Lịch Sử Sân Khấu Kịch Và Điện Ảnh Việt Nam
Quyển sách Lịch sử sân khấu kịch và điện ảnh Việt Nam ra đời với mục đích giới thiệu sự hình thành và phát triển của sân khấu kịch nghệ và điện ảnh vào đầu thế kỷ 20 cho đến thập niên 2010 chủ yếu ở Nam Bộ. Mặc dù chỉ giới hạn trong khoảng thời gian và không gian này, nhưng chúng tôi cũng đề cập đến không gian rộng hơn trên toàn Việt Nam khi có sự tương tác và ảnh hưởng của các hình thái nghệ thuật trên ở các miền trước khi đất nước thống nhất. Phần tân nhạc, một lãnh vực âm nhạc có sự liên hệ nhiều đến nghệ thuật kịch và điện ảnh, chúng tôi sẽ viết trong một cuốn sách riêng về sự hình thành và phát triển tân nhạc Việt Nam vì lãnh vực này rất lớn và đa dạng
Già Ham Sách - Mơ Giấc Mơ Chữ Nghĩa
Mỗi nhà nghiên cứu trong Già ham sách dẫu có khác nhau về khuynh hướng và phương pháp nghiên cứu, nhưng đều có chung một tấm lòng với mảnh đất Nam Bộ. Có những nhà trí thức trước 1975 như GS. Nguyễn Khắc Dương, GS. Nguyễn Văn Trung, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê; cũng có những nhà khoa học trưởng thành sau 1975 như: PGS. TS. Bùi Mạnh Nhị, PGS. TS. Nguyễn Thành Thi, PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, PGS. TS. Nguyễn Công Lý, PGS. TS. Võ Văn Nhơn, PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu, PGS. TS. Nguyễn Kim Châu, PGS. TS. Trần Lê Hoa Tranh, PGS. TS. Bùi Thanh Truyền, PGS. TS. Trần Hoài Anh, PGS. TS. Lê Quang Trường, TS. Phan Mạnh Hùng. Điểm chung của những nhà nghiên cứu là đều gắn bó với hoạt động nhỏ với hoạt giáo dục ở các trường đại học và vì vậy, việc nghiên cứu - giảng dạy không tách rời, góp phần tạo nên giá trị trang viết. Trần Bảo Định không chỉ làm rõ giá trị khoa học mà còn nhấn mạnh hình tượng nhà sư phạm ở các nhân vật trí thức này.
Giữa các nhà nghiên cứu và Trần Bảo Định có chung ý hướng tìm hiểu, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc ở Nam Bộ. Già ham sách ra đời từ sự cộng hưởng của tình yêu mễn văn hóa - văn học Nam Bộ nói riêng và giá trị thẩm mỹ văn chương nói chung. Qua tập sách, Trần Bảo Định thực sự mong mỏi có thể liên kết, tập hợp các nỗ lực bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Nam Bộ để có thể tác động đến nhận thức và kêu gọi thế hệ trẻ tham gia vào công cuộc giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc hiện nay. Bởi ông hiểu rằng: Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao (Ca dao).
Về Quyển Sự Tích Và Nghệ Thuật Hát Bộ Của Đoàn Nồng (Khảo-Chú-Luận)
Về quyển Sự tích và Nghệ thuật hát bộ của Đoàn Nồng:
Ở đây, tác giả Đoàn Nồng mạnh dạn nêu lên ý kiến cá biệt của mình về tên gọi của loại hình Hát Bội - cái tên toàn thể người dân đều quen thuộc như vậy, ông còn mạnh dạn cho rằng: “Tên ‘Hát Bội’ mà bây giờ đã công dụng để thứ Hát Tuồng cổ của ta có lẽ nguyên là chữ ‘hát bộ’ mà ra”, giải thích: “Bộ nghĩa là bước đi, đi bộ; ‘hát bộ’ nghĩa là vừa hát vừa đi, và làm bộ tịch để biểu diễn cảm giác, cảm tình với câu hát”). Và một loạt lập luận khác của ông về tên gọi “Hát Bộ’’ ở ngay trong tác phẩm (được khảo chú ở phía sau đây), kể cả trong bài viết ông bàn dặm thêm trong bài Bàn về chữ “bội”) trên tạp chí Tri Tân số 163 (19-10-1944), trang 6-7, độc giả có thể đọc một cách thuận tiện trong chuyên khảo này.
“Sách chia ra ba chương: Chương thứ nhất nói về gốc tích và những cái hay cái khéo của nghề Hát Bội; chương thứ hai thuật qua những lớp tuồng thường dẫn; chương thứ ba sao lại những lớp tuồng hay xưa nay vẫn đem diễn thành một quyển sách vừa khảo cứu vừa trích diễm. Lời văn giản dị hoạt bát, thuần một giọng ta, không nhiễm lối văn Tây hoặc văn Tàu, Quốc ngữ mà được như thế đã là có công lắm.” (Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố)
Nam Phương Hoàng Hậu - Vị Quốc Mẫu Tân Thời Qua Tư Liệu Báo Chí (1934-1945)
Trong khuôn khổ của cuốn sách này, chúng tôi muốn gởi đến bạn đọc hình tượng một vị Hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn đã thoát ly khỏi những bó buộc ngặt nghèo của truyền thống đối với người phụ nữ Việt Nam thông qua tài liệu báo chí trong giai đoạn 1934 - 1945, cũng tức là trong khoảng thời gian bà tại vị Hoàng hậu. Từ đó, góp phần giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Hoàng hậu Hoàng đế, Hoàng thất, cũng như những công việc mà Hoàng hậu Nam Phương đã làm có ảnh hưởng đến công cuộc trị vì và giúp đỡ cho thần dân của mình lúc bấy giờ”.
Bộ ba tập Nhật ký cô giáo Học kỳ Xuân - Học kỳ Hè – Học kỳ Thu là ghi chép hàng ngày theo đúng nghĩa đen của từ này. Tập tản văn là một thực tiễn giáo dục, đơn thuần mô tả chân thực đời sống của nữ giảng viên làm công ăn lương ở một trường đại học trong thành phố Hồ Chí Minh. Giảng viên đại học cũng như bao nghề khác, có đầy rẫy thử thách làm cho cô giáo không ít lần lao đao, khóc lên khóc xuống để giữ thẻ màu giảng viên.
Vẫn giữ lối kể chuyện nhẹ nhàng hài hước, "Nhật ký cô giáo – Học kỳ Thu" có nhiều đối thoại nhẹ nhàng, mô tả nhân vật kĩ hơn hai tập trước. Trong Nhật ký Cô giáo – Học kỳ Thu vẫn là chân dung cô giáo đại học bận rộn bài vở nhưng đã thành thạo công việc hơn cô giáo ở hai học kỳ trước. Cô giáo qua mấy học kỳ đã biết chấp nhận học trò, bình tĩnh hơn trong đối thoại và xử lý dứt khoát 101 tình huống sư phạm chỉ khi thực chiến mới thấy. Cô vẫn tỉ mỉ khi quan sát xung quanh, mọi cuộc gặp gỡ trong trường hay ngoài trường dù ngắn ngủi một vài phút cũng đủ cho cô giáo học hỏi từ các tiền bối, hậu bối.
Cô giáo hiện lên là một nhân vật lạc quan, yêu nghề, tin người, có khả năng nhìn xấu thành đẹp, nhìn quen thành lạ. Cô giáo vẫn nhạy cảm với mọi thứ xảy ra quanh mình nhưng đã cứng rắn hơn trong cách xử lý. Nhờ đó những chuyện tưởng như bực mình trong học quán lại trở nên đáng yêu, mang đậm cảm xúc đặc thù của học quán thanh xuân này. Mỗi ngày cô đi làm đều có niềm vui.
Tập Nhật ký Cô giáo – Học kỳ Thu hé lộ nội dung nhiều tiết học trong lớp của cô giáo, đề bài là gì, hoạt động của sinh viên, thể hiện quan điểm giáo dục thực tiễn của cô giáo: không chỉ hoàn thành công việc được giao mà còn hướng đến xây dựng con người hạnh phúc trong cuộc đời dài.
Tập sách này kết cấu trên nền tảng đạo đức sinh thái, bộc lộ sáng rõ ý tưởng khảo cứu. Tác giả đi sâu bàn rộng vào góc nhỏ đời sống, cụ thể: Ý thức về môi trường sinh thái qua ca dao, tục ngữ Nam Bộ; Ý thức sinh thái Nam Bộ; vài góc nhìn tham chiếu... Mỗi bài khảo cứu đi kèm truyện ngắn cho thấy ý muốn gắn liền việc "nghiệm xét" trong văn bản nghiên cứu với trải nghiệm cụ thể của hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn chương. Có lẽ tác giả không nghĩ đến việc xác lập bản thân trong vai trò nhà nghiên cứu, mà đúng hơn ông chỉ mong muốn gợi mở, thiết lập vấn đề, ngõ hầu những ai có lòng đắn đo theo đó mà tiếp tục nghĩ ra và bàn tới tiếp sức.
Chính thế, tập sách này có thể xem như trang viết truyền cảm hứng (khơi dậy tình yêu nước thương nòi, tình yêu thương con người vạn vật nói chung) hơn là tập chuyên khảo hàn lâm. Từ mảnh đất quê, Trần Bảo Định nhìn khắp chốn, kết hợp đối sánh để rạng tỏ bản diện quê hương. Quan niệm "sinh thái học tầng sâu" của tác giả rõ ràng xuất phát từ chính cuộc sống và lối "minh triết" sẵn có của người bình dân Nam Bộ. Đáng quý hơn cả ở tập sách này là tác giả đã bám chặt lấy quê hương để khai thác quan niệm sinh thái của người dân đồng bằng sông Cửu Long và ông góp phần chuyển tải quan niệm sinh thái nhân văn riêng biệt của người bình dân Nam Bộ hòa vào mối quan tâm chung của nhân loại về vấn nạn môi trường sinh thái hôm nay.
Hạnh Phúc Đan Giữa Ngón Tay của tác giả Minh Hương. Nguyễn là quyển sách viết theo tâm thế “Trong đời sống này, sự khổ đau hay sung sướng, hoan lạc hay sầu thảm cũng chính là từ lúc chúng ta tự ý thức gieo lấy hạt giống gì trong ngay trong lòng mình. Gieo niềm vui gặt tiếng cười. Gieo âu lo gặt phiền muộn. Gieo gió gặt bão”.
Với những mẩu chuyện nho nhỏ, sinh động được kể bằng giọng văn thân mật khiến người đọc cảm thấy gần gũi và dễ nhớ, cảm giác như đang được nghe một người bạn mở lòng, thủ thỉ, trải lòng chân tình về những gì mà bạn đã chiêm nghiệm. Nhẹ nhàng và nhẹ nhàng. Rồi “tôi và chúng ta” tâm đắc nhất vẫn là nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng: “Kiến tạo phiên bản tốt nhất của chính mình.” Như lời tác giả đã bộc bạch: “Bạn chỉ hạnh phúc khi bạn chọn sống hạnh phúc”. Hãy khám phá những trải nghiệm mới để phát triển chính mình với một phiên bản hạnh phúc hơn, thành công hơn…
“Một tập sách đã mở ra, tùy đối tượng người đọc, mỗi người có thể chọn lấy vấn đề mà mình đồng cảm nhất. Thú thật, nếu chọn lấy một trong nhiều câu khác, tôi sẽ chọn câu này: “Hãy biết cách chủ động tạo niềm vui cho mình để không lẻ loi trông ngóng”. Một bản lĩnh rất đáng ghi nhận, nhất là ở nữ giới. Ít nhiều đã phản ánh sự khác biệt ngay từ trong ý thức của phụ nữ thế kỷ này và trước đó” – trích lời Tựa của Lê Minh Quốc.
Con Ơi, Ba Mẹ Vẫn Chờ
Hiếm muộn là một câu chuyện không đơn giản. Ngoài việc chấp nhận đó là một vẫn đề thuộc sức khỏe, bệnh nhân hiếm muộn phải đối diện với vô vàn điều khó khăn khác. Cảm giác lo lắng, tức giận, buồn, mặc cảm, sợ hãi; thất vọng khi thất bại… tất cả những điều đó không phải ai cũng có thể chấp nhận, hoạc có thể dễ dàng chia sẻ với người thân, bạn bè. Vì vậy, họ dễ dàng rơi vào trạng thái cô đơn, trầm cảm. Con đường một bệnh nhân hiếm muộn đi chưa bao giờ bằng phẳng. Điều trị như thế nào, thời gian bao lâu, chi phí và những rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra… và muôn vàn điều khác nữa đều có thể làm họ lo sợ, tuyệt vọng.
Nhưng…
Phải đi mới mong được đến đích. Đường có dài, thì cũng phải bắt đầu từ những bước “khởi hành”. Có câu “ Tận nhân lực tri thiên mệnh”, huống hồ sẽ có nhiều người “tận nhân lực” cùng bạn. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện nay ngày càng phát triển, điều đó có nghĩa là cơ hội cho những ai mong con ngày càng nhiều thêm… Hãy nhìn chuyện sinh con là đích đến của tình yêu và hạnh phúc. Chính nơi đó bạn sẽ trải nghiệm cảm giác yêu thương vô điều kiện, hy sinh những cái tôi ích kỷ và tận hưởng những ngọt ngào nhỏ bé trong đời mình.
Ký Ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào (Việt - Pháp - Anh)
Kho tư liệu đồ sộ và sắp xếp khoa học của hầu hết dự án sưu tập, khảo sát và nghiên cứu do Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp trực tiếp thực hiện trong hơn 100 năm trở lại đây thường chứa đựng một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với người yêu sách lẫn giới học thuật, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực tại Việt Nam và quốc tế, đặc biệt ở mảng văn hóa - xã hội.
Trước đó, hồi năm 2017 và 2018, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đã phối hợp với Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp giới thiệu đến độc giả 2 tuyển tập sách: Lục Vân Tiên cổ tích truyện (bộ hai quyển, song ngữ) và Tranh dân gian Việt Nam. Hai tập sách này đã thu hút sự chú ý của người đọc trong và ngoài nước nhờ nội dung hấp dẫn, hình ảnh minh hoạt độc đáo, mang tính nghệ thuật cao.
Tính đến thời điểm hiện tại, Tranh dân gian Việt Nam là tập sách được đánh giá vào loại hiếm, được giới sưu tầm "săn mua" lại từ những chủ nhân sở hữu trước đó, dù số lượng bản in lên đến hàng ngàn bản.
Tiếp nối thành công từ sự hợp tác giữa hai bên, sau gần hai năm thỏa thuận tác quyền và nghiêm túc thực hiện công tác biên soạn - biên dịch, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM cũng vừa giới thiệu đến công chúng tuyển tập “Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Lào – Campuchia”.
Nét mới trong tập sách này không chỉ là sự tổng hợp, chắt lọc đầy tính khoa học và nghệ thuật của 3 tập sách đơn lẻ mà Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp từng ấn hành, xuất bản trước đó tại nước ngoài là Ký ức Việt Nam (2013), Ký ức Lào (2015) và Ký ức Campuchia (2017) trước đó vào một tập sách, mà còn ở việc nội dung đã được Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh so với bản Pháp ngữ của ấn phẩm gốc. Bằng cách này, các tác phẩm văn hóa dễ dàng tiếp cận hơn đến công chúng trong nước, và đặc biệt là "cầu nối" đến khách hàng là du khách quốc tế có dịp đến tham quan TP.HCM nói chung và Việt Nam nói riêng.
Phần đầu của tập sách giới thiệu về lịch sử hình thành và những tư liệu quý giá qua thời gian được lưu trữ kỹ lưỡng bởi Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp qua những chuyển biến của lịch sử. Những hình ảnh khắc sâu trong tim, về khoảnh khắc trong quá khứ, xuyên suốt ở ba quốc gia Việt Nam - Campuchia – Lào được tái hiện vô cùng sinh động, hiện thực qua từng trang sách, đó là Ký ức Việt Nam: cận cảnh Đông Dương, con người và truyền thống; mỹ thuật và kiến trúc, Phật giáo, lễ hội và nghi thức tôn giáo; Ký ức Campuchia: khoa học - mỹ thuật - chính trị, đất - nước, nghi lễ hoàng cung, nhà sư và chùa chiền, thế giới “tách biệt”, khám phá; và Ký ức Lào: tự nhiên và văn hóa, con người và thiên nhiên, lễ hội và truyền thống, thực hành phật giáo. Tổng hợp tương quan về đa sắc tộc….
Bên cạnh việc giới thiệu những tư liệu ảnh quý lưu trữ tại Viện Viễn Đông Bác Cổ phản ánh tự nhiên, văn hóa, con người, thiên nhiên, di sản… của Đông Dương, sách còn là sợi dây nối liền ký ức thông qua nét đẹp của phụ nữ Việt Nam khi ngược dòng thời gian trở về đầu thế kỷ 20… Nét đẹp đó là những nét sinh hoạt thường ngày, sự bình dị khi hoạt động mua bán, khi khoác lên mình những bộ trang phục truyền thống của từng dân tộc, hay hoạt động tín ngưỡng, hoặc những ánh mắt trẻ thơ không kém phần sâu lắng của các thiếu nữ…
Rơm Rạ Lấm Lem - Truyện Dài Thiếu Nhi Độ Tuổi 6 Đến 15
Mùa hè của cô nhóc tên Nguyên có gì?
Quê ngoại của cô nhóc Nguyên có gì?
Hẳn những miền quê nào cũng giống nhau, cũng cánh đồng, ao làng, lũy tre, cào cào châu chấ
Cũng những trò nghịch ngợm ngoài đồng, những buổi trẻo cây, tắm ao, móc cua, tát cá
Cũng những trò nghịch khôn dại trẻ con lấm lem mà vui vẻ nhưng làm hú hồn người lớn.
Lại rất khác bởi những con người mà cô nhóc Nguyên đã gặp gỡ, chuyện trò và yêu thương.
Đi qua mùa hè của cô nhóc, hẳn người đọc sẽ tìm thấy mùa hè của mình, tuổi thơ của mình, và sẽ nhớ về những ngày xưa trong trẻo mát lành. Tuổi thơ ấy bấy lâu vẫn nằm im trong ký ức, chợt một ngày ùa ra reo vui như những chùm pháo hoa rực rỡ.
Đàng Trong Lịch Sử Và Văn Hóa
Tập sách "Đàng Trong - Lịch sử và văn hóa" đến tay bạn đọc không phải là một công trình chuyên khảo. Những bài viết trong tập sách này chỉ là những mảnh ghép của bức tranh chưa hoàn chỉnh về lịch sử xứ Đàng Trong trong hơn hai thế kỷ tồn tại với những mong góp được phần nào vào sự cảm nhận, đánh giá của bạn đọc thêm phần thỏa đáng về những gì liên quan đến lịch sử và văn hóa Đàng Trong, một thành quả không hề nhỏ của quá trình “nhân đối đất nước” dưới thời các chúa Nguyễn.
Ai Làm Đau Tiếng Việt?
Chúng tôi không trình bày theo chuyên mục nhằm giảm tính hàn lâm của quyển sách. Do đó, bạn đọc sẽ cảm thấy nội dung của quyển sách rất đời thường, gần gũi, thậm chí là có minh trong đó. Mỗi bài - tạm gọi vậy - chúng tôi nêu ra thực trạng và nguyên nhân của nó.
Cuối cùng là cách sửa, cách khắc phục. Chỉ nên xem đây là những bài tập về tiếng việt - những bài thực hành về tiếng việt thôi. Chúng tôi cố gắng trình bày nội dung của mỗi bài và của toàn quyển sách bằng những từ ngữ đơn nghĩa nhất để những em học sinh dễ hiểu, dễ khắc phục, còn người lớn, những người làm công tác chuyên môn thì vẫn có thể sử dụng như một tài liệu khoa học về ngôn ngữ, cụ thể là tiếng việt.
Cái Thiện - Hành Trình Kiếm Tìm Tự Ngã Chân Chính
Đây là tác phẩm triết học đầu tiên ở Nhật Bản có sự dung hòa triết thuyết phương Đông và phương Tây. Cái thiện không chỉ giới thiệu và khái lược về triết học phương Tây một cách đơn thuần, mà nó đã khai phá và đưa ra lời giải đáp duy nhất cho các câu hỏi như thực tại chân chính là gì, thiện là gì, thế nào là hành vi thiện, con người ta nên kiếm tìm sự an lòng trên phương diện tôn giáo ở đâu? Và những kiến giải đó của Nishida cũng nhằm mục đích đánh thức tư duy của các nhà tư tưởng đời sau và trở thành tiền đề để hình thành tư tưởng của chính bản thân ông sau này. Với ý nghĩa đó, Cái thiện có một vị trí lớn lao trong lịch sử triết học Nhật Bản. Nó không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, mà ngay trong thời hiện đại nó cũng không hề mất đi ý nghĩa khi sự suy ngẫm này của ông đã tạo ra sự đối đầu triệt để với triết học phương Tây.
“Tôi lại cho rằng thiện của mỗi cá nhân mới là quan trọng nhất, bởi nó là nên tảng cho mọi thứ thiện trên đời. Vĩ nhân chân chính vốn không phải vì sự nghiệp vĩ đại do ông ta gây dựng nên khiến ông ta trở nên vĩ đại, mà là vì ông phát huy được cá tính mạnh mẽ nhất. Lên núi cao rồi hổ lên một tiếng, thanh âm sẽ vang vọng bốn phương, đó không phải vì thanh âm lớn, mà là vì chỗ đúng cao. Tôi cho rằng người có thể phát huy trọn vẹn đặc điểm riêng của mình sẽ càng trở nên vĩ đại hơn nhiều, so với người quên đi bản phận của mình để luôn chạy đôn chạy đáo vì người khác”.
Nishida Kitarō
Là triết gia tiêu biểu và có sức ảnh hưởng lớn nhất Nhật Bản trong thế kỷ XX. Sinh ra trong một gia đình hào phú, nhưng sau đó lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Năm 1884 ông tốt nghiệp trường sư phạm của tỉnh Nishikawa. Năm 1894 ông hoàn thành chương trình học tại khoa triết học của Trường Đại học Văn khoa thuộc Đế quốc Đại học (nay là Đại học Tokyo). Năm 1896 ông trở thành giảng viên giảng | dạy tại trường Cao đẳng Đệ Tử. Ngoài ra ông còn là giảng viên của hàng loạt các trường đại học khác như Đại học Nhật Bản, Đại học Phú Sơn (nay là Đại học Taisho), Đại học Chân Tông Đại Cốc (nay là Đại học Otani), Đại học Khánh Ứng Nghĩa Thục (nay là Đại học Keio) Năm 1940 ông nhận Huân chương Văn hóa do Thiên hoàng ban tặng. Trước đó, năm 1936 trong số ra tháng 1 của tạp chí Tư tưởng đã dành riêng một chuyên đề bàn về “triết học Nishida”.
Lĩnh vực triết học mà Nishida quan tâm được trải rộng trên nhiều phương diện, từ thiện, luân lý học cho tới tri thức luận, bản thể luận, siêu hình học. Cuốn sách Cái thiện được xem là kết tinh tư tưởng của ông.
Ngoài ra ông còn nhiều tác phẩm tiêu biểu khác: Tư duy và trải nghiệm (1915); Trực quan và phản tỉnh trong tự giác (1913-1917); Vấn đề ý thức (1918-1919); Nghệ thuật và đạo đức (1920-1923); Từ cái động đến cái hiển hiện (1923-1927); Giới hạn tự giác của cái có (1930-1932); Vấn đề căn bản của triết học (thế giới hành vi) (1933); Vấn đề căn bản của triết học (thế giới phép biện chứng) (1934).
Bảo Vệ Môi Trường - Qua Góc Nhìn Của Tôn Giáo Và Triết Học
"Cuốn sách này là tập hợp một số bài viết do Đại đức Thích Nhuận Đạt biên dịch từ những công trình nghiên cứu nghiêm túc của một số học giả, nhà tu hành, nhà thần họ như một cách để xuất giải pháp cho vấn đề bảo vệ sinh thái dưới góc nhìn của tôn giáo và triết học. Vì vậy trong cuốn sách này, người đọc có thể sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi biết được ngoài Phật giáo đi tiên phong ra, Nho giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, và nhiều sách triết lý chính trị theo truyền thống của “bách gia chư tử” Trung Quốc cổ đại cũng đều có những gợi ý hoặc để xuất minh triết liên quan các vấn để thuộc về bảo vệ môi trường sống của loài người. Điều dáng ngạc nhiên là không hiểu sao các bậc hiền triết cổ có thể “tiên tri” được vấn đề, từ đó đưa ra được những chỉ dẫn thích hợp mà con người thời đại ngày nay còn có thể tham khảo để điều chỉnh lối sống và hành vi của mình, nhằm tránh nguy cơ bị tận diệt?" - Trần Văn Chánh (Trích Thay lời tựa)
"Mối quan tâm sinh thái là một phương diện quan trọng trong sự phát triển của sự quan tâm xã hội và ý thức đạo đức đương đại, những người có chung sự quan tâm này đã đưa ra sự thách thức cho các truyền thống tôn giáo không giống nhau. Các nhà tư tưởng tôn giáo từng tiến hành nghiên cứu, giải thích và thay đổi lại truyền thống tôn giáo của họ, khiến cho nó càng có thể đối diện với sự thách thức của khủng, hoảng sinh thái." - Lại Phẩm Siêu
"Tất cả những vấn đề trên thế giới đều liên quan đến "con người", nhân loại có thể nói là kẻ tạo ra vấn đề, muốn xử lý vấn đề môi trường, phải nhờ vào sự tự giác của mỗi cá nhân. Vì lẽ đó, ngoài việc trân quý nguồn tài nguyên đất đai ra, chúng ta cần phải bảo vệ tốt môi trường thân tâm của mình, như cự tuyệt với kiến thức rác rưởi, không để tư tưởng bị ô nhiễm, ấy chính là bảo vệ môi trường tư tưởng, trong lòng không phiền muộn, đố kỵ, bất bình, giận dỗi, vv., ấy chính là bảo vệ môi trường tâm linh." - Đại Sư Tinh Vân
Truyện Ngắn Đương Đại Hàn Quốc - Tập 2
Cuốn sách này đáng được lựa chọn với tư cách một tuyển tập tác phẩm tiêu biểu cho văn chương Hàn Quốc đương đại. Bởi vì trong văn chương đương đại Hàn Quốc, truyện ngắn là một thể loại mạnh, với sự nổi bật cũng như thành tựu quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Bởi vì tất cả 12 truyện ngắn trong này được tuyển chọn từ tạp chí Koreana, và chỉ riêng điều đó thôi đủ bảo chứng cho chúng. Koreana là tạp chí của quỹ Giao lưu quốc tế Hàn Quốc (Korea Foundation), xuất bản hàng quý, giới thiệu văn hóa nghệ thuật xứ Kimchi tới độc giả quốc tế.
“Vai trò của truyện ngắn trong lịch sử văn học hiện đại Hàn Quốc quan trọng hơn là một hiện tượng đáng chú ý. Tại Hàn Quốc, truyện ngắn thống lĩnh hơn so với tiểu thuyết và truyện vừa (…).” Trong khi giới xuất bản, phát hành Âu Mỹ khá nhất trí rằng khó kinh doanh phát đạt nhờ các tác phẩm best-seller nếu đầu tư vào truyện ngắn, “truyện ngắn rất khó bán” thì hàn quốc bao nhiêu năm qua luôn tập trung ưu tiên truyện ngắn, “đã chi hàng tỉ won dịch thuật các tuyển tập truyện ngắn giới thiệu ra nước ngoài”.
Ấn bản Koreana đầu tiên bằng tiếng Anh ra đời năm 1987, và sau hơn ba mươi năm, đến nay đã có các phiên bản tạp chí in, tạp chí điện tử và webzine Koreana trong 11 thứ tiếng (Anh, nhật, Trung quốc, Tây ban nha, Pháp, Arab, Đức, indonesia, nga, việt nam, hàn quốc). Koreana trở thành một trường hợp hiếm hoi trong các tạp chí quốc tế, với bạn đọc ở khắp 160 quốc gia. qua những bài viết chất lượng tốt, thông tin phong phú, những hình ảnh đẹp, hấp dẫn, Koreana góp phần quảng bá văn hóa nghệ thuật Hàn Quốc, thực hiện sứ mệnh của Korea Foundation: “Gắn bó nhân loại, kết nối thế giới” (CONNECT PEOPLE, BRIDGE THE WORLD). Từ năm 1993, Koreana bắt đầu đăng một truyện ngắn trong mỗi tạp chí. Qua hơn một phần tư thế kỷ, hơn 100 truyện ngắn đã được chọn như những đại sứ đưa văn chương Hàn Quốc đến toàn cầu. Sự quan tâm của công chúng nước ngoài đối với văn chương xứ sở Kimchi, có thể trong không ít trường hợp, bắt đầu từ niềm say mê làn sóng văn hóa đại chúng - qua phim truyện truyền hình (K-drama), âm nhạc (K-pop),truyện tranh (Manhwa), thời trang (K-fashion), ẩm thực (K-food)… Tuy nhiên, trên hành trình, văn chương đã chinh phục với sức hấp dẫn riêng biệt của mình, góp phần cân bằng cảm nhận của thế giới một hình tượng Hàn Quốc toàn vẹn hơn, tinh hoa, sâu lắng hơn.
Phiên bản Koreana tiếng việt đầu tiên ra mắt năm 2014. 12 truyện ngắn của tuyển tập này được chọn từ các tạp chí Koreana trong sáu năm qua. Các tác giả, chỉ đôi người bước vào tuổi tri thiên mệnh khi sáng tác tác phẩm mà chúng ta sắp đọc, còn lại phần lớn ở độ tuổi từ 23 đến 40. Tất cả đều từng giành được những giải thưởng văn học, trong đó, có nhiều giải thưởng danh giá bậc nhất xứ Hàn.
12 truyện ngắn bộc lộ nhiều phương diện hiện thực Hàn Quốc qua các mối quan hệ nhân sinh, đặc biệt là cách mà những người trẻ tuổi tiếp nhận và thích ứng với những thay đổi mạnh mẽ kinh tế, chính trị cũng như văn hóa, xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hậu công nghiệp hóa nhanh chóng, nén ép. Nhiều câu chuyện phản ánh những nét đặc thù cuộc sống xứ sở Kimchi (phong trào dân chủ Gwangju, phẫu thuật thẩm mỹ, cửa hàng tiện lợi…) đồng thời cũng khái quát các vấn đề có tính toàn cầu (tình trạng cô đơn, xa lạ cõi người trong xã hội ngày càng thực dụng, vị kỷ, ngạt thở vì định kiến; số phận cuộc đời cá nhân giữa đủ loại khủng hoảng, ly tán, xung đột, bão tố chiến tranh…).
12 truyện ngắn thể hiện phong phú các sắc điệu tâm hồn Hàn Quốc, tinh tế, nhạy cảm, nặng tình (Jeong, 정) và vấn vít hận sầu (han, 한), không nguôi tha thiết trăn trở về sinh tử, thiện ác, hạnh phúc cùng mất mát, những giá trị truyền thống và hiện đại.
12 truyện ngắn mở ra những thế giới nghệ thuật biến ảo, từ bút pháp hiện thực đến viễn tưởng, kinh dị; Cả giọng điệu trữ tình lãng mạn lẫn triết lý thâm trầm; Phần kết truyện thường mở, để lại những dư ba. Cùng với nhau, các tác phẩm có thể cho thấy năng lượng cùng sức trẻ của truyện ngắn đương đại Hàn Quốc kết tinh cả truyền thống ngàn năm văn chương dân tộc, đủ sức chạm đến những xúc cảm và suy tư lay động nhân tình bất cứ ở phương trời xa xôi nào.
Toàn Cầu Hóa - Hợp Tác Và Đấu Tranh
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội 1 loài người.
Sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta toàn thắng mùa xuân năm 1975, trùng hợp với sự bắt đầu một thời kỳ “hoàng kim” mới của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Nó diễn ra sầu rộng hơn và nhanh chóng hơn trước, nhờ sự tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông với hiện tượng internet. Nó bao gồm tất cả các mặt của đời sống chính trị - xã hội, kinh tế - tài chính - tiền tế, văn hóa - lối sống. Nó diễn ra như vũ bão làm cho người ta có cảm tưởng không gì có thể cưỡng lại được. | Nước Mỹ đóng vai trò vượt trội so với phần còn lại của thế giới chẳng những về kinh tế, tài chính, tiền tệ, mà cả về văn hóa, lối sống (way of life). Thế thượng phong của Mỹ trong toàn cầu hóa hiện nay nổi bật đến mức khó có thể phân biệt giữa hai khái niệm “toàn cầu hóa” và “Mỹ hóa”. - Đặc điểm nổi bật của quá trình toàn cầu hóa từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh quyết liệt để giành phần thắng về mình giữa các tác nhân, xung quanh một loạt vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, hòa bình và an ninh quốc tế trọng đại của thế giới; thiết thân đối với Việt Nam trong bối cảnh nước ta tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời đấu tranh quyết liệt để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ từ biên giới đến hải đảo.
Các vấn đề đó là:
- Toàn cầu hóa qua các giai đoạn lịch sử, đòi hỏi cải tổ các định chế tài chính - tiền tệ quốc tế và Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc theo hướng dân chủ và minh bạch hơn; về khuynh hướng ly khai và hệ lụy; về hòa bình trong độc lập tự do, không phải hòa bình trong nô lệ.
- Về vấn đề Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc và tích cực tham gia các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc; về Phong trào không liên kết từ chỗ coi tình hình miền Nam là nội chiến đến hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.
- Vấn để đấu tranh bảo vệ chủ lãnh thổ từ biên cương đến hải đảo và thềm lục địa. Hoàng Sa và Trường Sa trước nay vẫn là của Việt Nam, phù hợp phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài PCA, bác bỏ mọi yêu sách phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc Cuba đổi mới đi đôi với bảo vệ chế độ chính trị của đất nước.
Bé Học Kỹ Năng Sống Tự Lập - Tập 1: Bé Học Chăm Sóc Nhà Cửa (Song Ngữ Việt - Anh)
Ba Mẹ và các con thương mến! Trẻ em ngày nay thường mất nhiều thời gian cho việc học tập hơn, vì thế nhiều ba mẹ thường làm thay cho con mọi việc với hy vọng con có nhiều thời gian để học. Điều này dẫn đến khả năng tự chăm sóc bản thân, khả năng giúp đỡ người khác, khả năng thích nghi với môi trường xung quanh và khả năng quản lý thời gian của con bị hạn chế.
Ba Mẹ và các con biết không, điểm số cao không phải là tất cả, mà khả năng tự lập mới chính là điều có thể giúp các con có được một cuộc đời thành công. Một em bé không được hướng dẫn cách tự chăm sóc bản thân và giúp đỡ người khác khi lớn lên sẽ rất thụ động và nhút nhát. Trong khi đó, những em bé được học những kỹ năng này sẽ trở thành những người lớn tự tin và biết chịu trách nhiệm với những việc mình làm. Những em bé biết tự chăm sóc bản thân và biết giúp ba mẹ làm việc nhà cũng sẽ có ý thức hơn trong học tập, vì con hiểu việc học cũng là việc của chính con.
Và khi con đã hình thành được ý thức tự học, kết quả học tập của con sẽ làm ba mẹ tự hào.
"Trí tuệ Sherlock Holmes: Phá án bằng khoa học và khoa học hình sự" diện trình một lối tiếp cận mới mẻ, lạ thường vào nhân vật thám tử vĩ đại nhất của mọi thời đại. Quyển sách này là lý tưởng cho bất kỳ ai quan tâm đến Sherlock Holmes, khoa học nói chung và khoa học hình sự nói riêng. Nguồn phong phú dồi dào những ứng dụng khoa học hình sự được tạo dựng trong văn cảnh kiến thức chuyên biệt về Sherlock Holmes trong hóa học, toán học, sinh học, vật lý v.v... Quyển sách của O'Brien mở ra cánh cửa bước vào tâm trí Sherlock Holmes và thực hành suy luận diễn dịch khoa học.
Dẫu là góc nhìn của một người Pháp, nhưng rõ ràng L. Roubaud đã có những nhận xét, đánh giá ở thời điểm đó với chủ kiến riêng, chứ không hoàn toàn bị chi phối bởi màu da hay tư tưởng mà người Pháp hiện diện ở Việt Nam và Đông Dương lấy làm cớ để thể hiện uy thế của kẻ thống trị. Điều đó giúp cho các nhân vật, sự kiện được ghi chép lại chân thực, sống động, thậm chí có những sự kiện ở chừng mực nào đó, góp phần lột trần bản chất đàn áp, bóc lột của chính thực dân Pháp như phần "Một ngàn năm trăm người im lặng", phần "Trừng phạt một làng"... Qua ghi chép của L. Roubaud, những người yêu nước chân chính như trường hợp Ký Con hiện lên với vẻ mặt bình thản trước kẻ thù, tươi cười lạc quan và mục đích "làm loạn" đánh đuổi Pháp rất rõ ràng dù ít cơ hội thành công: "Người ta phải khởi sự trước, rồi người khác tiếp tục. Chúng tôi không thành công, kẻ đến sau sẽ thành công"...
Cuốn chân dung văn học “Lần đường theo bóng” được lẩy ra từ câu Kiều của Nguyễn Du: “Cất mình qua ngọn tường hoa, lần đường theo bóng trăng tà về tây”, là tập hợp các chân dung văn học ngoài những nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ thuộc thế hệ cha chú như Ngô Thảo, Hoàng Vũ Thuật, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Đăng Khoa, thế hệ 6X, 7X đã thành danh như Thuận, Đỗ Tiến Thụy, Phong Điệp, Hoàng Thụy Anh, tác giả tập trung nhiều vào những tác giả thuộc thế hệ 8X của mình: Phan Tuấn Anh, Lê Vũ Trường Giang, Nguyễn Thị Kim Hòa, Hoàng Công Danh, Khải Đơn, Nguyễn Thiên Ngân, và cả thế hệ 9X với Cao Nguyệt Nguyên, Hiền Trang
.. Trong những bước thăng trầm, dẫu thành công hay thất bại, doanh nhân Việt luôn để lại nhiều bài học cho hậu thế, cho hôm nay, để mỗi doanh nhân Việt Nam làm hành trang tiếp bước. Thực tế chứng minh rằng, doanh nhân Việt Nam đang ngày càng hội nhập mạnh mẽ và sâu sắc với thế giới, nhiều doanh nhân Việt Nam đã thực sự đóng vai trò to lớn trong việc kích thích nền sản xuất của đất nước. Và mới đây, tạp chí Forbes của Mỹ vừa công bố danh sách tỷ phú thế giới năm 2021, trong đó Việt Nam lần đầu tiên có 6 đại diện.
Cuốn sách này là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc của nhóm tác giả do PGS. TS. Trần Thuận chủ biên. Phần chính yếu trong tập sách này là kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia (tương đương đề tài cấp Bộ) đã được nghiệm thu và đánh giá loại tốt về chất lượng khoa học.
Cuốn sách ngoài chương 1 có tính lý luận và chương 6 mang tính khái quát nêu bật những đặc điểm cơ bản của doanh nhân Việt Nam từ trước đến nay, 5 chương còn lại, mỗi chương đề cập đến doanh nhân Việt Nam trong mỗi thời đoạn lịch sử với tình hình cụ thể của đất nước, giúp người đọc nhận thức đầy đủ hơn tính chất và đặc điểm của doanh nhân nước nhà.
“Đường về tỉnh thức” là cuốn sách giúp bạn tiếp cận với Chánh niệm một cách gần gũi và dễ hiểu nhất. Thông qua cuốn sách, tác giả - Tiến sĩ Tamara Russell sẽ giúp bạn nhận ra những lầm tưởng của mọi người về Chánh niệm từ trước đến nay. Từ đó nhìn thấu được nguồn gốc, cơ chế, và ý nghĩa của nó trong cuộc sống thường nhật, để có sự cân nhắc trong từng hành động thay vì làm mọi thứ theo bản năng và thiếu suy nghĩ. Nữ tác giả cũng chia sẻ rằng, cuốn sách sẽ là người bạn đầu tiên của bạn trên hành trình dấn thân vào Chánh niệm, đặc biệt là khi bạn đặt sự tỉnh thức lên một vị trí quan trọng trong cuộc đời mình.
“Những công dân sống chánh niệm hơn thường không bị mắc kẹt trong sự phê phán hoặc giữ khư khư những ý tưởng cũ kỹ. Họ nhận ra đúng bản chất của chúng - những thói quen hoặc ý nghĩ từng phục vụ cho một mục đích nào đó - hiện đã không còn hữu ích nữa. Vậy thôi, đã tới lúc buông bỏ và thay đổi”, Tamara Russell viết trong cuốn sách.
Người lữ hành lặng lẽlà một trong số ít tiểu thuyết ký sự thành công lớn, Tác phẩm được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và được nhiều độc giả yêu thích. Tác phẩm thể hiện sở trường của nhà văn Hữu Mai trong thể loại ký sự nhân vật lịch sử.
Cốt truyện được xây dựng dựa trên các nhân vật và sự kiện lịch sử, trung tâm là ông Lê Quang Đạo - một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong mối liên hệ với nhiều nhân vật chính trị, quân sự, văn hóa lớn của Việt Nam đương thời. Người lữ hành lặng lẽ Lê Quang Đạo đã đi qua những năm tháng cuộc đời giản dị mà hào hùng, từ bước chân thơ ấu trên quê hương Đình Bảng ra không gian đất nước rộng lớn vận động cùng lịch sử dân tộc, trải dài từ thời Pháp thuộc, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xuyên qua thời đoạn khó khăn, gian khổ của “đêm trước Đổi Mới” đến năm cuối cùng của thế kỷ ông sống. Không gian, thời gian và hệ thống nhân vật lịch sử đồ sộ kết nối trong các sự kiện có thật đã tạo nên tầm vóc lớn củaNgười lữ hành lặng lẽ- thiên ký sự về cuộc đời nhà cách mạng Lê Quang Đạo gắn với những biến chuyển t lớn và sâu sắc của Việt Nam thế kỷ XX. Ông hiện lên là vị tướng tài đức, dung dị, nồng hậu với cái Tâm, cái Tầm đi trước thời đại, trọn đời cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Ông là vị thủ trưởng - đồng đội - đồng chí rất mực gần gũi, thân thương và đáng kính; là người chồng - người cha hết lòng yêu thương gia đình.
Ông Lê Quang Đạo tên thật là Nguyễn Đức Nguyện (1921 - 1999), sinh ra trong một gia đình có nếp sống thanh tao, kỷ cương, hiếu học ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh văn hiến. Trong hơn 60 năm cống hiến, ông luôn có mặt nơi “đầu sóng ngọn gió”, hoàn thành xuất sắc mọi cương vị: Gần 10 năm Bí thư Hà Nội và nhiều tỉnh thành lớn; Gần 30 năm lãnh đạo công tác tư tưởng - văn hóa trong quân đội và Chính ủy nhiều chiến dịch lớn; Chủ tịch Quốc hội Khóa VIII (1987 - 1992) đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, mở rộng dân chủ, thông qua Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ Luật, Luật quan trọng như Luật Đất đai (1987), Luật Đầu tư nước ngoài (1987), Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Công ty (1990),... đánh dấu một bước chuyển mình căn bản về cơ chế thị trường; Khởi xướng và hoàn thành xây dựng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999), một căn cứ pháp lý quan trọng cho đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy quyền làm chủ của nhân dân...
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Chủ tịch Quốc hội, cố Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Lê Quang Đạo (1921 - 2021), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh rất vinh dự được đồng hành cùng gia đình tác giả Hữu Mai và gia đình ông Lê Quang Đạo thực hiện cuốn sách Người lữ hành lặng lẽ. Tác phẩm hoàn thành như một nén tâm nhang để tưởng nhớ 100 năm đời người mà ông Lê Quang Đạo đóng góp tuổi xuân và trí tuệ, để lại cho đời tấm gương thầm lặng, nhưng mãi sáng trong tâm thức của chúng ta.Lần in tái bản này, trân trọng bút tích của tác giả tác phẩm, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xin giữ nguyên văn Lời cảm ơn của nhà văn Hữu Mai với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân trong lần xuất bản đầu tiên năm 2005.
TUNG TĂNG TUNG TẨY... TRỜI TÂY
Tập bút ký "Tung tăng tung tẩy... trời Tây" của nhà báo Lưu Đình Triều không chỉ miêu tả cảnh vật, danh lam thắng cảnh, công trình văn hóa nghệ thuật... anh còn ghi nhận tâm lý, tính cách của con người nơi ấy. Đó chính là "máu nghề nghiệp" của nhà báo khi truyền tải một thông tin, không chủ quan, võ đoán mà còn tiếp cận câu trả lời của người dân bản địa. Với nhà báo, khi du lịch không chỉ đi để đi, mà còn là dịp quan sát, nhận xét và ghi chép...
Từ rất xa xưa, từ khởi nguyên của văn chương với waka và thần thoại, người Nhật Bản đã ký thác vào nghệ thuật ngôn từ tư tưởng về cái vẻ đẹp và bản chất vô thường của thế giới. Cho nên văn chương Nhật Bản từ khởi thủy đã nói lên vấn đề cốt lõi về thân phận con người, đã có tính hiện thực ở tầm vóc nhân loại và đặc biệt là có giá trị thẩm mỹ cao. Bên cạnh đó, vì cái đẹp trong văn chương Nhật Bản gắn với sự vô thường của thế giới, sự mong manh của kiếp người nên thường phảng phất nét buồn và tâm thái trầm tư. Đó là một đặc trưng quan trọng tồn tại xuyên suốt tiến trình lâu dài của lịch sử văn học Nhật Bản. Đặc trưng này biểu hiện ở nhiều sắc độ khác nhau trong nhiều giai đoạn, nhiều loại hình văn chương từ waka truyền thống, truyện Genji đến những sáng tác của nhiều nhà văn hiện đại và đương đại.
Tác giả Lê Văn Nghĩa sinh ngày 20/05/1953 tại tỉnh Chợ Lớn. Ông “thuộc thế hệ thanh niên học sinh Sài Gòn trưởng thành trong phong trào đấu tranh đô thị trước 1975. Ông từng xuống đường lãnh đạo thanh niên học sinh đấu tranh trực diện với cảnh sát, từng bị bắt, trải qua một số nhà tù giam của chế độ Việt Nam Cộng hòa, kể cả ở Côn Đảo. Sau ngày thống nhất đất nước, Lê Văn Nghĩa thuộc thế hệ làm báo đầu tiên của báo Tuổi Trẻ, cùng với làng báo TP.HCM lúc bấy giờ góp phần xây dựng đời sống mới. Ông làm việc tại báo Tuổi Trẻ từ năm 1975 đến năm 2015”.
“Người bán nụ cười” là cách mọi người gán cho nhà văn, nhà báo Lê Văn Nghĩa, bởi phong cách viết trào phúng của Ông đã định hình trong tâm trí bạn đọc Báo Tuổi Trẻ Cười với những cái tên nhân vật đạt độ điển hình: Hai Cù Nèo, Điệp viên Không Không Thấy, Đại Văn Mỗ, Hoa hậu phường Cây Mít, Linda Kiều…
34 mẩu chuyện trong tập “Điệp viên Không Không Thấy và Đại Văn Mỗ” cùng 36 mẩu chuyện trong tập “Điệp viên Không Không Thấy và nhà thơ Thần Giáng” đều mang dáng dấp các “thói hư tật xấu” của một ai đó trong cuộc đời này.
Nếu như ở “Điệp viên Không Không Thấy và Đại Văn Mỗ” - ta bật ngửa và phì cười vì những tình huống “phá án” trong “Đường dây phim sex”, “Nghiệp vụ ngửi mùi hương”, “Điệp vụ mò đường”, “Lộ tẩy”, “Nhà sưu tập tranh”…; thì đến “Điệp viên Không Không Thấy và nhà thơ Thần Giáng” - ngòi bút trào phúng và duyên dáng của Lê Văn Nghĩa cho người đọc thấy những màn “nhập đồng”, làm ra “thơ thần” chỉ toàn là trò lừa, chiêu đánh bóng bản thân qua “Ai là nhân tài?”, “Đấu giá chữ ký”, “Thần chú”, “Những người không thích đùa”, “‘Mê tốt’ mới”…
Trong 26 năm (1859 - 1885) lật qua trang sử vẻ vang trong sự đấu tranh bền bỉ, ngoan cường và tuyệt vời của quân dân Nam kỳ, hình như không có năm nào là không có cuộc nổi lên chống Pháp hoặc bằng gươm giáo hoặc bằng văn thơ…
Với bất cứ giá nào, nhân dân Nam kỳ đã lao mình vào cuộc chiến đấu cứu nước, chấp nhận hi sinh trong trận địa mà lực lượng quân sự về vũ khí tối tân hai bên không tương xứng. Người anh hùng này vừa ngã xuống, liền có những anh hùng khác giành giựt nhảy vào thay thế như thách đố cái chết. Họ rất can đảm, biết chỗ nguy hiểm mà vẫn cứ lao mình vào như hăng say, như điên cuồng với một quyết tâm phi thường đến nỗi kẻ địch cũng phải sửng sốt và kính phục…
Văn chương là thứ vũ khí sắc bén vừa để đánh thẳng vào địch và bọn hợp tác với chúng vừa để thúc đẩy lòng yêu nước của nhân dân. Văn thơ thời kỳ (1859 - 1885) đa dạng: hịch, văn tế, thơ, phú, vè, ca dao.
Quyển sách Miền Tây Dung Dị là tập hợp 27 bài phóng sự nhỏ như hai mươi bảy bức họa sống động, dựng nên không gian miền Tây sông nước với nhiều lớp cảnh khác nhau.
Đó có thể là những người níu giữ ngành nghề truyền thống dệt thổ cẩm Chăm, làm lồng đèn, làm chiếu cói hay gìn giữ những trang sách cổ đầy tri thức. Hoặc, những con người liên nối giữa thời chiến tranh và hiện tại bằng tình đồng đội của hai con người cùng tên Bảy. Có thể là những tấm gương người dân chân chất, tham gia thiện nguyện vì cộng đồng của ông Phước "luật sư", hay ông Huỳnh Khắc Nam người có số lần hiến máu cứu người cao kỷ lục của miền Tây 45 lần... Qua từng bài, độc giả sẽ dần nhận ra cảm xúc chung của những người con miền Tây sông nước, từ người Bí thư tỉnh ủy "thân dân" Lê Minh Hoan đến người dân bình thường nhất, đều hiện rõ sự tự hào về công cuộc đổi mới từng ngày của quê hương.
Xuất thân là nhà báo, từng bài viết của tác giả Dương Út thấm đẫm chất tin tức, với thông tin cuộn nối thông tin; nhưng cảm nhận sâu hơn, chúng ta có thể thấy ẩn sau đó là chất ký sự - tùy bút của văn chương chứ không còn đơn thuần là báo chí.
Cuốn sách là bộ sưu tầm đầy đủ tri thức, tầm nhìn, cách tư duy về quản trị nhân sự, đối nhân xử thế, sức mạnh tổ chức, đào tạo giáo dục, chăm sóc khách hàng, chân lý đầy giá trị, những quy tắc bất biến trong kinh doanh mà hàng trăm doanh nhân nổi tiếng trên toàn thế giới đã công bố qua hàng thập kỷ qua. Qua cuốn sách này, tác giả muốn giúp cho những doanh nhân Việt Nam, những nhà quản trị Việt Nam lĩnh hội được tư duy, kiến thức mới, đúc rút được những kinh nghiệm để xây dựng doanh nghiệp Việt Nam thành những doanh nghiệp hùng mạnh, tạo công ăn việc làm, xây dựng ra những sản phẩm tốt, bước ra thế giới đóng góp cho sự phát triển của đất nước và đưa Việt Nam trở thành một nước hùng cường.
Quyển sách này là một dẫn nhập ngắn vào triết học dành cho những ai không biết bắt đầu từ đâu với môn học này. Thông thường ta sẽ học Triết khi bước chân vào đại học, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì với bản chất của môn học này cả.
Các năng lực phân tích của ta thường phát triển nhanh chóng trước khi ta học được nhiều điều về thế giới, đây là quyển sách giới thiệu trực tiếp về chín vấn đề triết học, mỗi vấn đề có thể được hiểu một cách độc lập mà không cần tham khảo đến lịch sử tư tưởng. Triết học khác với cả khoa học lẫn toán học. Khác với khoa học, triết học không dựa trên các thí nghiệm hay quan sát, mà chỉ dựa trên tư tưởng. Và khác với toán học, nó cũng không có các phương pháp hình thức của chứng minh.
Có rất nhiều văn bản giới thiệu dẫn nhập xuất sắc bao gồm cả những tuyển tập từ các triết gia vĩ đại trong quá khứ và từ các trước tác gần đây hơn. Quyển sách nhỏ này không phải là một sự thay thế cho lối tiếp cận đó, nhưng hi vọng nó sẽ mang lại cái nhìn đầu tiên vào lĩnh vực này một cách trực tiếp và rõ nhất có thể.
Tess - Một Tâm Hồn Trong Trắng là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất trong số 14 tiểu thuyết của Hardy. So với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương và Sue xinh đẹp trong theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với quan điểm mâu thuẫn về đạo đức, tôn giáo, hôn nhân trong Jude-Kẻ vô danh thì Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng, nàng xinh đẹp một cách dân dã như một đóa hoa đồng nội. Nhưng số phận thảm thương, Tess bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận đen tối một cách cùng cực dù nàng chỉ có ước mơ rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Nhưng Alec một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới có mười sáu tuổi, sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích. Khi Tess kết hôn với Angel nàng đã thú nhận với chồng của mình về quá khứ vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và Angel nghĩ rằng mình bị lừa đã rời nước Anh đến Brazil lập nghiệp để suy nghĩ kĩ hơn về mối quan hệ vợ chồng anh.
Thông qua Tess - Một Tâm Hồn Trong Trắng, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kì Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu năm 1891 đã bị chỉ trích kịch liệt.
Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là mơ ước hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này.
Thần Đất - Ông Địa & Thần Tài
Sự hình thành của đất, nói rộng ra là của núi non, gò nồng, ruộng rẫ là đối tượng phản ảnh trong hầu hết các thần thoại sáng thể, và rồi đất là nơi cư trú vả nuôi dưỡng muôn loài. Do đó, đất trở thành đối tượng sủng tin của con người.
Trong phần lớn ngôn ngữ, đất có nhiều từ chỉ định, phổ biến là nhất là hai từ, ví dụ: Thổ và Địa. Ở đây, Địa là tử chỉ đất với tư cách là địa lý, địa chính, tức chi một khu vực đất có giới hạn. Còn Thổ là từ chỉ thuộc tính bản thể của đất - gọi là Thổ đức. Nó là một nguyên tố trong bộ nhân nguyên tố ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, hoặc là một đại trong tứ đại: Đất, Nước, Lửa, Gió.
Mâu Tử: Lý Hoặc Luận - Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng (nghiên cứu và phiên dịch)
Mâu Tử (chữ Hán: 牟子) tên thật là Mâu Bác (牟博). Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay) tu học và khai truyền đạo Phật tại đây.
Trước tác nổi tiếng của Mâu Tử là cuốn Lý Hoặc Luận, viết bằng chữ Hán. Sách gồm 37 câu hỏi đáp giữa tác giả và những người theo Đạo Nho (chủ yếu) và Đạo Lão (số câu ít hơn, chỉ từ câu 29 trở đi).
"Tại Việt Nam người đầu tiên dịch trọn vẹn tác phẩm này là Lê Mạnh Thát. Là người tiên phong, ông khó tránh những sơ suất trong phiên dịch mà chúng tôi sẽ chỉ ra trong bản dịch này. Tại phương Tây, Paul Pelliot là người đầu tiên dịch trọn vẹn Lý hoặc luận sang tiếng Pháp, cũng như John Keenan dịch toàn bộ Lý hoặc luận sang tiếng Anh. Chúng tôi tham khảo một số bản dịch sang Trung văn (có sẵn trên mạng) nhưng hầu hết đều sai sót rất nhiều và không hề giải thích hay chú thích lý do tại sao lại dịch như vậy. Bản thân Mâu tử là người dùng nhiều từ cổ, cộng thêm hiện tượng sao chép nhiều lần, điều này gây khó khăn cho người dịch không ít, mặc dù ý nghĩa thì rất rõ ràng".
"Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản và không "treo" vào quá nhiều sự kiện đòi hỏi được kiểm chứng. Nếu chấp nhận thời điểm sáng tác của Lý hoặc luận khoảng thế kỷ thứ 5 thì chẳng cần phải gắn nó với một truyền thống Phật giáo (như Pelliot và Lê Mạnh Thát) hay với một cuốn kinh (như Maspéro) vì vào thế kỷ thứ 5 tri thức Phật giáo chẳng còn xa lạ gì với Trung Quốc và mọi chi tiết liên quan đến Phật giáo trong tác phẩm Lý hoặc luận đòi hỏi phải được giải thích trên cơ sở phương pháp luận thông diễn tư tưởng Phật giáo của thời kỳ này, tức phương pháp "cách nghĩa" 格 義 mà Đạo An (314-385) và Huệ Viễn (334-416) là hai đại biểu nổi tiếng nhất". Đạo An là tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên dùng "cách nghĩa" để giải thích tư tưởng Phật giáo. Huệ Viễn là người chủ trương "thần bất diệt luận" mà Mâu tử lập lại. Đây chính là phương pháp thuyên giải tư tưởng Phật Giáo của chính Mâu tử: dùng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích Phật Giáo. Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng Lý hoặc luận ra đời vào thời gian này (cuối thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5)".
Thông Tin TS. Dương ngọc Dũng
TS. Dương ngọc Dũng sinh năm 1956, hiện là giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học KHoa học Xã hội và Nhân văn - TP.HCM.
Ông tốt nghiệp cử nhân Anh văn năm 1980, tốt nghiệp đại học Canberra (Úc) năm 1989, chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh (Graduate Diploma). Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Đông Á học tại Đại học Harvard (Mỹ) năm 1995, tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tôn giáo học tại Đại học Boston (Mỹ) năm 2001, tốt nghiệp MBA của United Business Institute (Bỉ) năm 2007.
Ngoài ra, ông từng giữ những vị trí quản lý cao cấp, đào tạo và tư vấn cho những tổ chức lớn như Samsung, LG Vina, Tổng lãnh sự Mỹ, Úc, New Zealand, Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, Bộ Tài chánh, Đài truyền hình Việt Nam, Tổng lãnh sự Singapore.
Vào năm 2016, TS. Dương Ngọc Dũng đã hướng dẫn Tổng thống Hoa Kỳ - Barack Obama thăm chùa Ngọc Hoàng.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Kinh dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB Khoa học Xã hội, 1999)
Triết giáo Đông Phương (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2003)
Lịch sử văn minh và các triều đại Trung Quốc (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2004)
Bút kiếm Kim Dung (NXB Văn học, 2005)
Đường vào triết học (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006)
Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học (NXB Hồng Đức, 2016)
“Được dạy hãy luôn cố gắng, nhưng với tôi, đôi khi buông bỏ còn cần nhiều sức mạnh hơn cả sự theo đuổi. Được hướng dẫn làm một việc có kế hoạch, nhưng tôi nhận ta học cách đối mặt với những thứ ngoài kế hoạch còn cần thiết hơn. Được khuyên “một nghề cho chín” nhưng tôi lại tìm thấy niềm vui trải nghiệm “chín nghề”. Mọi người nói về “bảo mật thông tin”, tôi lại cho rằng dám phơi bày cuộc sống của mình như một cuốn sách mở mới là hạnh phúc. Người ta thường mở trường, viết sách dạy cách luyện trí nhớ, tôi thấy buồn vì mình chưa học được cách quên. Mẹ bảo thân trong, tôi laiij muốn tin người cho đến chết…
Nhưng, lăng kính cuộc sống mỗi người tùy chọn, không có đúng sai. Điều duy nhất quan trọng, là bạn đã sống thật vui, và không để phút giây nào hoài phí. Tôi thấy mình sống trọn vẹn nhất khi ở… sân bay. (Lời của tác giả Cúc T.)”
Không phải là một tác phẩm văn học ăn khách đưa ra thị trường. Càng không phải là những trang viết dày dặn câu chữ, thấm đẫm hình tượng văn chương nghệ thuật để làm nên tên tuổi tác giả.
Cầm cuốn sách trên tay, có thể bạn đọc sẽ đọc những trang viết bình dị này bằng linh cảm. Linh cảm về một câu chuyện kể hình như không có trình tự thời gian, không có lối dẫn dắt hấp dẫn, không có sự sắp đặt hệ thống. Bằng lối tự truyện, nhà doanh nghiệp nữ Nguyễn Thị Sơn đã phác thảo một con đường đi đầy thăng trầm của chính cuộc đời mình. Một cuộc đời cũng như bao nhiêu cuộc đời khác sống trong bối cảnh đất nước đầy biến động của thế kỷ hai mươi. Và sức cuốn hút của cuốn sách chính là ở chỗ đó.
Gia dĩ đọc sách này lại thêm một lần tự ngẫm, hình như đâu đó trên đất nước nhỏ bé này, vẫn còn nhiều lắm những con người như thế, như cái cây có thể bị gãy cành qua gió táp mưa sa, có thể bị cuốn trôi theo dòng lũ, có thể lụi tàn... để rồi một ngày nào đó những chiếc lá lại xanh, những cành cây lại trỗi dậy vươn lên dưới bầu trời.
Tôi không biết chị là ai. Chỉ đọc cuốn sách này mà trong lòng thấy cảm động. Những gì mà người nữ doanh nhân này đã đóng góp cho đất nước, xin bạn đọc hãy tự suy ngẫm và chia sẻ.
Tôi chỉ xin chia sẻ với chị về chính tác phẩm này, bởi khi đọc xong tôi thấy cái nghiệp cầm bút giản dị của mình quả cũng thật vinh quang. Bởi vì nó giúp cho chúng ta, cho tôi và chị xích lại gần nhau hơn trong cái nhân gian CHÂN THIỆN MỸ.
Hà Nội ngày 22 tháng 2 năm 2006
Nhà văn Ma Văn Kháng
Bộ sách CẨM NANG TƯ DUY này dành cho mọi bạn đọc, từ học sinh, sinh viên đến các giảng viên, các nhà nghiên cứu, doanh nhân, người đã đi làm cũng như quý phụ huynh... muốn nâng cao năng lực tư duy của mình. Học sinh, sinh viên có thể đọc cẩm nang như tài liệu tham khảo để học tốt các bộ môn; quý phụ huynh có thể sử dụng cẩm nang để vừa nâng cao năng lực tư duy của mình vừa giúp con em mình phát triển các kỹ năng tư duy cần thiết để học tốt; các giảng viên, nhà nghiên cứu có thể sử dụng cẩm nang để học tốt; các chủ đề của mình; người đã đi làm, doanh nhân... có thể áp dụng các kỹ năng, ý tưởng của cẩm nang vào công việc và cuộc sống.
Bộ sách do “The Foundation for Critical Thinking (Quỹ Tư duy Phản biện) biên soạn. Đây là một tổ chức học thuật, cung cấp nhiều “cẩm nang” về tư duy khoa học được biên soạn chặt chẽ, chắt lọc, ngắn gọn và thiết thực, đúc kết nhiều thành tựu về phương pháp trên “mẫu số chung” là khuyến khích tư duy phân tích và phản biện, cùng với các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, học tập, và nghiên cứu một cách có thực chất, có chiều sâu và dễ dàng áp dụng vào cuộc sống.
Chứng Cứ Điện Tử Trong Thực Hiện Pháp Luật
Dữ liệu điện tử được Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Cạnh tranh năm 2018 xem là nguồn của chứng cứ. Luật Giao dịch điện tử năm 2023 đã giải thích hàng loạt các khái niệm có liên quan đến dữ liệu điện tử, quan trọng hơn, luật này quy định địa vị pháp lý dùng làm chứng cứ của các sản phẩm được tạo thành từ dữ liệu điện tử như: Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, giá trị pháp lý của chứng thư điện tử, giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, chữ ký số, dấu thời gian, giao kết điện tử và hợp đồng điện tử; tạo điều kiện cho việc ra đời một loại chứng cứ mới có nguồn từ dữ liệu điện tử, mà ta gọi là chứng cứ điện tử.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật có liên quan đến chứng cứ điện tử còn gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn, trước mắt là về nhận thức, thu thập, đánh giá, chấp nhận và sử dụng chứng cứ điện tử. Cuốn sách này nhằm giải quyết một cách cơ bản nhất các vấn đề nhận thức chung về chứng cứ điện tử, thu thập, đánh giá, chấp nhân và sử dụng chứng cứ điện tử, trong điều kiện có liên hệ đến hệ thống pháp luật Việt Nam thực tiễn áp dụng. Cuốn sách này được viết mang tính tổng quan, với các vấn đề được giải quyết ở mức độ cơ bản nhất.
Ý Và Tình
Hôm nay tình cờ mà cậu phải đứng lâu giữa đồng, đứng rồi tự nhiên ngó chơi mấy việc của nông phu đương làm, cậu ngó một hồi sanh cảm, trí bắt đầu nghĩ đến sự sống của kẻ ở chốn thôn quê. Từ đứa nhỏ cỡi trâu kia, cho tới đám đàn bà cấy lúa nầy, tới mấy anh đàn ông đứng trục và nhổ mạ đó, mỗi người đều dãi nắng dầm mưa cả năm, mọi người đều cực thân nhọc xác tối ngày, mà coi bộ ai ai cũng vui vẻ hăng hái, cực mà chẳng hề than phiền, nhọc mà chẳng hề thối chí… … Rõ ràng nông phu nước mình là hạng người vui vẻ mà chuyên cần lao, tận tụy với nghề nghiệp, sống thác với vườn ruộng, ai giàu sang mặc ai, ai khôn khéo mặc ai, miễn là mình an phận thủ thường, lòng bình tịnh, trí thơ thái thì thôi. Con người mà có đức tánh như vầy, thì sự sống tự nhiên vui vẻ khỏi buồn, khỏi lo, lại có thể giúp nhà thêm giàu, nước thêm mạnh…
Sách Tham Khảo Tiếng Trung - Tập 1 (Đọc Hiểu Và Dịch Thuật Chuyên Sâu)
Đây là cuốn sách hỗ trợ đọc hiểu và dịch thuật chuyên sâu tiếng Trung được biên soạn một cách chi tiết tỉ mỉ để hỗ trợ cho người học trong việc cúng cố, tích lũy từ vựng.
Sách đã được kiểm duyệt nội dung, phân tích rất chi tiết và dễ hiểu.
Tiền Bạc Bạc Tiền
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới...
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo... Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt trân trọng.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi