di cư và hoạt động chính trị - xã hội của họ. Đọc cuốn sách của tác giả, độc giả có thể lý giải được vì sao giai đoạn này người Việt lại sang Lào đông đảo như vậy? Các hình thức di cư của người Việt đến Lào như thế nào? Vì sao đa số người lao động Việt lại đi theo cách mạng, đoàn kết với nhân dân các bộ tộc Lào chống thực dân Pháp? Hình thức, qui mô đấu tranh chống thực dân Pháp của người Việt ở Lào. Đồng thời, bạn đọc còn hiểu rõ hơn về chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp ở Lào cũng như ở Đông Dương; thấy được dưới tác động từ chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa, người Việt di cư đến Lào đông đảo, làm nhiều nghề khác nhau và phân hóa thành hai bộ phận: Một bộ phận nhỏ đi theo, làm việc cho chính quyền thực dân Pháp và một bộ phận lớn đi theo cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đến hết thế kỷ XX, có thể nói, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội chịu sự chi phối của ba yếu tố nông thôn – nông nghiệp – nông dân. Chế độ ruộng đất là một vấn đề “hằng xuyên” trong lịch sử Việt Nam. Mọi biến động về chế độ ruộng đất đều ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và sự phát triển của xã hội. Vì vậy, đây là mảng đề tài luôn được các nhà Sử học, Kinh tế học Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Năm 1968, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho ra đờimột chuyên khảo, có thể coi là rất “nặng ký” tại thời điểmđó, với tiêu đề: Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, của các nhà Kinh tế học Trần Phương, Hoàng Ước và Lê Đức Bình. Côngtrình này đã khái quát lịch sử chế độ ruộng đất và cuộc cáchmạng ruộng đất Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc, thể hiện tương đối rõ nét một thời kỳ lịch sử đầy thử thách của xã hội nông nghiệp Việt Nam, với nhiều luận điểm sắc sảo. Đồng thời cung cấp ít, nhiều những nhận thức và kinh nghiệm về tổ chức, quản lý nông nghiệp, nông thôn ở thời kỳ đó.
Tất nhiên, ra đời cách ngày nay hơn nửa thế kỷ, những quan điểm và nhận thức của các tác giả về cách mạng ruộng đất nói riêng và chế độ ruộng đất Việt Nam nói chung có nhiều khác biệt so với hiện nay. Tuy nhiên, nhằm góp phần tái hiện một chặng đường nghiên cứu nông thôn, nông nghiệp và chế độ ruộng đất Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Kinh tế Việt Nam tái bản cuốn sách Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam. Chúng tôi cũng hy vọng, cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo cho đông đảo độc giả và những ai quan tâm nghiên cứu về chế độ ruộng đất Việt Nam nói riêng, nông thôn, nông nghiệp Việt Nam nói chung và về sự chuyển đổi của chế độ ruộng đất đã diễn ra tại Việt Nam trong thế kỷ trước.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Nguyễn Trãi Toàn Tập
Lịch sử Việt Nam có không ít anh hùng cứu quốc. Trong số những anh hùng cứu quốc của dân tộc phải kể đến Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ. Các nhân vật này, trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc, đã làm nên những sự nghiệp phi thường, làm rạng rỡ đất nước cho đến muôn đời.
Duy có Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu quốc không những đã để lại sự nghiệp còn được ghi trong chính sử, mà còn để lại khá nhiều tác phẩm nói lên tư tưởng của ông về các mặt triết học, quân sự, chính trị và nhiều thơ văn hết sức quý báu.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là tác phẩm thuộc thể loại luận thuyết triết học Phật giáo Thiền tông, phần chính văn do Hải Lượng Ngô Thì Nhậm trước tác vào năm 1796 lúc gần cuối đời. Đây là một tác phẩm khó đọc, khó nắm bắt, nếu người đọc không có cái nền, cái vốn về Phật học, về Thiền học vững vàng thì dù có đọc vài lần cũng khó lòng mà nhận thức được và thấu hiểu hết những tư tưởng uyên áo, vi diệu của Thiền học, Phật học Đại thừa mà các tác giả đã tiếp thu rồi chuyển tải trong tác phẩm này. Ngay cả nhan đề của tác phẩm cũng là một vấn đề cần tìm hiểu kỹ để lý giải cho tường minh.
Ngô Thì Nhậm là một danh sĩ tài hoa, một nhà nho lỗi lạc với kiến văn uyên bác; đồng thời, ông còn là một thiền gia am hiểu tư tưởng Thiền Phật. Gần cuối đời, sau khi vua Quang Trung tạ thế đột ngột, ông từ giã chốn quan trường, về Thăng Long, thành lập Bích Câu thiền viện cùng các đạo hữu tu thiền, viết sách xiển dương tinh thần nhập thế hộ quốc an dân của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà Phật Hoàng sáng lập từ cuối thế kỷ thứ XIII.
Nếu so sánh cuốn luận thuyết của Ngô Thì Nhậm với nhiều bộ luận thuyết của Ấn Độ, của Trung Quốc và của Việt Nam trước đó, thì mới thấy kết cấu của luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh có thể nói là rất lạ. Lạ là vì một tác phẩm gồm nhiều người tham gia trước tác, mỗi người thực hiện một nội dung, mà những nội dung này được xoay quanh cái trục tư tưởng cốt tuỷ của phần Chính văn; một cái lạ nữa là trọng tâm tác phẩm có nhiều phần, gồm: Chính văn, Thanh dẫn, Thanh chú và Thanh tiểu khấu. Chính văn có tên là Đại chân Viên giác thanh nội dung trình bày cốt tuỷ tư tưởng của 24 thanh do Hải Lượng viết, mà tư tưởng trong các thanh của chính văn đã chịu ảnh hưởng và in đậm dấu ấn của tư tưởng Kinh viên giác, một bộ kinh Đại thừa Phật giáo. Trong từng thanh, cuốn luận thuyết này được sắp xếp theo trình tự như sau: Thanh dẫn, Chính văn, Thanh chú, Thanh tiểu khấu.
Thanh dẫn là phần dẫn nhập, có nhiệm vụ giới thiệu chung nội dung từng thanh, do em ruột của Hải Lượng là Hải Huyền Ngô Thì Hoàng viết; Thanh chú là phần chú thích, giảng giải nội dung từng thanh, do hai người bạn của Hải Lượng là Hải Âu Vũ Trinh và Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở viết; Thanh tiểu khấu là phần tóm tắt nội dung từng thanh, do Hải Điền Nguyễn Đàm (cháu ruột của đại thi hào Nguyễn Du) viết.
Tôi quen biết và cùng làm việc với tác giả chuyên khảo này từ mười mấy năm trước, rồi từ năm 2008 tôi được lãnh đạo nhà trường và khoa giao nhiệm vụ hướng dẫn khoa học cho tác giả khi thực hiện luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Chính nhờ thế mà tôi đã chứng kiến được quá trình trưởng thành trong khoa học của tác giả.
Chuyên khảo này được tác giả biên tập lại từ luận án Tiến sĩ đã được Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước đánh giá cao lúc bảo vệ (tháng 8/2013) với nhiều đóng góp có giá trị về mặt học thuật.
Chuyên khảo được tác giả dàn dựng thành năm chương: Chương Một giới thiệu tổng quan những thành tựu nghiên cứu về văn học Phật giáo Việt Nam và về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh; Chương Hai trình bày bối cảnh xã hội, văn hóa, tư tưởng ở nước ta thế kỷ XVIII; trên cơ sở đó, giới thiệu các tác giả của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, cũng như tìm hiểu quá trình hình thành văn bản. Chương Ba và Chương Bốn là hai chương trọng tâm của công trình. Chương Ba tìm hiểu giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm; Chương Bốn tìm hiểu giá trị hình thức nghệ thuật của tác phẩm; Chương Năm chỉ ra vị trí và đóng góp của tác phẩm trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam, cụ thể là dấu ấn của Kinh viên giác trong tác phẩm; sự kế thừa và phát triển tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm đời Trần và vị trí của tác phẩm trong bộ phận văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Một kết cấu như thế là rất chặt chẽ và khoa học, khó có thể dàn dựng một kết cấu nào khác tốt hơn.
Cuối năm ngoái (năm 2017), tác giả đã cho xuất bản tập tiểu luận Nghiên cứu về Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, gồm 15 bài nghiên cứu về tác phẩm luận thuyết này đã công bố trên các tạp chí. Năm nay tác giả biên tập lại luận án đã bảo vệ thành công từ 5 năm trước để cho xuất bản. Có thể thấy đây là một chuyên khảo đầu tiên trong học giới nước nhà nghiên cứu đầy đủ, chuyên sâu và toàn diện về luận thuyết triết học Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm và các đạo hữu.
Xin chúc mừng thành quả nghiên cứu khoa học và xin có đôi lời giới thiệu công trình khoa học chuyên sâu này của Đại đức Tiến sĩ Thích Hạnh Tuệ.
Xin được trân trọng giới thiệu chuyên khảo này đến với quý vị độc giả gần xa.
– Chia sẻ của PGS.TS.GVCC. Nguyễn Công Lý –
Bộ Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải (Tập 1 Và Tập 2)
Chữ Nôm là thứ văn tự cổ truyền của dân tộc Việt Nam, được sáng tạo theo hình mẫu chữ Hán. Trải qua nhiều thế kỷ, chữ Nôm đã đồng hành cùng chữ Hán (từ thế kỷ XII) và sau đó cả với chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh (từ thế kỷ XVII) đến đầu thế kỷ XX. Qua chữ Nôm, chúng ta có thể giải đọc và tìm hiểu nhiều tác phẩm quý giá của tổ tiên để lại. Bộ TỰ ĐIỂN CHỮ NÔM DẪN GIẢI (Dictionary of Chu Nom with Quotations and Annotations) này được biên soạn trước hết giúp độc giả làm quen với chữ Nôm và từ đó có thể đi vào giải đọc các văn bản cần thiết. Trong quá khứ, chữ Nôm chưa từng được điển chế hóa thực sự, và tác giả bộ tự điển này cũng không đặt cho mình nhiệm vụ chuẩn hóa chữ Nôm, mà chủ yếu cố gắng phản ánh thực trạng đa dạng và phức tạp của nó, nhưng không xô bồ mà theo một cách tiếp cận có hệ thống, có phân loại lớp lang, có phân tích cấu trúc hình thể và cấu trúc chức năng của chữ, có dẫn giải nghĩa chữ qua những câu trích từ nguyên văn của các văn bản Nôm ở nhiều thời kỳ khác nhau.
Trong khi vẫn giữ nguyên tinh thần và cốt cách như bản in cũ (2014), ở lần tái bản này (2021), tác giả có sửa chữa, điều chỉnh, thêm bớt một vài chi tiết đối với các mục chữ vốn có, sử dụng thêm 7 văn bản Nôm, bổ sung nhiều mục chữ (hiện lên tới ngót 9500 chữ khác nhau, ứng với 18500 âm đọc, quy thành gần 4500 âm tiết khác nhau, chưa kể các âm và chữ trong phần Phụ lục), thêm nhiều câu dẫn mới phát hiện, chuyển một số nội mã (Vcode) sang mã quốc tế hóa (Unicode), v.v. Đây là công việc khá phức tạp mà tác giả đã thực hiện trong nhiều năm kể từ sau khi bộ sách lần đầu xuất bản đến nay.
Những Người Nga Đầu Tiên Đến Việt Nam
Tại nước Nga, sự thức tỉnh mối quan tâm đối với Đông Dương là vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XIX, khi vị trí của nước Pháp trên thực tế đã được củng cố tại khu vực này. Sang những năm đầu thế kỷ XX, ở Nga bắt đầu xuất hiện nhiều hơn những bài báo và sách riêng biệt chứa đựng thông tin về các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Các ấn phẩm này đã in khá định kỳ những trích đoạn từ nhật ký của các nhà du lịch, ghi chép của các sĩ quan hải quân và những bài báo của các nhà bác học về Việt Nam.
Trong số bút ký, mẩu tin, báo cáo ấy, nhà Việt Nam học người Nga Anatoli Socolov đã sưu tầm, tuyển chọn những bài đặc sắc nhất, tập hợp thành cuốn sách Những người Nga đầu tiên đến Việt Nam (Phóng sự và bút ký thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX). Ấn phẩm là một công trình độc đáo về nguồn cội mối quan hệ hữu nghị Nga – Việt.
Lược Sử Vạn Vật - A Short History Of Nearly Everything
Lược sử vạn vật là cuốn sách phổ biến khoa học trình bày một cách ngắn gọn lịch sử nghiên cứu khoa học tự nhiên, những thành tựu khoa học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên chính: vật lý, hóa học, sinh học, địa chất, thiên văn… với nhiều tên tuổi, giai thoại và sự thật.
Với cuốn sách này, người đọc sẽ biết được những giới hạn trong tri thức của con người về vũ trụ và cả về chính trái đất. Đây là cuốn sách khoa học phổ thông bán chạy nhất nước Anh năm 2005 với hơn 300.000 bản in. Nhà phê bình người Anh, Craig Brown thậm chí đã nhận xét rằng tác phẩm này xứng đáng bán được 500.000.000.000 cuốn (theo cách nói của chính Bryson, "bằng với số proton có trong một dấu chấm câu").
William McGuire "Bill" Bryson, tác giả cuốn sách Lược sử vạn vật - A Short History of Nearly Everything sinh năm 1951, là tác giả nổi tiếng hàng đầu trong thể loại non-fiction ở Bắc Mỹ, với vô số người hâm mộ trên khắp thế giới.
Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài
Sách được Alexandre de Rhodes viết cho độc giả châu Âu thượng bán thế kỷ XVII, cung cấp cho họ những tư liệu quý về tình hình chính trị, quân sự và xã hội, kinh tế, văn hóa, tôn giáo… và con người Việt Nam, cụ thể là Đàng Ngoài, lúc có sự tiếp xúc với người ngoại quốc, nhất là người Hà Lan và người Bồ, đặc biệt với người Bồ. Riêng về vấn đề tín ngưỡng, Alexandre de Rhodes có xu hướng phủ định tất cả những gì ngoài Công giáo, coi các tôn giáo khác là dị đoan, mê tín, lầm lỗi, v.v... Tuy nhiên, đó chỉ là quan điểm của một cá nhân, một quan điểm hay xu hướng cũ…
Cuốn sách được chia làm 2 phần với 82 chương:
Phần một hay quyển một gồm 31 chương, với sự phong phú đặc biệt của những đề tài: về danh hiệu, vị trí Đàng Ngoài, về vua Lê, về chúa Trịnh (lúc này là Trịnh Tráng), về lực lượng, về số thuyền chiến, về các nguồn lợi, về hành chính, về khoa thi…
Phần hai hay quyển hai gồm 51 chương, trong đó giáo sĩ kể lại tất cả hoạt động của ông và những người kế tiếp ông để đem Tin Mừng của Đức Kitô đến cho Đàng Ngoài. Là người truyền giáo, ông quan tâm đặc biệt tới các tôn giáo, các tín ngưỡng cũng như những mê tín dị đoan của người bản xứ. Vì thạo tiếng Việt mà giáo sĩ đã rất dễ dàng truyền bá đức tin. Một giáo đoàn đã bắt đầu thành lập. Đã có nhiều người tham gia vào công việc chung, như chép kinh, biên soạn sách giáo lý, soạn lịch Công giáo…
Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính
Để tìm hiểu, nghiên cứu về luật pháp, lễ nghi của một triều đại phong kiến, người ta thường nhắc đến những bộ Hội điển.
Từ thời Lê Trung Hưng cho đến khi thời Tây Sơn, các luật lệ của nước ta cũng được ghi chép dưới hình thức Hội điển trong pho sách; hiện nay còn di lưu có thể kể đến ba bộ sách: Quốc triều chiếu lệnh thiện chính, Quốc triều chiếu lệnh thiện chính tập và Quốc triều chiếu lệnh thiện chính tập tục biên (còn gọi là Quốc triều Hội điển và Tục Hội điển), Chỉnh Hoa chiếu thư.
Lê Triều chiếu lệnh thiện chính là ấn phẩm được Trường Luật Sài Gòn phiên dịch từ bản chép tay số A. 257 cuốn Quốc triều chiếu lệnh thiện chính của Trường Viễn Đông Bác Cổ - một tài liệu được coi như đầy đủ và đáng tin hơn cả về các điều lệ dưới triều Lê Trung Hưng. Cuốn sách ghi chép các chiếu lệnh ban hành trong thời gian 1619-1705, phân loại làm 7 quyển theo thẩm quyền của 6 bộ đương thời, trong mỗi quyển trình bày theo thứ tự niên hiệu của các triều vua:
Quyển Nhất: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lại
Quyển Nhì: Chiếu lệnh thuộc về bộ Hộ
Quyển Ba: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lễ (phần nhất)
Quyển Tư: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lễ (phần nhì)
Quyển Năm: Chiếu lệnh thuộc về bộ Binh
Quyển Sáu: Chiếu lệnh thuộc về bộ Hình
Quyển Bảy: Chiếu lệnh thuộc về bộ Công
Tuy nhiên, cũng chính vì tài liệu của Trường Viễn Đông Bác Cổ chỉ là một tài liệu chép tay, không sao tránh được các sự xuyễn mậu; cho nên cuốn sách đã được in kèm cả bản chữ Hán để tiện cho bạn đọc kê cứu, góp ý bổ sung cho những điểm khiếm khuyết.
Có thể nói, Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính là một pho sách mà tài liệu phong phú và phiên tạp như một quyển hội điển. Cuốn sách trình bày các chiếu lệnh, những giải pháp mà nhà cầm quyền đương thời đã áp dụng cho tất cả các hoạt động xã hội, kinh tế và chính trị của quốc gia, phản chiếu tình trạng của dân tộc dưới mọi khía cạnh trong một thời gian non một thế kỷ.
Binh Pháp Tinh Hoa
Luận giải 13 Thiên Binh Pháp Tôn Võ Tử - Đối chiếu các nguyên lý hành binh và các trận đánh lớn của lịch sử Đông - Tây hiện đại và cận đại.
Binh Pháp Tinh Hoa là cuốn sách có giá trị ứng dụng rộng rãi không chỉ trong quân đội, kinh doanh, thể thao mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống. Nó phù hợp cho những người đòi hỏi phải có kỹ năng hoạch định chiến lược, quản lý và lãnh đạo ở khắp nơi trên thế giới.
Thậm chí những chỉ dẫn khôn ngoan trong việc hẹn hò hay trong các mối quan hệ cũng được đúc kết trong cuốn sách binh pháp cổ của Tôn Tử.
Chính Sách Tôn Giáo Thời Tự Đức (1848-1883)
Chính sách tôn giáo dưới triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời Tự Đức là giai đoạn để lại những dấu ấn sâu sắc, có vị trí quan trọng trong chính sách đối với tôn giáo thời phong kiến ở Việt Nam. Có thể nói, triều Nguyễn thực sự làm chủ và hoàn thiện chế độ trong khoảng bốn triều vua đầu. Những đường hướng chính của chính sách quản lý xã hội nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng của triều Nguyễn đã cơ bản được hình thành và phát triển ở giai đoạn này.
Thời Tự Đức là tâm điểm đáng chú ý nhất khi nghiên cứu về chính sách tôn giáo triều Nguyễn, đây là giai đoạn hết sức phức tạp, triều đình phải đối phó với thực dân phương Tây cũng như tôn giáo do họ mang tới. Nghiên cứu chính sách tôn giáo dưới thời Tự Đức sẽ góp phần làm sáng tỏ câu hỏi dưới triều vua này đã giải quyết vấn đề tôn giáo như thế nào, đâu là những cố gắng cần ghi nhận và nguyên nhân nào dẫn đến những thất bại trong chính sách tôn giáo, những hệ quả xã hội và những bài học kinh nghiệm cần rút ra.
Những năm gần đây, hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trở nên đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Tuy nhiên, vấn đề tôn giáo ở nước ta vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, có lúc và có nơi trở thành điểm nóng. Thực tiễn sôi động đó đòi hỏi nhận thức về tôn giáo phải luôn đổi mới cho phù hợp với thời đại. Vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá lại những tác động và ảnh hưởng của chính sách tôn giáo thời Tự Đức dưới cái nhìn đổi mới để hiểu được một phần lịch sử của chính sách tôn giáo, những kinh nghiệm và bài học từ chính sách đó đối với cuộc sống hôm nay là một việc làm cần thiết.
Từ đó, cuốn “CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO THỜI TỰ ĐỨC (1848-1883)” ra đời như là một sự bổ sung cần thiết cho việc bổ sung, cải cách những chính sách tôn giáo để áp dụng với đương thời. Hiện cuốn sách đã có mặt tại cửa hàng, hãy nhanh tay liên hệ để sở hữu nhé.
Hệ Thống Cơ Quan Giám Sát Triều Nguyễn (1802-1885): Từ Thiết Chế, Định Chế Đến Thực Tiễn
Sau nhiều biến cố thăng trầm, đến năm 1802 Nguyễn Ánh giành được chiến thắng trước nhà Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn và mở đầu giai đoạn trị và kéo dài 143 năm của triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam. Trong thời gian trị vì, 4 vị vua đầu của triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã dày công xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền vững mạnh. Kết quả, so với các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, trong hơn 8 thập niên đầu, triều Nguyễn đã xây dựng được bộ máy nhà nước khá hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Bộ máy nhà nước của triều Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam trước đó và nhà Thanh (Trung Quốc) đương thời. Trải qua quá trình hoạt động, bộ máy nhà nước của triều Nguyễn thời kỳ độc lập tự chủ (1802-1885) đã có những đóng góp nhất định. Một trong những nguyên nhân góp phần giúp cho triều Nguyễn có được những đóng góp trên đó là triều đại này đã xây dựng, vận hành một hệ thống cơ quan giám sát khá hoàn chỉnh và hiệu quả.
Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, các cơ quan giám sát của triều Nguyễn như: Viện Đô sát, Lục khoa và Giám sát ngư sử của 16 đạo đã có những đóng góp lớn, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương cũng như ổn định xã hội và phần nào đảm bảo quyền, lợi ích của dân chúng.
Adolf Hitler - Chân Dung Một Trùm Phát Xít
Trong số các nhân vật trong lịch sử thế giới hiện đại, Adolf Hitler có lẽ là cái tên được nhiều người quan tâm nhất, không chỉ bởi những tội ác đáng ghê tởm mà tên trùm phát xít này gây ra cho thế giới, mà còn bởi những bí ẩn xung quanh cuộc đời của kẻ đã gieo rắc bao nỗi kinh hoàng cho người Do thái và làm thay đổi tiến trình của nhân loại.
Tính đến nay, có thể nói chưa có một tác phẩm nào thực sự toàn diện và hoàn chỉnh về con người và cuộc đời của Adolf Hitler. Song, tác phẩm của John W. Toland được đánh giá cao bởi các thông tin quý giá cùng những nghiên cứu thấu đáo mà sử gia lừng danh người Mỹ đã dày công sưu tập và phân tích. Toland đã dành nhiều năm tìm hiểu và tập hợp các tài liệu liên quan đến Adolf Hitler thông qua các cuộc phỏng vấn với các nhân chứng còn sống sót và thâm nhập một loạt các thư viện lưu trữ tối mật chưa từng được công bố.
Giống như các tác phẩm trước đó, Toland tập trung khai thác các nguồn thông tin từ các cá nhân có mối quan hệ mật thiết hoặc có vốn hiểu biết về Hitler cũng như đã từng chứng kiến con đường vươn tới quyền lực của nhân vật này. Toland phân tích cặn kẽ con đường tiến thân của Hitler từ thời niên thiếu, trưởng thành cho tới khi đứng trên đỉnh cao tội ác cùng những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới tâm lý và những tội ác mà ông ta gây ra cho nhân loại nói chung và dân tộc Do thái nói riêng.
Bằng những nỗ lực không mệt mỏi, John Toland đã tạo nên một trong những tác phẩm đồ sộ và chi tiết nhất mà nhân loại từng có về Adolf Hitler. Bằng lời văn uyên bác và lối phân tích sâu sắc, mạch lạc, Toland đã vén lên bức màn phủ kín xung quanh chân dung tên trùm độc tài của chủ nghĩa phát xít và giúp người đọc lần đầu tiên có được cơ hội chiêm ngưỡng một cách đầy đủ và rõ ràng nhất.
John W. Toland sinh ngày 29 tháng 6 năm 1912 tại La Crosse, Wisconsin. Ông là tác gia và sử gia nổi tiếng người Mỹ. Ông được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong đó nổi tiếng nhất là Tiểu sử Hitler và tác phẩm đoạt giải Pulitzer về Nhật Bản trong chiến tranh thế giới II, The Rising Sun.
Truyền Thống Khuyến Học Ở Nghệ An Qua Tư Liệu Hán Nôm
Khuyến học, khuyến tài luôn là động lực quan trọng trong chiến lược phát triển con người; đồng thời là nhu cầu thực tiễn trong đời sống xã hội từ xưa đến nay. Với chủ trương coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, ngày nay, khuyến học càng cần được chú trọng, đề cao, với nhiều biện pháp hữu hiệu. Việc tìm hiểu, nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm khuyến học trong quá khứ để chắt lọc, kế thừa và phát huy cho hiện tại là việc làm cần thiết.
Nghệ An là vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử, xuất hiện nhiều gia đình khoa bảng, dòng họ khoa bảng và làng khoa bảng. Tuy nhiên, trước nay người dân nơi đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp, đời sống vô cùng khó khăn, điều đó gây trở ngại lớn trong việc dạy và học của con em Nghệ An. Để khắc phục trở ngại đó, đồng thời khuyến khích con em học hành, đền đáp công ơn người thầy, người dân đã lập ra các hình thức khuyến khích học và dạy, được gọi chung là “khuyến học”.
Ngoài ra, cuốn sách còn phân tích những hạn chế về mặt tư tưởng của khuyến học xưa, liên hệ với thực tiễn, đưa ra những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của nguồn tư liệu Hán Nôm; góp phần đưa công tác khuyến học, khuyến tài tỉnh Nghệ An nói riêng, cả nước nói chung đạt kết quả.
Cuốn sách tập trung khai thác những thông tin khuyến học của tỉnh Nghệ An qua nguồn tư liệu Hán Nôm như: tục lệ, đăng khoa lục, gia phả, gia huấn, địa chí và bi ký. Nguồn tư liệu này gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học cho đến những năm đầu thế kỷ XX, khi khoa cử Nho học kết thúc và mở đầu giai đoạn Cải lương hương chính (1919 - 1921).
Cuốn sách chỉ ra rằng chính sách khuyến học ở Nghệ an xưa đã được vận dụng một cách linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong quá khứ, có nhiều điều đáng học hỏi để kiện toàn và thúc đẩy hệ thống giáo dục ngày nay ở Nghệ An nói riêng và Việt Nam nói chung.
Trong nửa sau của thế kỷ XIX, một hiện tượng mới đã xuất hiện trong nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam nói chung, của Bắc Kỳ nói riêng. Đó chính là hệ thống đồn điền do người Pháp đưa vào từ cuối thế kỷ XIX, tồn tại cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa ở đây. Công trình “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ từ năm 1884 – 1918” của PGS.TS.NCVCC Tạ Thị Thúy nghiên cứu về hiện tượng mới lạ này.
Với gần 500 trang in, tác giả đã sử dụng một khối lượng lớn tài liệu lịch sử khai thác được từ Lưu trữ Quốc gia Hà Nội và Lưu trữ Hải ngoại Pháp ở Aix-en Provence để trình bày rõ những chủ trương, chính sách của thực dân Pháp trong công việc phát triển đồn điền ở Bắc Kỳ tạo nên cơ sở pháp lý cho việc cướp đoạt ruộng đất của nông dân và thành lập các đồn điền. Từ đó, đã xuất hiện một hình thái chiếm hữu xa lạ với các hình thức sở hữu cổ truyền Việt Nam - một hình thức bóc lột tồi tệ hơn.
Để cung cấp thêm cho quý độc giả những khía cạnh khác về một xã hội Bắc Kỳ với nhiều những thay đổi và biến động trong suốt nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu cuốn sách “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ từ năm 1884 – 1918”.
Tác phẩm: Bộ sách “LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI”
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Tác giả: Will & Ariel Durant
Biên dịch: Bùi Xuân Linh & Đỗ Lan
Xuất bản: Viện IRED
Bộ sách
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
THE STORY OF CIVILIZATION
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Để nói về tầm vóc của bộ sách này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu mà Nhà giáo Giản Tư Trung - Viện trưởng Viện Giáo Dục IRED đã viết riêng dành cho Bộ sách “sống mãi với thời gian” này:
“Hầu như ai trong chúng ta cũng muốn trở thành con người văn minh, gia đình nào cũng muốn trở thành gia đình văn minh, tổ chức nào cũng muốn trở thành tổ chức văn minh, đất nước nào cũng muốn trở thành quốc gia văn minh.
Nhưng thế nào là “văn minh”, và làm sao chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi từ các nền văn minh trên thế giới từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây một cách nhanh nhất và trọn vẹn nhất để làm giàu văn minh của chính mình, gia đình mình, tổ chức mình và dân tộc mình?
Lời đáp nằm ở Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI / THE STORY OF CIVILIZATION của sử gia, triết gia, tác gia Will & Ariel Durant mà Viện IRED đã kỳ công mua bản quyền, tổ chức biên dịch, chú giải và lần đầu tiên xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Bộ sách này đặc biệt không chỉ được viết cho giới nghiên cứu, học thuật hay giới thức giả, mà còn được viết cho độc giả đại chúng nhằm giúp đông đảo mọi người có thể tiếp cận với các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Để hoàn tất bộ “The Story of Civilization” bao gồm 11 Phần này (mỗi phần trung bình gồm 3-5 Tập sách), tác giả Will Durant & Ariel Durant đã dồn mọi tâm sức và làm việc miệt mài suốt gần nửa thế kỷ (từ 1929 đến 1975) để tạo nên một thể loại mới mà họ gọi là "lịch sử tích hợp" (integral history) thông qua ngòi bút "kể chuyện" bậc thầy, nhằm thể hiện một cách sinh động nhất những gì đã góp phần
Chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối theo thứ tự từng Phần hay từng Tập hay từng Chương của Bộ sách này, mà người đọc có thể dễ dàng chọn đọc để tìm hiểu bất kỳ giai đoạn lịch sử hay bất kỳ nền văn minh nào trong Bộ sách mà mình quan tâm, như thể đây một cuốn “từ điển văn minh” để tra cứu với đầy những trải nghiệm mang lại cho chúng ta những hiểu biết cô đọng về các nền văn minh trải dài trong lịch sử nhân loại.
Chính vì thế, công trình truyền đời này đã dễ dàng đi vào lòng người đọc trên khắp thế giới và mang trong mình tính kinh điển & bất hủ của nó, bởi lẽ hiếm có ai dành trọn cuộc đời mình như ông bà Durant để làm ra bộ sách lịch sử văn minh đồ sộ như vậy. Xuyên suốt chiều dài nhiều ngàn năm lịch sử,bộ sách mô tả văn minh của từng thời đại khác nhau, thể hiện một quan niệm tiến bộ và hài hòa về cách đọc và cách hiểu lịch sử, với đầy đủ các khía cạnh không chỉ bao gồm các cuộc chiến tranh, diễn biến chính trị, tiểu sử của những vĩ nhân hay những tội đồ, mà còn cả văn hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và cả sự trỗi dậy của thông tin đại chúng.
Do đó, chúng ta có thể gọi bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” này là một trong những bộ ghi chép về lịch sử văn minh thành công nhất và phổ biến đại chúng nhất từ trước đến nay. Phần 10 của bộ sách này đã được trao giải Pulitzer năm 1968 về thể loại phi hư cấu; sau đó tác giả bộ sách
Bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, xuất bản ở nhiều nước trên thế giới và là bộ sách không thể thiếu ở vô số các thư viện lớn nhỏ trên khắp toàn cầu. Và nay, Bộ sách đã được Viện IRED hoàn tất việc mua bản quyền, tổ chức dịch thuật và chú giải trọn bộ bằng Tiếng Việt dành riêng cho độc giả Việt Nam để có thể cùng được trải nghiệm “biên niên sử” này của nhân loại. Có thể nói, việc dịch bộ sách này ra tiếng nước mình chính là mong muốn của nhiều quốc gia để góp phần giúp người dân nâng cao kiến thức và cảm thức về các nền văn minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó rút ra bài học quý giá cho chính mình và cho cả dân tộc mình.”
--------
Phần X của Bộ sách: “Rousseau và Cách mạng” được chia thành năm Tập sách:
1. Nước Pháp trước cơn đại hồng thủy
2. Nam Âu Công giáo
3. Bắc Âu Tin lành
4. Nước Anh thời Samuel Johnson
5. Hồi giáo, Đông Âu và nước Pháp phong kiến sụp đổ
Phần này giới thiệu lịch sử và những thành tựu của văn minh châu Âu từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1789, đồng thời đóng vai trò như một bản lề của lịch sử châu Âu, khép lại một thời đại trước khi mở ra một thời đại mới mà rồi sẽ định hình thế giới ngày nay. Tập sách cũng giới thiệu nhân vật trung tâm của thời đại bản lề: Jean Jacques Rousseau, một nhân vật kỳ lạ và có nhiều ảnh hưởng nhất trong số các nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII. Về mặt lịch sử, tác động của tư tưởng ông thật sâu rộng. Như Gustave Lanson, sử gia văn học trứ danh của nước Pháp đã nói: “Rousseau cùng lúc chiếm lĩnh lấy tất cả những khả năng của chúng ta: trong chính trị, trong đạo đức, trong thơ ca, hùng biện, tiểu thuyết, người ta thấy ông khắp nơi, ở lối vào của tất cả những con đường dẫn đến thời hiện đại.”
Nếu bạn đang cầm trên tay các tập sách của Phần X này, thì có thể nói rằng bạn đang cầm trên tay một “mảnh ghép bất biến” của lịch sử. Nếu sưu tầm đầy đủ 11 Phần của cả Bộ sách này, thì có thể nói rằng bạn đọc đang chứa cả một “kho tàng lịch sử văn minh nhân loại” trong tủ sách nhà mình. Bởi lẽ, tất cả mọi thứ đều có thể thay đổi, nhưng lịch sử thì không. Chính vì thế, dù không thể tránh khỏi những khuyết thiếu nhất định, nhưng bộ sách này vẫn sẽ trường tồn về mặt giá trị và sống mãi theo thời gian.
Tác phẩm: Bộ sách “LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI”
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Tác giả: Will & Ariel Durant
Biên dịch: Bùi Xuân Linh & Đỗ Lan
Xuất bản: Viện IRED
Bộ sách
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
THE STORY OF CIVILIZATION
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Để nói về tầm vóc của bộ sách này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu mà Nhà giáo Giản Tư Trung - Viện trưởng Viện Giáo Dục IRED đã viết riêng dành cho Bộ sách “sống mãi với thời gian” này:
“Hầu như ai trong chúng ta cũng muốn trở thành con người văn minh, gia đình nào cũng muốn trở thành gia đình văn minh, tổ chức nào cũng muốn trở thành tổ chức văn minh, đất nước nào cũng muốn trở thành quốc gia văn minh.
Nhưng thế nào là “văn minh”, và làm sao chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi từ các nền văn minh trên thế giới từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây một cách nhanh nhất và trọn vẹn nhất để làm giàu văn minh của chính mình, gia đình mình, tổ chức mình và dân tộc mình?
Lời đáp nằm ở Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI / THE STORY OF CIVILIZATION của sử gia, triết gia, tác gia Will & Ariel Durant mà Viện IRED đã kỳ công mua bản quyền, tổ chức biên dịch, chú giải và lần đầu tiên xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Bộ sách này đặc biệt không chỉ được viết cho giới nghiên cứu, học thuật hay giới thức giả, mà còn được viết cho độc giả đại chúng nhằm giúp đông đảo mọi người có thể tiếp cận với các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Để hoàn tất bộ “The Story of Civilization” bao gồm 11 Phần này (mỗi phần trung bình gồm 3-5 Tập sách), tác giả Will Durant & Ariel Durant đã dồn mọi tâm sức và làm việc miệt mài suốt gần nửa thế kỷ (từ 1929 đến 1975) để tạo nên một thể loại mới mà họ gọi là "lịch sử tích hợp" (integral history) thông qua ngòi bút "kể chuyện" bậc thầy, nhằm thể hiện một cách sinh động nhất những gì đã góp phần
Chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối theo thứ tự từng Phần hay từng Tập hay từng Chương của Bộ sách này, mà người đọc có thể dễ dàng chọn đọc để tìm hiểu bất kỳ giai đoạn lịch sử hay bất kỳ nền văn minh nào trong Bộ sách mà mình quan tâm, như thể đây một cuốn “từ điển văn minh” để tra cứu với đầy những trải nghiệm mang lại cho chúng ta những hiểu biết cô đọng về các nền văn minh trải dài trong lịch sử nhân loại.
Chính vì thế, công trình truyền đời này đã dễ dàng đi vào lòng người đọc trên khắp thế giới và mang trong mình tính kinh điển & bất hủ của nó, bởi lẽ hiếm có ai dành trọn cuộc đời mình như ông bà Durant để làm ra bộ sách lịch sử văn minh đồ sộ như vậy. Xuyên suốt chiều dài nhiều ngàn năm lịch sử,bộ sách mô tả văn minh của từng thời đại khác nhau, thể hiện một quan niệm tiến bộ và hài hòa về cách đọc và cách hiểu lịch sử, với đầy đủ các khía cạnh không chỉ bao gồm các cuộc chiến tranh, diễn biến chính trị, tiểu sử của những vĩ nhân hay những tội đồ, mà còn cả văn hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và cả sự trỗi dậy của thông tin đại chúng.
Do đó, chúng ta có thể gọi bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” này là một trong những bộ ghi chép về lịch sử văn minh thành công nhất và phổ biến đại chúng nhất từ trước đến nay. Phần 10 của bộ sách này đã được trao giải Pulitzer năm 1968 về thể loại phi hư cấu; sau đó tác giả bộ sách
Bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, xuất bản ở nhiều nước trên thế giới và là bộ sách không thể thiếu ở vô số các thư viện lớn nhỏ trên khắp toàn cầu. Và nay, Bộ sách đã được Viện IRED hoàn tất việc mua bản quyền, tổ chức dịch thuật và chú giải trọn bộ bằng Tiếng Việt dành riêng cho độc giả Việt Nam để có thể cùng được trải nghiệm “biên niên sử” này của nhân loại. Có thể nói, việc dịch bộ sách này ra tiếng nước mình chính là mong muốn của nhiều quốc gia để góp phần giúp người dân nâng cao kiến thức và cảm thức về các nền văn minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó rút ra bài học quý giá cho chính mình và cho cả dân tộc mình.”
--------
Phần X của Bộ sách: “Rousseau và Cách mạng” được chia thành năm Tập sách:
1. Nước Pháp trước cơn đại hồng thủy
2. Nam Âu Công giáo
3. Bắc Âu Tin lành
4. Nước Anh thời Samuel Johnson
5. Hồi giáo, Đông Âu và nước Pháp phong kiến sụp đổ
Phần này giới thiệu lịch sử và những thành tựu của văn minh châu Âu từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1789, đồng thời đóng vai trò như một bản lề của lịch sử châu Âu, khép lại một thời đại trước khi mở ra một thời đại mới mà rồi sẽ định hình thế giới ngày nay. Tập sách cũng giới thiệu nhân vật trung tâm của thời đại bản lề: Jean Jacques Rousseau, một nhân vật kỳ lạ và có nhiều ảnh hưởng nhất trong số các nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII. Về mặt lịch sử, tác động của tư tưởng ông thật sâu rộng. Như Gustave Lanson, sử gia văn học trứ danh của nước Pháp đã nói: “Rousseau cùng lúc chiếm lĩnh lấy tất cả những khả năng của chúng ta: trong chính trị, trong đạo đức, trong thơ ca, hùng biện, tiểu thuyết, người ta thấy ông khắp nơi, ở lối vào của tất cả những con đường dẫn đến thời hiện đại.”
Nếu bạn đang cầm trên tay các tập sách của Phần X này, thì có thể nói rằng bạn đang cầm trên tay một “mảnh ghép bất biến” của lịch sử. Nếu sưu tầm đầy đủ 11 Phần của cả Bộ sách này, thì có thể nói rằng bạn đọc đang chứa cả một “kho tàng lịch sử văn minh nhân loại” trong tủ sách nhà mình. Bởi lẽ, tất cả mọi thứ đều có thể thay đổi, nhưng lịch sử thì không. Chính vì thế, dù không thể tránh khỏi những khuyết thiếu nhất định, nhưng bộ sách này vẫn sẽ trường tồn về mặt giá trị và sống mãi theo thời gian.
Tác phẩm: Bộ sách “LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI”
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Tác giả: Will & Ariel Durant
Biên dịch: Bùi Xuân Linh & Đỗ Lan
Xuất bản: Viện IRED
Bộ sách
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
THE STORY OF CIVILIZATION
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Để nói về tầm vóc của bộ sách này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu mà Nhà giáo Giản Tư Trung - Viện trưởng Viện Giáo Dục IRED đã viết riêng dành cho Bộ sách “sống mãi với thời gian” này:
“Hầu như ai trong chúng ta cũng muốn trở thành con người văn minh, gia đình nào cũng muốn trở thành gia đình văn minh, tổ chức nào cũng muốn trở thành tổ chức văn minh, đất nước nào cũng muốn trở thành quốc gia văn minh.
Nhưng thế nào là “văn minh”, và làm sao chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi từ các nền văn minh trên thế giới từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây một cách nhanh nhất và trọn vẹn nhất để làm giàu văn minh của chính mình, gia đình mình, tổ chức mình và dân tộc mình?
Lời đáp nằm ở Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI / THE STORY OF CIVILIZATION của sử gia, triết gia, tác gia Will & Ariel Durant mà Viện IRED đã kỳ công mua bản quyền, tổ chức biên dịch, chú giải và lần đầu tiên xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Bộ sách này đặc biệt không chỉ được viết cho giới nghiên cứu, học thuật hay giới thức giả, mà còn được viết cho độc giả đại chúng nhằm giúp đông đảo mọi người có thể tiếp cận với các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Để hoàn tất bộ “The Story of Civilization” bao gồm 11 Phần này (mỗi phần trung bình gồm 3-5 Tập sách), tác giả Will Durant & Ariel Durant đã dồn mọi tâm sức và làm việc miệt mài suốt gần nửa thế kỷ (từ 1929 đến 1975) để tạo nên một thể loại mới mà họ gọi là "lịch sử tích hợp" (integral history) thông qua ngòi bút "kể chuyện" bậc thầy, nhằm thể hiện một cách sinh động nhất những gì đã góp phần
Chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối theo thứ tự từng Phần hay từng Tập hay từng Chương của Bộ sách này, mà người đọc có thể dễ dàng chọn đọc để tìm hiểu bất kỳ giai đoạn lịch sử hay bất kỳ nền văn minh nào trong Bộ sách mà mình quan tâm, như thể đây một cuốn “từ điển văn minh” để tra cứu với đầy những trải nghiệm mang lại cho chúng ta những hiểu biết cô đọng về các nền văn minh trải dài trong lịch sử nhân loại.
Chính vì thế, công trình truyền đời này đã dễ dàng đi vào lòng người đọc trên khắp thế giới và mang trong mình tính kinh điển & bất hủ của nó, bởi lẽ hiếm có ai dành trọn cuộc đời mình như ông bà Durant để làm ra bộ sách lịch sử văn minh đồ sộ như vậy. Xuyên suốt chiều dài nhiều ngàn năm lịch sử,bộ sách mô tả văn minh của từng thời đại khác nhau, thể hiện một quan niệm tiến bộ và hài hòa về cách đọc và cách hiểu lịch sử, với đầy đủ các khía cạnh không chỉ bao gồm các cuộc chiến tranh, diễn biến chính trị, tiểu sử của những vĩ nhân hay những tội đồ, mà còn cả văn hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và cả sự trỗi dậy của thông tin đại chúng.
Do đó, chúng ta có thể gọi bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” này là một trong những bộ ghi chép về lịch sử văn minh thành công nhất và phổ biến đại chúng nhất từ trước đến nay. Phần 10 của bộ sách này đã được trao giải Pulitzer năm 1968 về thể loại phi hư cấu; sau đó tác giả bộ sách
Bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, xuất bản ở nhiều nước trên thế giới và là bộ sách không thể thiếu ở vô số các thư viện lớn nhỏ trên khắp toàn cầu. Và nay, Bộ sách đã được Viện IRED hoàn tất việc mua bản quyền, tổ chức dịch thuật và chú giải trọn bộ bằng Tiếng Việt dành riêng cho độc giả Việt Nam để có thể cùng được trải nghiệm “biên niên sử” này của nhân loại. Có thể nói, việc dịch bộ sách này ra tiếng nước mình chính là mong muốn của nhiều quốc gia để góp phần giúp người dân nâng cao kiến thức và cảm thức về các nền văn minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó rút ra bài học quý giá cho chính mình và cho cả dân tộc mình.”
--------
Phần X của Bộ sách: “Rousseau và Cách mạng” được chia thành năm Tập sách:
1. Nước Pháp trước cơn đại hồng thủy
2. Nam Âu Công giáo
3. Bắc Âu Tin lành
4. Nước Anh thời Samuel Johnson
5. Hồi giáo, Đông Âu và nước Pháp phong kiến sụp đổ
Phần này giới thiệu lịch sử và những thành tựu của văn minh châu Âu từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1789, đồng thời đóng vai trò như một bản lề của lịch sử châu Âu, khép lại một thời đại trước khi mở ra một thời đại mới mà rồi sẽ định hình thế giới ngày nay. Tập sách cũng giới thiệu nhân vật trung tâm của thời đại bản lề: Jean Jacques Rousseau, một nhân vật kỳ lạ và có nhiều ảnh hưởng nhất trong số các nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII. Về mặt lịch sử, tác động của tư tưởng ông thật sâu rộng. Như Gustave Lanson, sử gia văn học trứ danh của nước Pháp đã nói: “Rousseau cùng lúc chiếm lĩnh lấy tất cả những khả năng của chúng ta: trong chính trị, trong đạo đức, trong thơ ca, hùng biện, tiểu thuyết, người ta thấy ông khắp nơi, ở lối vào của tất cả những con đường dẫn đến thời hiện đại.”
Nếu bạn đang cầm trên tay các tập sách của Phần X này, thì có thể nói rằng bạn đang cầm trên tay một “mảnh ghép bất biến” của lịch sử. Nếu sưu tầm đầy đủ 11 Phần của cả Bộ sách này, thì có thể nói rằng bạn đọc đang chứa cả một “kho tàng lịch sử văn minh nhân loại” trong tủ sách nhà mình. Bởi lẽ, tất cả mọi thứ đều có thể thay đổi, nhưng lịch sử thì không. Chính vì thế, dù không thể tránh khỏi những khuyết thiếu nhất định, nhưng bộ sách này vẫn sẽ trường tồn về mặt giá trị và sống mãi theo thời gian.
Tác phẩm: Bộ sách “LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI”
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Tác giả: Will & Ariel Durant
Biên dịch: Bùi Xuân Linh & Đỗ Lan
Xuất bản: Viện IRED
Bộ sách
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
THE STORY OF CIVILIZATION
Phần X: Rousseau và Cách mạng | Rousseau and Revolution
Để nói về tầm vóc của bộ sách này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu mà Nhà giáo Giản Tư Trung - Viện trưởng Viện Giáo Dục IRED đã viết riêng dành cho Bộ sách “sống mãi với thời gian” này:
“Hầu như ai trong chúng ta cũng muốn trở thành con người văn minh, gia đình nào cũng muốn trở thành gia đình văn minh, tổ chức nào cũng muốn trở thành tổ chức văn minh, đất nước nào cũng muốn trở thành quốc gia văn minh.
Nhưng thế nào là “văn minh”, và làm sao chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi từ các nền văn minh trên thế giới từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây một cách nhanh nhất và trọn vẹn nhất để làm giàu văn minh của chính mình, gia đình mình, tổ chức mình và dân tộc mình?
Lời đáp nằm ở Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI / THE STORY OF CIVILIZATION của sử gia, triết gia, tác gia Will & Ariel Durant mà Viện IRED đã kỳ công mua bản quyền, tổ chức biên dịch, chú giải và lần đầu tiên xuất bản trọn bộ tại Việt Nam. Bộ sách này đặc biệt không chỉ được viết cho giới nghiên cứu, học thuật hay giới thức giả, mà còn được viết cho độc giả đại chúng nhằm giúp đông đảo mọi người có thể tiếp cận với các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Để hoàn tất bộ “The Story of Civilization” bao gồm 11 Phần này (mỗi phần trung bình gồm 3-5 Tập sách), tác giả Will Durant & Ariel Durant đã dồn mọi tâm sức và làm việc miệt mài suốt gần nửa thế kỷ (từ 1929 đến 1975) để tạo nên một thể loại mới mà họ gọi là "lịch sử tích hợp" (integral history) thông qua ngòi bút "kể chuyện" bậc thầy, nhằm thể hiện một cách sinh động nhất những gì đã góp phần
Chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối theo thứ tự từng Phần hay từng Tập hay từng Chương của Bộ sách này, mà người đọc có thể dễ dàng chọn đọc để tìm hiểu bất kỳ giai đoạn lịch sử hay bất kỳ nền văn minh nào trong Bộ sách mà mình quan tâm, như thể đây một cuốn “từ điển văn minh” để tra cứu với đầy những trải nghiệm mang lại cho chúng ta những hiểu biết cô đọng về các nền văn minh trải dài trong lịch sử nhân loại.
Chính vì thế, công trình truyền đời này đã dễ dàng đi vào lòng người đọc trên khắp thế giới và mang trong mình tính kinh điển & bất hủ của nó, bởi lẽ hiếm có ai dành trọn cuộc đời mình như ông bà Durant để làm ra bộ sách lịch sử văn minh đồ sộ như vậy. Xuyên suốt chiều dài nhiều ngàn năm lịch sử,bộ sách mô tả văn minh của từng thời đại khác nhau, thể hiện một quan niệm tiến bộ và hài hòa về cách đọc và cách hiểu lịch sử, với đầy đủ các khía cạnh không chỉ bao gồm các cuộc chiến tranh, diễn biến chính trị, tiểu sử của những vĩ nhân hay những tội đồ, mà còn cả văn hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và cả sự trỗi dậy của thông tin đại chúng.
Do đó, chúng ta có thể gọi bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” này là một trong những bộ ghi chép về lịch sử văn minh thành công nhất và phổ biến đại chúng nhất từ trước đến nay. Phần 10 của bộ sách này đã được trao giải Pulitzer năm 1968 về thể loại phi hư cấu; sau đó tác giả bộ sách
Bộ “Lịch sử Văn minh Thế giới” đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, xuất bản ở nhiều nước trên thế giới và là bộ sách không thể thiếu ở vô số các thư viện lớn nhỏ trên khắp toàn cầu. Và nay, Bộ sách đã được Viện IRED hoàn tất việc mua bản quyền, tổ chức dịch thuật và chú giải trọn bộ bằng Tiếng Việt dành riêng cho độc giả Việt Nam để có thể cùng được trải nghiệm “biên niên sử” này của nhân loại. Có thể nói, việc dịch bộ sách này ra tiếng nước mình chính là mong muốn của nhiều quốc gia để góp phần giúp người dân nâng cao kiến thức và cảm thức về các nền văn minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó rút ra bài học quý giá cho chính mình và cho cả dân tộc mình.”
--------
Phần X của Bộ sách: “Rousseau và Cách mạng” được chia thành năm Tập sách:
1. Nước Pháp trước cơn đại hồng thủy
2. Nam Âu Công giáo
3. Bắc Âu Tin lành
4. Nước Anh thời Samuel Johnson
5. Hồi giáo, Đông Âu và nước Pháp phong kiến sụp đổ
Phần này giới thiệu lịch sử và những thành tựu của văn minh châu Âu từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1789, đồng thời đóng vai trò như một bản lề của lịch sử châu Âu, khép lại một thời đại trước khi mở ra một thời đại mới mà rồi sẽ định hình thế giới ngày nay. Tập sách cũng giới thiệu nhân vật trung tâm của thời đại bản lề: Jean Jacques Rousseau, một nhân vật kỳ lạ và có nhiều ảnh hưởng nhất trong số các nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII. Về mặt lịch sử, tác động của tư tưởng ông thật sâu rộng. Như Gustave Lanson, sử gia văn học trứ danh của nước Pháp đã nói: “Rousseau cùng lúc chiếm lĩnh lấy tất cả những khả năng của chúng ta: trong chính trị, trong đạo đức, trong thơ ca, hùng biện, tiểu thuyết, người ta thấy ông khắp nơi, ở lối vào của tất cả những con đường dẫn đến thời hiện đại.”
Nếu bạn đang cầm trên tay các tập sách của Phần X này, thì có thể nói rằng bạn đang cầm trên tay một “mảnh ghép bất biến” của lịch sử. Nếu sưu tầm đầy đủ 11 Phần của cả Bộ sách này, thì có thể nói rằng bạn đọc đang chứa cả một “kho tàng lịch sử văn minh nhân loại” trong tủ sách nhà mình. Bởi lẽ, tất cả mọi thứ đều có thể thay đổi, nhưng lịch sử thì không. Chính vì thế, dù không thể tránh khỏi những khuyết thiếu nhất định, nhưng bộ sách này vẫn sẽ trường tồn về mặt giá trị và sống mãi theo thời gian.
Chúng ta sống ở thời đại của những thay đổi to lớn bao gồm tốc độ toàn cầu hóa ngày càng nhanh, số lượng thông tin tăng gấp bội, sự chi phối của khoa học và công nghệ đang lớn dần, các nền văn minh lại xung đột với nhau. Những thay đổi này đòi hỏi phải có cách nhận thức và cách nghĩ mới trong nhà trường, trong kinh doanh, trong tổ chức, cũng như trong nghề nghiệp chuyên môn. Trong 5 tư duy dành cho tương lai, nhà Giáo dục học, nhà Tâm lý học nổi tiếng thế giới Howard Gardner đã xác định rõ những khả năng nhận thức sẽ có vị trí hàng đầu trong những năm sắp tới.
Tư duy nguyên tắc – thông thạo một lĩnh vực chính (bao gồm khoa học, toán học và lịch sử) và ít nhất một công việc chuyên môn.
Tư duy tổng hợp – khả năng hợp nhất các ý kiến từ những chuyên môn và những lĩnh vực khác nhau thành một tổng thể liền lạc và liên kết sự hợp nhất đó với những tổng thể khác.
Tư duy sáng tạo – khả năng khám phá và làm rõ những vấn đề, những câu hỏi và những hiện tượng mới.
Tư duy tôn trọng – Nhận biết và thấu hiểu sự khác biệt giữa con người với nhau.
Tư duy đạo đức – Hoàn thành trách nhiệm là một người lao động và một người công dân.
Nổi tiếng khắp thế giới về lý thuyết Đa thông minh (Multiple Intelligences), Howard Gardner nâng những suy nghĩ đó lên một cấp nữa trong sách này. Chính xác và lôi cuốn, 5 tư duy cho tương lai là cuốn sách mang lại kiến thức dùng suốt đời cho bất kỳ độc giả nào và cung cấp những hiểu biết quý giá cho những ai chịu trách nhiệm huấn luyện và phát triển lãnh đạo cá nhân và tổ chức – hôm nay và mai sau.
Bertrand Russell (1872–1970) là một trong những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 20. Được xem là một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất của thế kỷ này, Betrand Russell nổi tiếng về những bài viết đầy khiêu khích của mình.
Được xuất bản lần đầu vào năm 1910, Những tiểu luận triết học của Betrand Russell đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong cuộc cách mạng tư tưởng của ông. Quyển sách là tập hợp 7 tiểu luận triết học được trình bày một cách rõ ràng về các vấn đề đạo đức và chân lý. Các tiểu luận này đều là những bài in lại, có chút ít chỉnh sửa, đã được đăng trên nhiều tạp chí.
Qua 7 tiểu luận trong tác phẩm, Betrand Russell đã tiếp cận vấn đề một cách hợp lý từ đạo đức đến chủ nghĩa thực dụng với phong thái tự kiềm chế, phát biểu sáng sủa và lập luận chặt chẽ.
Theo tác giả, tất cả các tiểu luận, có lẽ ngoại trừ tiểu luận về “Lý thuyết nhất nguyên về chân lý” được trình bày sao cho thu hút được những độc giả quan tâm đến những câu hỏi triết học nhưng chưa được thụ huấn chuyên nghiệp về triết học. Bởi vì, với ông, “Khoa triết học, từ những thời kỳ xa xưa nhất, đã tuyên bố nhiều điều lớn lao, nhưng đạt được thành quả ít ỏi, hơn bất kỳ ngành học nào khác… Nay đã đến thời có thể đặt dấu chấm hết cho tình trạng chưa lấy gì làm mãn lòng đó”.
Đây là một tác phẩm giá trị không chỉ ở những luận điểm Russell đưa ra mà còn vì:
“Hy hữu lắm mới có một nhân vật thạc học cao viễn chịu hạ cố bước xuống đấu trường triết học và luận chiến minh bạch nhường ấy, và nhất là với lòng cảm thông nhường ấy, đối với những lập trường ông phê bình." – The Oxford Magazine”.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi