Tranh tường Khmer kế thừa thành tựu nghệ thuật tạo hình truyền thống mà trực tiếp là nghệ thuật trang trí nội ngoại thất tự viện, tranh cuộn trên vải/ preah bot, tranh vẽ trên giấy bìa "kờrăng". Do đó, tranh tường Khmer, độc đáo không chỉ về mặt đề tài mà cả về đặc trưng hình họa, màu sắc và phong cách tạo hình nghệ thuật. Chính vì vậy, tranh tường Khmer cần được tìm hiểu một cách nghiêm túc cả về nội dung và kỹ thuật để có sự hiểu biết đầy đủ. Bên cạnh đó, thông qua những bức tranh tường Khmer cho thấy thị hiếu thẩm mỹ và cái nhìn mỹ thuật không chỉ của người nghệ nhân tạo tác mà đó còn là của cả cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long này.
Phương pháp phê bình điện ảnh
Tác giả: Trần Luân Kim
Nhà nghiên cứu, lý luận phê bình Điện ảnh
Nguyên Viện trưởng Viện phim Việt Nam
Đã xuất bản 10 cuốn sách, trong đó 6 cuốn sách, trong đó 6 cuốn là đồng tác giả
Phương pháp phê bình điện ảnh
Lý luận - phê bình điện ảnh đồng hành và hỗ trợ sáng tác điện ảnh
Quyển sách Phương pháp phê bình điện ảnh của tác giả Trần Luân Kim đã đạt giải Nhì Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 2012 – 2017, gồm 4 phần: Chế tác phim truyện - Sơ thuật mấy vấn đề cơ bản; Phê bình phim truyện - Phương pháp và nội dung; Thực hành phê bình phim; Những bài phê bình phim.
Mở đầu
Là nghệ thuật tổng hợp nhiều cấp độ, nội hàm ĐIỆN ẢNH bao chứa các nội dung hoạt động với nhiều chuyên ngành khác biệt nhau. Trong đó, mỗi hoạt động hoặc mỗi chuyên ngành đều dung nạp khối lượng lớn kiến thức cùng hệ thống thủ pháp và kỹ năng thể hiện nghệ thuật hết sức phong phú, đa dạng. Lĩnh vực LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH ĐIỆN ẢNH, vì thế cũng trở nên đặc biệt rộng lớn và phức tạp.
Con đường tiếp cận, nghiên cứu điện ảnh thông qua lý luận - phê bình là con đường dài nhiều chặng, xuyên suốt các lĩnh vực hoạt động tổng hợp của điện ảnh; từ các yếu tố liên quan đến văn học, nghệ thuật tạo hình, dàn dựng cảnh, xử lý không gian thời gian, chọn lọc âm thanh, nghệ thuật diễn xuất... đến các vấn đề thuộc về tài chính, thương mại, cùng các lĩnh vực khác như vật liệu ghi hình, kỹ thuật tiền kỳ, hậu kỳ, phương thức quảng bá, v.v... Riêng lĩnh vực nghệ thuật, để nghiên cứu thấu suốt nghệ thuật điện ảnh, người ta không thể không đề cập tới hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp như mỹ học điện ảnh, tâm lý điện ảnh, ký hiệu điện ảnh, lịch sử điện ảnh, xã hội học điện ảnh,... Phạm vi rộng lớn của nội hàm điện ảnh đặt công tác lý luận phê bình điện ảnh vào một vị thế vừa chông chênh khó nhọc, vừa tinh vi lý thú.
Lý luận điện ảnh và phê bình điện ảnh là hai phạm trù gắn kết, hỗ trợ nhau chặt chẽ, không thể tách rời. Chính vì vậy, trước khi đề cập sâu lĩnh vực phê bình điện ảnh, thiết tưởng, tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật điện ảnh có mối liên quan trực tiếp đến phương pháp phê bình điện ảnh, là việc cần thiết.
Tác phẩm điện ảnh (rộng hơn là tác phẩm nghe - nhìn) tác động trực tiếp đến quảng đại công chúng, do đó lý luận điện ảnh có mối tương quan mật thiết với tiến trình phát triển xã hội. Sự đa dạng, phức tạp của xã hội, vì thế cũng in dấu đậm nét lên sự đa dạng, phức tạp của lý luận điện ảnh. Hoàn cảnh và các điều kiện khác nhau của xã hội quyết định đặc trưng cơ bản của lý luận điện ảnh. Lý luận điện ảnh phụ thuộc vào hình tượng điện ảnh, và hình tượng điện ảnh cũng đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc của xã hội, tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến nhận thức xã hội, tạo nên nguồn tác động hữu ích hai chiều. Từ đó có thể xác định rằng, lý luận điện ảnh là môi giới tích cực giữa hình tượng điện ảnh với xã hội. Cũng có thể nói khác: hình tượng điện ảnh là chốn ký thác tinh thần và tình cảm của các cá thể trong xã hội; qua đó mà thấu hiểu mình thông qua việc tham chiếu hình tượng điện ảnh.
Hình tượng điện ảnh là những mảnh vụn được kết nối từ lịch sử lịch sử của quá khứ và hiện tại. Chúng được ghép lại, qua lý luận phê bình điện ảnh, giúp ta nhận diện một phần lịch sử. Lý luận điện ảnh giải phẫu hình tượng điện ảnh, và góp phần kích thích lịch sử phát triển. Khi một hình tượng điện ảnh được đông đảo công chúng hoan nghênh, chứng tỏ nó đã làm tròn nhiệm vụ phản ánh một tâm lý xã hội tương đối phổ biến nào đó. Thông qua phân tích hình tượng, người ta có thể phát hiện và lý giải những mạch tâm lý ẩn chìm, và từ đó có thể cảm nhận nhịp đập của xã hội.
Lý luận điện ảnh đóng vai trò trọng yếu trong việc giải mã những ẩn tàng của nghệ thuật biểu đạt điện ảnh. Nghệ thuật điện ảnh thông qua hư cấu, tạo ra những dạng thái và hình tượng xã hội; được lý luận điện ảnh soi chiếu, phản ánh.
Lý luận - Phê bình điện ảnh là cây cầu, nối liền nghệ thuật điện ảnh với công chúng và xã hội. Vai trò quan trọng của lý luận điện ảnh là hướng đạo sự xuất hiện các hình tượng khác nhau; đồng thời luận giải xác đáng các hình tượng đó trước công chúng.
Giới lý luận điện ảnh phân chia nội hàm lý luận điện ảnh ra hai mảng chính: lý luận truyền thống và lý luận hiện đại. Lý luận điện ảnh truyền thống lấy phân tích tinh thần và phê bình hình thái ý thức làm trụ cột. Nó chủ yếu đề cập đến tác giả, tính hiện thực, tính giáo dục và tính thẩm mỹ. Lý luận điện ảnh hiện đại chủ yếu sử dụng hệ thống lý luận về ký hiệu học, về phân tích tinh thần, phê bình hình thái ý thức, chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hậu hiện đại... Lý luận điện ảnh hiện đại khởi phát cuộc cải cách phương pháp tư duy, quan sát điện ảnh từ góc độ ký hiệu học. Dòng lý luận này tuy chưa hoàn thiện, song về bản chất, mang tính phê phán và cải cách rất đậm nét. Nó đào sâu các vấn đề về bản tính điện ảnh cùng mối quan hệ giữa điện ảnh với xã hội, làm thay đổi quan niệm truyền thống về bản chất của mối quan hệ giữa nghệ thuật điện ảnh với hiện thực đời sống. Cả hai, lý luận điện ảnh hiện đại và lý luận điện ảnh truyền thống đều cùng song hành tồn tại, hình thành một cấu trúc lý luận tổng hợp. Tuy cả hai không thể hòa vào nhau thành một thể hệ lý luận thống nhất và hoàn chỉnh; song chúng có thể tham chiếu nhau, tạo ra mối quan hệ đa chiều; cung cấp cho xã hội nhiều khả năng lưa chọn, giúp lý giải điện ảnh từ nhiều góc độ phong phú khác nhau.
Ở Việt Nam, lý luận điện ảnh tiến bước chậm trễ. Mặc dù nền điện ảnh dân tộc đã hình thành và phát triển, cho đến nay đã ngót 60 năm, vẫn chưa xây dựng được hệ thống lý luận riêng. Trong nhiều năm, hoạt động điện ảnh Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào đường lối văn nghệ của đất nước cùng hệ thống lý luận chuyên ngành chủ yếu đến từ Liên Xô. Lý luận điện ảnh Việt Nam, như vậy, cũng chưa xây dựng được cơ sở lý thuyết cơ bản, ngay cả ở lĩnh vực thông dụng nhất là nghệ thuật chế tác phim. Trong hoàn cảnh đó, khi một phần lý luận điện ảnh hiện đại từ bên ngoài thâm nhập vào, điện ảnh Việt Nam chưa sẵn sàng điều kiện để tiếp thu chủ động và có chọn lọc. Quan niệm chi phối lâu nay ở ta coi điện ảnh là công cụ nhằm đạt tới các mục tiêu về đạo đức chính trị xã hội; đòi hỏi điện ảnh phải hàm chứa tính xã hội nổi bật, trên thực tế hình thành lý luận điện ảnh và xã hội. Trong điều kiện đó, tính thương mại đơn thuần trong điện ảnh không được khuyến khích, mà đòi hỏi yếu tố thương mại cũng phải phục vụ các mục tiêu lành mạnh của xã hội. Hiện nay, chúng ta cần từng bước hình thành cơ sở lý luận cơ bản cho nền điện ảnh dân tộc. Cần kết hợp lý luận điện ảnh truyền thống với lý luận điện ảnh hiện đại; vận dụng phù hợp với hoạt động thực tiễn; đồng thời đáp ứng tích cực nhu cầu phát triển của điện ảnh nước nhà trong tương lai gần và xa. Theo các bài viết giới thiệu phê bình phim đã được đăng tải trên các phương tiện đại chúng thời gian qua, có thể thấy, đặc điểm phương pháp lý luận của số đông tác giả là không thâm nhập sâu vào cấu trúc mỹ học của bộ phim, mà chỉ dừng sự quan tâm ở nội dung cũng như giá trị, khía cạnh văn học - xã hội của tác phẩm đó. Nhiều tác giả đã chú trọng phân tích hình thái ý thức của tác giả phim và tác phẩm. Và khi phân tích hình thái ý thức thì nhiều tác giả có xu hướng đi sâu vào mối quan hệ giữa dục vọng con người với quy phạm xã hội. Do tồn tại hiện tượng thiên lệch trong phân tích, không lấy ngôn ngữ biểu hiện làm trung tâm, nên phần lớn các bài phê bình phim chưa thực sự đụng chạm đến những vấn đề bản chất của nghệ thuật điện ảnh.
Trích đoạn:
Tính năng giải trí của điện ảnh
Người xem bình thường đều có nhu cầu giải trí khi thưởng thức điện ảnh. Họ coi điện ảnh là phương tiện giải tỏa các áp lực đời sống hàng ngày, an ủi những ước mơ không thể thực hiện được trong đời sống. Có người coi trọng công năng xã hội của điện ảnh, chủ trương gắn liền chức năng giải trí cùng chức năng giáo dục; thực hiện đạo đức hóa, cao thượng hóa, thể chế hóa giải trí.
Song cũng có người chủ trương đơn thuần hóa chức năng giải trí, tuyệt đối hóa vai trò giải trí của điện ảnh, rằng điện ảnh chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ đơn thuần của người xem, không có quan hệ gì với những vấn đề đạo đức xã hội và thẩm mỹ; vì nó đáp ứng bản năng của con người. Họ nhấn mạnh rằng người mua vé đến rạp chỉ cốt để mua vui, mà mua vui thì không cần gì khác ngoài cái lạ, cái khác thường và sự kích động. Đây là quan điểm cực đoan, biểu hiện của sự dễ dãi, bế tắc trong đường hướng và khả năng chế tác những tác phẩm có giá trị đích thực, đủ sức lôi cuốn đông đảo người xem. Giải trí là chính đáng, nhưng luôn cần đi đôi với đạo đức, làm cho con người phấn chấn, thoải mái và hướng thiện hơn.
* Qua kết quả điều tra và nghiên cứu thực tiễn, có thể phân khán giả điện ảnh thành bốn nhóm sau:
1. Phần lớn thích những truyện phim éo le có nhiều tình tiết hoạt náo.
2. Giới nữ say mê những câu chuyện khơi gợi tình cảm, gây động lòng.
3. Một bộ phận thích những cốt truyện hàm chứa không gian, thời gian dài rộng để có điều kiện theo dõi các thân phận và cá tính đặc biệt của nhân vật.
4. Khán giả trí thức chuộng những tác phẩm xây dựng được hình tượng nổi bật và có ý nghĩa sâu lắng, được xử lý nghệ thuật sắc sảo.
* Đối với phim truyện, những yếu tố được phần đông người xem ưa thích thường là:
- Có tựa đề gây chú ý.
- Có sự tham gia của diễn viên nổi tiếng.
- Có nhân vật bất hạnh, tạo thương cảm.
- Có nhân vật người hùng kiệt xuất, đủ tài trí vượt qua mọi chướng ngại hiểm nguy để giành chiến thắng.
- Có nhiều sự kiện căng thẳng gây hồi hộp.
- Tạo được hấp lực, cuốn người xem vào những tình tiết ly kỳ.
- Nghệ thuật thể hiện cao tay giấu kín được các tình tiết trọng yếu, khiến người xem phút chốc lạc bước trong suy đoán của mình.
- Đem đến ấn tượng khó quên sau khi xem xong phim.
Phim làm ra phải có người xem và có càng đông. Đó là quan điểm hợp thời.
Nhân vật điện ảnh
Trong sáng tác và chế tác điện ảnh, nhân vật là nhân tố trung tâm. Nói cách khác, khắc họa nhân vật là lao động sáng tạo quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn, tinh tế bậc nhất đối với tác giả điện ảnh.
Nhân vật trong phim vừa là hạt nhân thuật kể, là động lực triển khai cốt truyện; vừa là hạt nhân của xung đột kịch tính, là cơ sở tạo hình của tác phẩm. Nhân vật trong phim được đặt trong đòi hỏi cơ bản là phải đại diện cho một loại người nào đó; phải có tính cách rõ nét, tuyệt nhiên không phải là mẫu người chung chung; được thể hiện nổi bật qua hệ thống tình huống, sự kiện, và đối thoại tiêu biểu. “con người” ở đây được hiểu là con người tự nhiên, con người xã hội. “Nhân vật” ở đây là mẫu người được hư cấu và là ký hiệu của kết cấu kịch, là hình tượng điện ảnh do diễn viên sáng tạo nên. Trong tiềm thức mọi người, nhân vật là diễn viên, là vai diễn.
Miloud cúi xuống phía dưới quầy và phát hiện ra một thằng bé - chừng chín, mười tuổi chăng? - một thằng bé nhỏ xíu đang cố gắng kiễng lên để nhìn thấy ông... Trên nền đất cạnh nó là một chiếc vali nhỏ màu nâu, quai màu trắng hơi nhô lên, như đang đứng đợi xem những sự kiện tiếp theo sẽ diễn ra. Miloud, với một trí thông minh tuyệt đỉnh đã cho rằng cậu lỏi này hẳn là một học sinh nội trú... Người đàn ông và đứa trẻ ngắm nhìn nhau, quan sát nhau, người này ngạc nhiên, kẻ kia lại gần như lo sợ, cứ chiếu theo bộ mặt ốm yếu của nó thì biết, trên đó gắn cặp mắt to đang kêu gào trợ giúp. Thì cũng có cái để mà hoảng loạn đấy chứ: bản mặt đỏ bừng đang cúi về phía nó, cặp mắt gườm gườm, nửa miệng đã trơ lợi, giống hệt như miệng của Pat Hibulaire - con mèo đen to tướng với dáng vẻ tàn ác khiến ai nấy đều kinh hồn trong phim Mickey. Con mèo Pat Hibulaire ấy, nó làm cái khỉ gì trong trường trung học Lyautey nhỉ?
Trò Chuyện Với Vĩ Nhân
“Trò chuyện với vĩ nhân” tổng hợp những câu chuyện của thiền sư Osho về 20 triết gia, nhà tư tưởng, đạo sư lỗi lạc nhất lịch sử.
Danh sách những bậc vĩ nhân Osho bàn đến rất đa dạng: Ở phương Đông có Lão Tử, Trang Tử; phương Tây có Socrates, Pythagoras, J. Krishnamurtri, Heraclitus, những nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Đề Đạt Ma, Jesus Christ…
Dưới ngòi bút sắc sảo của Osho, cuộc đời, tư tưởng và hành trình giác ngộ của những bậc vĩ nhân hiện lên đầy sống động. Ông kể về thời thơ ấu bất hạnh của Krishnamurti, cái chết của Socrates, cuộc gặp gỡ giữa Khổng Tử với Lão Tử hay khoảnh khắc chứng ngộ của ni sư Chiyono.
Osho bình luận về tư tưởng của những nhà tư tưởng, những triết gia bằng sự hiểu biết và trải nghiệm uyên bác, nhưng đồng thời, dưới một góc nhìn giàu cảm xúc và tuyệt đối cá nhân, ông hết lời tán thưởng tư tưởng của những vị triết gia ông yêu, viết về họ đầy hài hước và sự hoan hỉ.
Nhưng song song đó, Osho cũng thẳng thừng chê bai và chỉ ra những quan điểm ông không đồng tình ở những nhân vật được bàn đến. Chẳng hạn, Osho cho rằng những lời dạy của Krishnamurti là “quá nghiêm túc” và “chưa chạm đến trái tim con người”. Hoặc, ông bình luận về tư tưởng của Friedrich Nietzsche – triết gia người Đức: “Chúng là những ngôn từ chết; chúng không có hơi thở, không có nhịp đập của trái tim”.
Qua mỗi bài viết, Osho truyền tải đến bạn đọc những điều ông xem là “chân lý”, liên quan đến tôn giáo, thiền định, bản chất của niềm vui sống. Vị đạo sư đặc biệt ca ngợi sự hài hước trong tôn giáo, thái độ sống tự nhiên, nổi loạn hay sự hoà mình vào dòng chảy cuộc sống.
Sách đưa ra nhiều kiến thức về thiền định: lý do ta cần thiền, ý nghĩa của sự sống và cái chết, lợi ích của thiền định đến cơ thể và tâm thức mỗi người, thông qua những lời giảng giải đơn giản với ngôn từ dễ hiểu của Osho về sự bình an, lòng trắc ẩn, sự minh triết, v.v... và những câu chuyện thực tế về cuộc đời và hành trình giác ngộ của các vĩ nhân như Bồ Đề Đạt Ma, Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Socrates v.v...
Những điều này, thật đáng ngạc nhiên, khiến người đọc liên hệ mạnh mẽ đến cuộc sống hiện đại, vốn ngày một nhiều bất trắc, xung đột và khó lường. Đâu đó, Osho khuyến khích (hoặc tiếp sức) cho chúng ta không ngừng đấu tranh và làm mới chính mình, thừa nhận những nghịch lý đồng thời trân trọng những vẻ đẹp mà cuộc đời ban tặng.
“Cuộc sống giống như bài thơ hơn là một món đồ ngoài chợ, nó phải giống như một bài thơ, một ca khúc, một vũ điệu, một bông hoa ven đường, bung nở tự nhiên, gửi hương cho gió, không hướng tới bất kỳ ai, chỉ đơn giản tận hưởng chính mình, được là chính mình”, ông nói.
Mọi người đều e ngại sự thân mật – đây là điều có thực, dù bạn nhận ra nó hay không. Thân mật có nghĩa là phơi bày chính mình trước một người xa lạ; tất cả chúng ta đều là những con người xa lạ, không hề quen biết nhau. Chúng ta thậm chí còn xa lạ với chính mình bởi ta không biết mình là ai.
Sự thân mật khiến con người xích lại gần nhau hơn. Bạn phải từ bỏ mọi sự phòng thủ, chỉ có như thế mới tạo được sự thân mật. Và bạn lo sợ rằng nếu bạn tháo gỡ hết những rào chắn, mọi lớp áo bảo vệ thì ai biết được cái người xa lạ kia sẽ làm gì với bạn đây.
Có đến nghìn lẻ một thứ mà chúng ta đang cố che giấu, không chỉ với người khác mà còn với chính bản thân mình, bởi chúng ta trưởng thành trong một xã hội với đủ kiểu ngăn cản, cấm kỵ. Và với một người xa lạ - bất kể bạn có sống cùng người đó trong 30 hay 40 năm, sự xa lạ vẫn không bao giờ mất đi - bạn cảm thấy an toàn hơn khi giữ lại chút phòng vệ, chút khoảng cách, bởi ai đó có thể lợi dụng những điểm yếu, những phần dễ tổn thương của bạn.
Nhưng vấn đề càng trở nên phức tạp hơn bởi không ai muốn xa cách. Mọi người đều muốn thân mật với người khác bởi nếu không, họ sẽ trở nên lạc lõng giữa thế giới rộng lớn này – không bạn bè, không người thương yêu, không một ai để tin cậy, để cởi mở tấc lòng và phô ra những vết thương âm ỉ. Vết thương không thể lành da, trừ phi bạn gỡ khỏi nó mọi thứ bưng bít, che đậy. Bạn càng che giấu, vết thương càng trở nên nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người. Thế nhưng, mọi người lại ngại thân mật – bạn muốn thân mật với người khác nhưng vẫn không muốn từ bỏ “chiếc áo giáp sắt” của mình. Đây là một trong những điểm đối lập giữa bạn bè, giữa những người yêu: Không ai muốn từ bỏ lớp rào chắn bảo vệ, và không ai muốn cởi mở hay chân thành tuyệt đối – tuy nhiên cả hai đều mong mỏi sự thân mật. Do đó, bạn phải là người khởi xướng. Bằng sự gần gũi và tình yêu, bằng cách cởi mở với nhiều người khác, bạn sẽ càng trở nên giàu có. Và nếu có thể sống trong tình yêu sâu sắc, trong tình bạn bền chặt, trong sự gần gũi thân thiết với nhiều người, tức là bạn đã có một cuộc sống đúng nghĩa. Và cho dù ở đâu, bạn đều học được cách sống và sống hạnh phúc.
Thân mật có nghĩa là mọi cánh cửa của trái tim đều mở ra chào đón bạn: bạn được mời vào và được đón tiếp như một vị khách. Nhưng điều đó chỉ xảy ra nếu bản năng giới tính của bạn không bị đè nén, lòng bạn không sục sôi những điều trụy lạc, và tâm hồn bạn phải thuần khiết. Tự nhiên như cây cỏ, trong sáng như một đứa trẻ - khi đó bạn sẽ không còn ngại thân mật. Thân mật cũng có nghĩa là tin tưởng ở chính mình và người khác.
Đó cũng chính là điều mà Osho đang tìm cách giúp bạn thực hiện: gỡ bỏ những thứ cột trói trong vô thức, để tâm trí bạn được thảnh thơi và trở nên bình dị. Không có gì đẹp đẽ hơn khi là một người đơn giản và bình dị. Khi đó, bạn có thể có bất kỳ người bạn thân thiết nào, bất kỳ mối quan hệ gần gũi nào bởi bạn không còn e ngại điều gì. Bạn sẽ giống như một trang sách mở mà bất cứ ai cũng có thể đọc. Chẳng có gì để che giấu.
Con người cần phải sống một cuộc sống trọn vẹn, tràn ngập niềm vui, và giống như một cuốn sách mở, luôn sẵn sàng cho bất cứ ai muốn đọc. Hãy sống, thay vì nghĩ đến việc sẽ được mọi người nhớ tới. Sớm muộn gì bạn cũng phải chết. Hàng triệu con người đã sống trên trái đất này và chúng ta thậm chí còn không hề biết tên họ.
Hãy chấp nhận sự thật đơn giản đó - bạn chỉ có mặt ở đây một số ngày rồi sẽ ra đi. Đừng lãng phí số ngày ngắn ngủi ấy vào những hành động giả dối hay nỗi lo sợ không đâu. Đó phải là khoảng thời gian đầy hân hoan và vui sướng bởi không ai biết trước được tương lai của mình. Thiên đường hay địa ngục có lẽ đều là những giả thuyết chưa được chứng minh. Điều duy nhất bạn đang nắm giữ trong tay chính là cuộc đời mình – hãy làm cho nó phong phú nhất trong khả năng của bạn.
Bằng sự gần gũi và tình yêu, bằng cách cởi mở với nhiều người khác, bạn sẽ càng trở nên giàu có. Và nếu có thể sống trong tình yêu sâu sắc, trong tình bạn bền chặt, trong sự gần gũi thân thiết với nhiều người, tức là bạn đã có một cuộc sống đúng nghĩa. Và cho dù ở đâu, bạn đều học được cách sống và sống hạnh phúc.
Nếu sống đơn giản, cởi mở, gần gũi, yêu thương mọi người, bạn sẽ tạo ra thiên đường cho chính mình. Nếu bạn sống khép kín, luôn trong tư thế phòng thủ, luôn lo lắng rằng ai đó có thể biết được suy nghĩ của bạn, giấc mơ của bạn, những sai lầm của bạn, thì cuộc sống đó chẳng khác nào địa ngục. Địa ngục ở ngay trong bạn – và thiên đường cũng vậy. Đó không phải là vị trí địa lý mà là không gian tinh thần của bạn.
Hãy thanh lọc bản thân. Thiền có nghĩa là quét dọn tất cả những thứ rác rưởi đọng trong tâm trí bạn. Khi tâm tĩnh lặng và trái tim reo ca, bạn sẽ sẵn sàng cởi mở và trở nên thân mật với người khác mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào. Khi có sự thân mật, vây quanh bạn sẽ là bạn bè và những người thân quý; nếu không, bạn sẽ thấy mình cô đơn giữa những người xa lạ. Thân mật là một trải nghiệm tuyệt vời mà mỗi người chúng ta đều không nên bỏ lỡ.
Thông tin về tác giả Osho:
- Tên thật là Chandra Mohan Jain, sinh ngày 11/12/1931, tại bang Madhya Pradesh, Ấn Độ
- 1951: Học Đại học Hatkirini và sau đó là Đại học Jain tại Jabalpur
- 1953: Chứng ngộ
- 1955: Tốt nghiệp khoa Triết, Đại học Jain và lấy bằng M.A Triết tại Đại học Sagar năm 1957
- 1958: Giảng dạy triết học tại Đại học Jabalpur và thực hiện những cuộc thuyết giảng trong cộng đồng
- 1962: Thành lập những trung tâm Thiền đầu tiên ở vùng quê nơi ông sinh sống và nổi tiếng như một người khơi dậy phong trào thiền học “đánh thức sự sống” (Jivan Jagruti Adolan)
- 1966: Ngừng giảng dạy đại học, dành toàn bộ thời gian cho việc thuyết giảng tâm linh. Lúc này, người ta biết đến ông với tên gọi mới: Acharya Rajneesh
- 1970: Giới thiệu phương pháp Thiền Năng động, hay còn gọi là Thiền Động, Thiền tích cực (Active Meditation). Chuyển đến Mumbai tháng 12/1970
- 1974: Chuyển từ Mumbai đến Pune, thành lập Trung tâm tu học rộng 24.000 m2 với khoảng 50.000 người theo học
- 1980: Bị một tín đồ Ấn Độ giáo đâm bị thương. Vết thương không nặng, nhưng sức khỏe ông bị suy giảm
- 1981: Đến Mỹ chữa bệnh, thành lập một làng tu học rộng 260 km2 tại bang Oregon. Vào thời kỳ cao điểm, có khoảng 200.000 hội viên và 600 trung tâm tu học theo tinh thần của Osho trên toàn thế giới.
- 1987: Bị trục xuất khỏi Mỹ
-1989: Chính thức lấy tên Osho
-1990: Mất ngày 19/01/1990 tại thành phố Pune, Ấn Độ.
Ngày xưa...
Cậu hoàng tử trẻ ở một vương quốc xa xôi kia là nạn nhân của số mệnh kim hoàng: tim cậu bị một vỏ thủy tinh bao phủ, không thể rung động cũng không thể thương yêu. Chỉ duy nhất ngọn lửa của tình yêu cháy bỏng mới làm tan chảy lớp thủy tinh và giải thoát con tim cậu.
Cậu quyết định rảo khắp các con đường trên thế gian để tìm ngọn lửa ấy...
Frédéric Lenoir chăm chút trái tim con người: trọng tâm của tình yêu, cũng là trọng tâm của nỗi đau.
Một câu chuyện giản dị và tinh tế, ấm áp và đầy tin yêu dành cho mọi người!
“…Những ngón tay run run chạm khẽ vào chiếc ấm đất, màu men tím thẫm ngả sang ánh tối rồi dựng lại ở vệt trắng mờ cong cong như cánh hoa khô… Nó chỉ dùng pha duy nhất một loại trà… Đây là chiếc ấm đất Tử Sa nhưng pha thêm chút tro hoa bưởi… Trà xuân núi Ngọc ướp hương bưởi rừng Thung Mây không chỉ thơm mùi hoa mà còn tròn nguyên vị sương của núi, nó chát đằm mà mượt như lụa, vừa nồng nàn hối hả như thời gian hữu hạn, lại êm và ngọt lửng lơ lững thững như khí xuân chưa muốn giao mùa…”
(Trích Hoa gạo đáy hồ).
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
Tác giả: Trần Thuận
Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học
Sinh ngày 02.12.1957
Quê quán: Thừa Thiên Huế
Từ 1977 – 1986 dạy học ở Thừ Thiên Huế
Từ 1986 – 2008 GIảng dạy tại trường Cao đẳng Sư Phạm, Đại học Bạc Liêu
Từ 2008 đến nay Giảng dạy tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
--- Đặc trưng nổi bật trong văn hóa Nam bộ là sự cộng cư và giao thoa văn hóa giữa các tộc người. Do đặc tính của vùng “đất mới”, quá trình khai phá và tạo dựng diễn ra trong bối cảnh có sự chung tay của nhiều lớp cư dân, của nhiều tộc người, cà cư dân bản địa lẫn di dân từ mọi miền đến đây. Trong bức tranh Nam bộ từ thế kỷ XVII – XVIII, và cả sau này, mỗi tộc người có mặt ở đây, cho dù có khác nhau về văn hóa truyền thống và tôn giáo… nhưng họ vẫn thể hiện được nhiều nét tương đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội…---
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa tập 3 sẽ đề cập đến những vấn đề sau: Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp; Đặc điểm lịch sử vùng đất Bình Dương thời khai phá (thế kỷ XVII - XVIII); Bức tranh văn hóa Nam bộ dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ XVII – XVIII); Chính sách của triều Nguyễn trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đất Nam bộ; Nhà Nguyễn thực thi chủ quyền đối với vùng biển đảo Nam bộ (giai đoạn 1802 - 1858); Vùng đất Ba Giồng trong cuộc chiến giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn ở Gia Định (1776 - 1788); Thương cảng Sài Gòn trong đời sống xã hội Nam kỳ thời thuộc Pháp; Lụa phương Nam; Tục thí giàn ở Nam bộ- Giá trị nhân văn và đôi điều trăn trở; Sài Gòn nửa đầu thế kỷ XIX qua ghi chép của người phương Tây; Sài Gòn trước lúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; Việc xác lập, bảo vệ chủ quyền Côn Đảo và cuộc đấu tranh của tù nhân giải phóng Côn Đảo góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Phụ nữ trong phong trào đô thị ở Sài Gòn góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước…
THAY LỜI NÓI ĐẦU
BẬP BÙNG ÁNH LỬA
Người dân Việt vốn mang trong mình ngọn lửa thiêng dân tộc được hun đúc hàng nghìn năm. Rời đất Tổ vào Nam khẩn hoang, dựng làng, mở cõi, ngọn lửa bập bùng xua đi gian khó, dẫn lối đưa đường tạo thế đứng hiên ngang. Ngọn lửa bập bùng xua bóng đêm đen, cháy cả tâm can nỗi lòng xa xứ, làm khiếp vía kẻ bạo tàn, thiêu rụi lũ xâm lăng, giữ gìn từng tấc đất cha ông đã bao đời gầy dựng.
Kháng chiến trường kỳ ngọn lửa lan nhanh, dân ta quyết phải giành tự do độc lập. Đất nước thanh bình, ngọn lửa thiêng thôi thúc, cháu con kết đoàn vượt mọi phong ba, xây dựng nước non ngày thêm tươi đẹp, để khỏi phụ lòng Tiên Tổ đã thắp sáng lửa tin yêu.
Mấy trăm năm trước, khi vùng đất này còn hoang nhàn đầy lau sậy, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh, đây đó cọp beo còn tung hoành ngang dọc, dấu chân người chỉ lác đác ở triền sông, cuộc Nam tiến cứ diễn ra như một dòng chảy bình thường, tất yếu của lịch sử, đã đưa lưu dân Việt đến đây cùng bà con Khmer đẩy lùi bóng tối. Họ ra công khai phá, tạo lập xóm làng. Năm 1620, cuộc nhân duyên Ngọc Vạn, con gái Phúc Nguyên với quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II mở ra chân trời mới. Prey Nokor, Kas Krobey chỉ là điểm khởi đầu, dấu chân Việt lan rộng dần khắp Gia Định - Đồng Nai. Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh hoàn tất về mặt pháp lý cho vùng đất phía nam Tổ quốc. Ngọn lửa bập bùng từ con cúi mang theo đã thắp sáng lên trong đêm dài tĩnh mịch, xua đuổi nguy cơ, xua đuổi nhọc nhằn. Đất lành chim đậu, nhưng nỗi nhớ cố hương, đau đáu ngày về, cứ trào dâng, quay quắt để tâm tư có cả buồn vui, để dâng lên thành câu hò, điệu hát.
“Ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”(1).
Ngọn lửa bập bùng réo gọi người ơi, quần tụ sẻ chia, chung lưng đấu cật, tạo dựng cuộc đời nơi đất khách xa xôi. Hoa - Việt - Khmer - Chăm,... thắm tình nhân nghĩa. Dẫu khác xa nhau về tập quán ở ăn nhưng cuộc sống lâu dần rồi trở nên quen thuộc. Khát vọng sống yên vui níu bước chân người cho những cuộc hôn nhân đầy thâm giao tình nghĩa ngày càng rộng mở gửi trao. Cónhững con người mang trong mình cả hai, ba dòng máu, hòa quyện trong tim cho ngọn lửa yêu thương thắp sáng lòng người. Những điệu hát Tiều, hát Quảng; Tuồng, Chèo, Hát bội; sân khấu Yukê,... tất cả ngân lên trong tình thân kết chặt. Tay bắt mặt mừng tình nghĩa thâm sâu. Ngọn lửa lòng sáng mãi đến muôn sau, cho cháu con truyền trao qua bao thế hệ.
Nắng mưa xin mãi chung tình,
Chín dòng sôngvẫn ngắm nhìn Thăng Long.
Và trong niềm cảm xúc dâng trào, ai đó cứ mãi ngâm nga:
Sài Gòn, Bến Nghé là đây,
Vẫn mang câu hát những ngày xa xưa.
Cuộc sống đói nghèo tăm tối dần cũng đi qua. Cuộc sống vui thêm trong những ngày lễ tết. Bánh tét, bánh chưng, ngọn lửa reo vui cho ngày đoàn viên hội ngộ, con cháu tựu tề bên bếp lửa ấm êm, phong vịquê hương làm nên tinh thần dân tộc. Ngọn lửa khơi thêm nỗi niềm xa xứ, cứ đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương. Sông núi tụ về, uống nước nhớ nguồn xưa, trên bàn thờ gia tiên, ngọn lửa lòng sáng lên tình nghĩa cháu con hướng về ngàn năm đất tổ. Vì cuộc sống đói nghèo đành phải ly hương, tha phương cầu thực, để cứ mãi trong lòng ray rứt khôn nguôi, từ cái thuở ra đi tìm sự sống, để ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long, người ơi xin hãy nhớ. Chỉ một cội nguồn không thể cắt chia:
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.
(Ca dao)
Chạnh lòng con sáo sang sông, sáo đi sáo lại về cùng nước non. Câu hát nghe sao màtha thiết thế. Cả cuộc đời này ai nỡ bỏ quê hương! Ai đã ra đi mà không từng bịn rịn, rời quê hương nào đã mấy ai vui!(1). Huyền Trân xưa cất bước ra đi mang về hai châu Ô, Rí. Ngọc Vạn sau tạo thế
đứng Đàng Trong để dải đất cực Nam về cùng Tổ quốc. Để con cháu muôn đời nhớ mãi đến ông cha. Để nước non này cứ mãi vươn xa.
Nỗi xót xa phận người vẫn đi cùng khúc hát hôm nay, để trong nắng xuân lòng người phơi phới. Hãy nổi trống lên, thắp sáng ngọn lửa thiêng để vui thêm ngày hội, lúa được mùa, cây trái đơm bông, cho dân gian thỏa lòng ước nguyện. Bàn tay chai sạn, mưa nắng dãi dầu, mồ hôi đổ giọt mặn môi. Đất không phụ lòng người, cao xanh đoái tưởng, ruộng đồng thẳng cánh cò bay, cho lớp dân đen cóngày mở mặt, trái ngọt cơm lành cho bõ những ngày lam. Cha ông xưa đồng khổ cộng cam để cháu con cóvùng đất hứa. Rắn rết muỗi mòng đã xua đi cùng quá khứ để môi sinh trù phú, cá tôm, lúa gạo đủ đầy. Trên vùng “đất mới” hôm nay, vùng đất một thời từng làm chơi ăn thiệt, cuộc sống thăng hoa, con người hào phóng không suy tính thiệt hơn, trung tín, thật thà, nghĩ sao nói vậy. Bạn bè tứ xứ đến đây, kẻ bán mua, người vui thú, hỷ hảo góp phần cho cuộc sống thêm tươi. Cảnh trí thiên nhiên thanh tú đẹp xinh, chứa đựng chất thi ca miệt vườn, sông nước.
Gió đưa gió đẩy,
Về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá,
Về đồng ăn cua.
(Ca dao Nam bộ)
Cả những nông phu lam lũ cũng vẫn lạc quan, cuộc sống chưa đến nỗi bần hàn để lo sau trước. Cứ vui vẻ với đời, thêm sức sống ngày mai. Được mùa ta quẩy thêm bầu rượu, có bạn tâm giao thỏa nỗi lòng.Vất vả mà khoan thai. Ngọn lửa cứ bập bùng tin yêu cuộc sống, cây đước, cây tràm mãi rướn sức vươn lên. Hào khí Đồng Nai rồi Chín con rồng quẫy mạnh làm nên diệu kỳ sức trẻ.
Ghe anh đỏ mũi trắng lườn,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
(Ca dao Nam bộ)
Việc đi lại ngày càng thêm thuận tiện, sông rạch nối liền tình cảm sẻ chia. Gia Định - Đồng Nai nối dài Cà Mau, Rạch Giá, tạo thế liên hoàn “chữ S” Tổ quốc ta. Ngón chân trước biển cứ mãi tì ra, cho sức sống thêm phần tươi trẻ, xóm làng vui văng vẳng tiếng ầu ơ. Ngọn lửa cứ lan nhanh cuộc đời thêm sáng sủa, dẫu tháng năm dài cũng ấm áp lòng nhau.
Mồ hôi đổ xuống tạo dựng cuộc đời, nhưng cuộc đời đâu có được phẳng phiu. Bao nỗi oan khiên cứ phận nghèo đeo đuổi. Những kẻ cường quyền không còn nhân tính luôn rình mò o ép dân đen. Lửa âm ỉ trong lòng kiếp lầm than trâu ngựa, bập bùng rực lửa đấu tranh, chống bất công, đốt cháy những điều bất nhân, bất nghĩa. Máu của cha ông phải đổ xuống rồi, để đòi công lý. Công khai phá bao đời phải giữ gìn cho con cháu mới yên lòng về với tổ tiên. Các thế hệ cháu con lấy làm cảm kích.
Giỏi giang và kiên cường anh dũng, không chịu sống quỳ, không chịu buông xuôi. Vừa đấu tranh chống cường quyền tham bạo, vừa rực lửa căm hờn thiêu cháy lũ xâm lăng.
Ngọn lửa Tây Sơn xóa bỏ sự phân tranh, lửa bùng lên ở Rạch Gầm - Xoài Mút cho quân Xiêm hết lối ngang tàng. Quân Pháp sang với tàu sắt đạn đồng, làm Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây(1). Lửa cháy Gia Định thành, lửa thiêu cả Đại đồn Kỳ Hòa, Đêm ngày ỏi tiếng Lang sa, thế nó càng ngày càng lộng(2), nhưng lửa đỏ kẻ thù chỉ làm cho quan quân triều đình khiếp sợ, màkhông thiêu cháy được thế trận lòng dân. Lòng người oán hận. Oán dường ấy, hận dường ấy, cừu thù dường ấy, làm sao trả được mới ưng(3). Cả Nam kỳ vùng dậy, lửa căm thù trút cả lên đầu Tây, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Trương Định,... cùng nhân dân làm cho kẻ thù bát đảo thất điên, lửa đốt cháy tàu Pháp Esperan, lửa bốc lên trên cánh đồng Nọc Nạng, lửa lan ra sáng cả Hòn Khoai trong Khởi nghĩa Nam kỳ; ngọn lửa rực trời Cách mạng mùa Thu, dân ta giành độc lập.
Kháng chiến trường kỳ lửa lại lan nhanh, lửa cháy nơi nơi, dân ta lại kề vai sát cánh, quyết phải giành cho được độc lập tự do. Quân Pháp thua to, nhưng nước nhàcòn chia cắt, ngọn lửa lòng lại âm ỉ, bùng lên. Khắp các miền quê đến tận đô thành phong trào dâng lên như thác đổ làm cho giặc Mỹ chơi vơi. Lũ tay sai muốn “đội đá vá trời” nhưng sức cùng lực kiệt. Lửa đô thành rực sáng cả đêm đen, rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn(1) cùng nhiều đêm không ngủ, vì non sông phải tiếp bước Lên đàng, cả miền Nam giục giã tiếng loa vang. Bập bùng lửa căm hờn hòa với tiếng hát bừng lên. Ta đi khơi sáng thêm ngọn đuốc thiêng từ bao đời. Lời ca bốc lửa đấu tranh sáng lên ngời ngời. Dậy mà đi, đồng bào ơi! Dậy mà đi, đồng bào ơi!(2)
. Ngọn lửa thiêng Bồ tát sáng rực lên một góc trời, ngời ngời chân lý, khiến Ngô gia không còn chỗ dung thân. Đế quốc Mỹ bàng hoàng, sau những thua đau phải cuốn cờ nhục nhã, đám tay sai vội vã đầu hàng, non sông ta lại liền một dải sau ba thập kỷ trường kỳ kháng chiến chống xâm lăng.
Ngọn lửa ngút ngàn, sức mạnh cả ngàn năm, làm cho trời yên mây tạnh, cho môi em thắm lại nụ cười, cho trời xanh thắm nắng xuân vui(3). Chiến công nối tiếp chiến công qua mấy ngàn năm hun đúc lại viết nên truyền thống hào hùng cho con cháu yên lòng gìn giữ non sông.
Ngọn lửa thiêng tụ về trong cuộc sống hôm nay để dắt dìu cháu con vượt qua muôn ngàn phong ba, thửthách, tìm đến bến vinh quang, xây dựng nước non này ngày thêm tươi đẹp, không phụ lòng tiền nhân đã thắp sáng lửa tin yêu. Đất trời giao thoa trong những ngày xuân, xin hãy thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương cho lòng người quần tụ, cho nhân loại bớt niềm đau.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về chư tăng và các ông Đạo
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ về cơ bản, thuộc dòng truyện ngụ ngôn dân gian truyền thống. Tức đó là các truyện ngắn bao gồm một tích truyện được kể nhằm đưa ra một thông điệp về nhân sinh, một kết luận luân lý, triết lý hay một ý răn đời hoặc một nhận xét về thực tế. Chủ đề hoặc để đề cao trí thông minh, phẩm chất chính trực, sự khôn ngoan, lòng nhân ái...hay giễu cợt, châm biếm thói đời xấu xa, nhân tình thế thái đầy ý vị.
Ở tập hợp các truyện ngụ ngôn sưu tầm được ở miền Tây Nam bộ, đặc biệt loạt truyện ngụ ngôn nói về thỏ, chó sói, rái cá, chồn, voi, chim sẻ... rất dễ nhận ra đây là truyện ngụ ngôn gốc từ kho tàng văn học dân gian của đồng bào Khmer, thậm chí có một số truyện vốn từ truyện ngụ ngôn Ấn Độ mà nguồn gốc cụ thể là từ tập truyện Sri Hiptopatế (Hiptopadesa), dị bản Nam Ấn của bộ truyện ngụ ngôn lừng danh Panchatantra.
Hiển nhiên là do quá trình cộng cư chan hòa của người Việt và người Khmer là tiền đề khởi tạo nên hiện tượng giao lưu – tiếp biến văn hóa này. Điều này đã làm phong phú đáng kể cho kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ.
...
Truyện cười ở Nam bộ, theo cách phân loại thông thường, có thể phân thành hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng.Tập hợp truyện khôi hài có hình thức như là những “trích đoạn” ngắn từ những sự việc xảy ra đây đó trong sinh hoạt hàng ngày: Tiếng cười được tạo ra là do một hành vi, một cử chỉ thất thường hay do vụng về trong lời đối thoại.
Các đối thoại diễn ra thì lời nói gây cười là câu nói ở đó xuất hiện một từ/cụm từ làm người nghe hiểu lệch hướng qua một nội dung khác. Đó có thể là cách chơi chữ kiểu “nhất tự lục nghĩa” tức cũng là từ đó, cụm từ đó được mở ra nhiều cách hiểu khác nhau, hướng sự việc được hiểu theo cách hài hước. Lại cũng phổ biến là cách cố ý đọc sai một số chữ Hán để sau đó đính chính lại nhằm biểu đạt ý kiến phê phán thói xấu nào đó của thế nhân.
Thêm nữa, cách đọc trại những câu châm ngôn chữ Hán vốn có ý nghĩa nghiêm túc thành ra câu nói nôm na thông tục dẫn đến một trường ngữ nghĩa cực kỳ táo tợn, thậm chí biến “thanh” thành “tục”...
Loại truyện khôi hài cũng thâu tóm các hành vi vụng về làm đối tượng phản ánh của mình. Ở đó, mỗi câu chuyện kể lại một sự việc và qua đó phơi bày các thói hư tật xấu của các hạng người trong xã hội đồng thời cũng hàm ý phê phán những tật xấu của các loại hạng ấy như thói ham mê cờ bạc, thói đĩ thõa, keo kiệt, hà tiện, hèn nhát, tham lam, dốt nát. Ở đây, tiếng cười dừng lại ở sự trào lộng hơn là đả kích như trong tập hợp truyện trào phúng,Truyện trào phúng là truyện châm biếm mang đậm ý nghĩa nhân sinh, được coi là tiếng cười xã hội. Ở đó, mũi nhọn tập trung vào các mối quan hệ xã hội trong các nhóm xã hội cụ thể.
…
3. Một số truyện thuộc hệ thống truyện Trạng Quỳnh đã xuất hiện ở vùng đất này năm 1866 trong tập Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký và truyện Ba Giai - Tú Xuất, sau đó, cũng xuất hiện trong tập Chuyện khôi hài cũng của tác giả này, xuất bản năm 1882. Đây là chứng cớ cho thấy kiểu truyện trạng ở miền Bắc đã có mặt ở phương Nam. Chúng ta không có bằng chứng cụ thể, nhưng có thể dự đoán được rằng những khuôn mẫu của truyện trạng từ miền Trung, miền Bắc cũng đã theo chân những lưu dân vào đây từ khá lâu đời. Đều đó giải thích sự tương đồng của những mẫu đề của truyện cười và truyện trạng ở Nam bộ với các truyện trạng truyền thống và xác định truyện trạng Nam bộ kế thừa và phát triển dòng truyện trạng Việt ở một tọa độ địa lý – lịch sử mới.
Đến nay truyện trạng Nam bộ gồm truyện Thằng Dày, truyện Tư Nụm, truyện Ông Ó, truyện Ông Me, truyệnBảy Lẹ, truyện Bộ Ninh, truyện Tám Cồ, truyện Tám Chợ, truyện Hồng Cẩm Miêu và truyện Bác Ba Phi. Ngoài ra, chúng ta cũng được biết đến các ông trạng ở các miệt khác như Ông Cheo, Trùm Pho, Mười Công ở vùng Thủ Dầu Một xưa hay ở đất Gia Định xưa, nhưng số lượng truyện của các ông trạng này hầu như đã thất truyền, chỉ còn một vài truyện mà nay có thể sưu tầm được như truyện Ông Cheo đẽo cẳng lấy dăm nấu nước pha trà, truyện Ông Mười Phoăn thịt cheo nướng chấm cát thay vì muối, truyện Ông Mười Công kể về con sáo biết nói của bà nội... Đa phần các truyện trạng Nam bộ, không nhiều thì ít chen lẫn với một số truyện cười đậm chất trào lộng hơn là trào phúng.
+ TRUYỆN NGỤ NGÔN
- MẮT VÀ MŨI; CON GÁI CẦU CHỒNG ĐẠI VƯƠNG; ĐẠI TRƯỢNG PHU, CHÍ QUÂN TỬ VỚI PHÚ TRƯỞNG GIẢ; NGÀY CUỐI CÙNG THÀNH PHẬT; LÀM ƠN MẮC OÁN CỨU VẬT, VẬT TRẢ ƠN; MƯU TRÍ HƠN LÀ SỨC MẠNH; TU THẬT - TU GIẢ; PHƯỢNG HOÀNG HAI ĐẦU; THÀ IM CÒN HƠN NÓI; GIEO GIÓ GẶP BÃO...
+ TRUYỆN CƯỜI
* TRUYỆN KHÔI HÀI
* LỜI NÓI
* HÀNH VI
* CỬ CHỈ
* TẬT
* TRUYỆN TRÀO PHÚNG
TRÀO PHÚNG 1-2-3-4: THÓI HƯ TẬT XẤU CÁ NHÂN (GIA ĐÌNH - TRONG LÀNG NGOÀI NGÕ - HƯƠNG CHỨC VÀ QUAN LẠI)
+ TRUYỆN TRẠNG
TRUYỆN THẰNG DÀY; CHUYỆN THẰNG DÀY; TRUYỆN ÔNG Ó; TRUYỆN BỘ NINH; TRUYỆN TÁM CỒ; TRUYỆN ÔNG ME; TRUYỆN BẢY LẸ; TRUYỆN TÁM CHỢ; HỒNG CẨM MIÊU; TRUYỆN BA PHI…
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ - Tập 1 Quyển 2: Truyện kể dân gian Nam bộ ( Truyền thuyết địa danh và thôn xã; Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các Ông Đạo)
Tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương (Biên soạn)
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các ông Đạo
Thực tế, tín niệm thiên định luôn cộng tồn và xung đột với quan niệm “nhân định thắng thiên”. Rõ ràng vùng đất mới phương Nam thời khai hoang, tuy đất đai màu mỡ, nguồn thủy sản phong phú, thời tiết khí hậu thuận lợi, song còn hoang hóa, dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um, muỗi mòng, rắn rít... là trở lực to lớn. Đó là cơ sở thực tiễn của thái độ lưng chừng giữa thiên định và nhân định.
Ở các truyền thuyết kể về nguồn gốc địa danh và lai lịch làng xã đã phản ánh những sự tích, những tấm gương của các bậc tiền bối đã “đâm hà bá phá sơn lâm” để thiết lập nên làng xã. Đó là những nỗ lực giành được thắng lợi trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên.
…
Một trong những loại truyện kể tiêu biểu cho công cuộc khai phá vùng đất mới là tập hợp chuyện kể về thú dữ: sấu, rắn, trâu hoang, heo rừng và đặc biệt là truyền thuyết và giai thoại về cọp. Ở đây, các truyện kể bao gồm cả truyền thuyết lẫn giai thoại – hay nói thông tục hơn là một thứ “ký sự lịch sử” bởi tính chất chỉ định về thời gian, địa điểm và tên người, tên đất cụ thể, và đặc biệt nó phản ánh chân thực thực tế lịch sử của buổi đầu khẩn hoang của từng địa phương, của từng vùng đất. Các giai thoại cười ra nước mắt về cọp đã chỉ ra nỗi ám ảnh về mối đe dọa của cọp; ở đó, có những giai thoại được xác định thời gian diễn ra mới vào những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ XX. Khi cộng đồng làng tổng đã biết chống cọp bằng súng chứ không thuần là võ nghệ, ví khại, gậy gộc, roi trường và gươm giáo.
…
Nếu trong tập hợp truyện kể về thú dữ, tiêu biểu là chùm truyện kể về cọp hàm chứa những tín niệm dân gian về tín ngưỡng thờ thần hổ lẫn tín niệm thiên nhân tương ứng, theo phương châm “Đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần kinh” thì trong truyền thuyết lịch sử, một biến tướng đặc dị của tín niệm “thiên nhân tương ứng” là tín niệm chủ đạo trong hàng loạt các truyền thuyết liên quan đến thời đoạn bôn ba của Nguyễn Ánh, thường gọi là thời “tẩu quốc”. Ở đó, Nguyễn Ánh được xác tín là một vị “chúng vi vương”, tức có được thiên mệnh nắm giữ ngôi báu trong tương lai. Đó là cơ sở tạo nên hàng loạt các tình tiết hoang đường về việc trên đường bôn tẩu bị quân tướng Tây Sơn truy đuổi đã được trâu đưa sang sông, được rái cá xóa dấu chân, được sấu/ cá ông hỗ trợ, được trời ban cho dòng nước ngọt khi sắp chết khát trên biển, được trời làm mưa giúp ngăn chặn, đánh lạc hướng quân Tây Sơn....
Nói chung, dù việc thêu dệt ra những truyền thuyết này là vô tình hay cố ý thì hiện tượng này đã chỉ rõ tín nhiệm “thiên nhân tương ứng” là một tín niệm phổ biến của thời đại ấy. Nói cách khác, tín niệm này là một tín niệm quan trọng định hướng cho sự ảo hóa của nhiều truyền thuyết ở vùng đất này.
…
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, nhiều biện sự ứng hợp với các giai đoạn lịch sử cụ thể, một giai đoạn lịch sử vinh quang và đầy bi phẫn, các câu chuyện về những người anh hùng kháng Pháp lại bị chi phối bởi những tín niệm cơ trời, vận trời. Sự thật lịch sử hiển nhiên là tất cả những nỗ lực đầy nhiệt huyết nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược trong giai đoạn này đều thất bại. Thế nhưng đối với người dân Lục tỉnh, tác giả những truyền thuyết và giai thoại kháng Pháp lại lý giải theo cách riêng của họ: đất nước đang hồi bĩ cực, cơ trời chuyển xoay như vậy nên phải vậy.
…
Tín niệm thời thế này có một điểm chung với một quan niệm xuất phát từ các giáo thuyết thời thượng khác của các tôn giáo cứu thế, những tôn giáo địa phương mà giáo thuyết mang tính chất tổng hợp cả Nho, Phật, Lão đang thu hút một bộ phận dân cư Nam Kỳ trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật của thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này là nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng, cơ cấu xã hội nông nghiệp cổ truyền bị xáo trộn dữ dội, những chuẩn mực đạo đức, văn hóa truyền thống đang đối đầu với những trào lưu tân thời ngoại nhập... Do vậy dưới nhãn quan của những người ưu thời mẫn thế, sau những cuộc đấu tranh võ trang thất bại thì thực tế lịch sử – xã hội đó cũng được xác tín đúng là thời mạt pháp(theo Phật giáo) hoặc là thời hạ ngươn (tức hạ nguyên– hiểu theo dịch lý Nho – Đạo). Đây là một khẳng định có tính chất tiên tri mà Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên đã phán truyền trước đó và bây giờ lại tỏ ra ứng nghiệm nên giờ đây được tiếp tục xiển dương.
Hạ ngươn Giáp tí (1864) đầu niên,
Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào.
(Văn Sư Vãi bán khoai)
Theo niềm xác tín này, tín đồ các tôn giáo cứu thế Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa (và sau này là Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và các ông đạo khác) cho rằng thần Phật sẽ cho một vị minh vương xuống trần để cứu đời độ thế, khuyến thiện trừng ác và lập hội Long hoa: mở ra một thượng ngươn mới. Từ đó, một loạt các ông đạo ra đời, dưới những danh xưng khác nhau với hệ thống giáo lý đôi phần dị biệt.
Trong thực tế, những người “kế vị” Phật thầy Tây An như Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Đức Bổn Sư Ngô Lợi, cậu Hai Như, ông Cử Đa và thậm chí sau này, ông Đạo Tưởng... đều chủ trương kết hợp đạo với đời, vận dụng giáo thuyết cứu thế vào mục đích chống Pháp.
+ TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH VÀ THÔN XÃ
−TRUYỀN THUYẾT VỀ THÁC TRỊ AN; SỰ TÍCH TÊN GỌI SÔNG CHÂU PHÊ; ĐẦU TÂY - ĐUÔI HEO - RUỘT NGỰA - ĐÍT LỬA; GIỒNG ÔNG TỐ; ĐỊA DANH CAO LÃNH DO ĐÂU MÀ CÓ; GIÀU NHƯ ÔNG CAI LỮ, MƯU SỰ NHƯ ÔNG THUỘC NHIÊU; TIỀN HIỀN CỦA ĐẢO PHÚ QUỐC; ÔNG GIÀ BA TRI; THẦN CẢ LÀNG KIM SƠN; ÔNG CẢ TRƯỚC Ở TRẢNG BÀNG; SỰ TÍCH CẦU THỊ NGHÈ; CẦU HƯƠNG LỄ; SỰ TÍCH HÒN CAU VÀ HÒN TRẦU; SỰ TÍCH BÃI ÔNG ĐỤNG VÀ CÂY CỎ NÀNG HAI….
+ TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ THÚ DỮ
ÔNG CẢ CỌP MỸ ĐIỀN; THẦN HỔ BA CHÂN; VÌ SAO CÓ CỒN ÔNG HỔ; BÀ MỤ TRỜI; SỰ TÍCH ĐÌA BÀ THẦY; SỰ TÍCH CỌP BA CHÂN; CỌP TU; SỰ TÍCH CÙ LAO ÔNG HỔ; ÔNG BÀ BẮT CON CHÁU CON CHÁU BẮT ÔNG BÀ; CỌP BẦU LÒNG VÕ TÒNG TÂN KHÁNH; CỤ THÁM XOÀI ĐÁNH CỌP; BÀ HỚN BÀ HỞ; GIẾT CỌP GIỒNG GĂNG; SỰ; CHUYỆN ĐÁNH THUỐC CỌP; GIẾT HỔ CỨU BẠN; SỰ TÍCH BA NGÔI MỘ; NGƯỜI ĂN ONG VÀ CHÚA RỪNG; CÔ GÁI HỌ MA; SỰ TÍCH ĐỊA DANH MỎ CÀY; CỌP HÓA RA CHÓ; CON “CHỒN” Ở RẠCH GIÀ; ĂN TRỘM VÀ CỌP RÌNH NHÀ; BẮT CỌP ĂN SÁP, NGƯỜI... KHỎI CHẾT; SỰ TÍCH THẦN TRỪ THÚ DỮ ĐẤT LONG ĐIỀN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG CÙ; TẠI SAO CÓ ĐỊA DANH BẾN NGHÉ; ÔNG ĐÌNH TÂY VÀ CON SẤU “NĂM CHÈO”; BẠCH XÀ HẠ MÃNH HỔ; NGƯỜI THẦY RẮN Ở ĐỒNG THÁP MƯỜI…
+ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ THỜI CHÚA NGUYỄN, TÂY SƠN VÀ NHÀ NGUYỄN
MIẾU ÔNG BẦN QUÌ (SỰ TÍCH SÔNG XÁ HƯƠNG); SỰ TÍCH ĐỒNG QUAN; SỰ TÍCH TÊN GỌI RẠCH GẦM; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ LINH THỨU MỸ THO; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ TAM BẢO RẠCH GIÁ; LANG LẠI ĐẠI TƯỚNG QUÂN; SỰ TÍCH HÒN BÀ VÀ HÒN CẬU Ở CÔN NÔN; TƯỚNG CƯỚP HOẮC NHIÊN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG THẦN MINH; LÊ VĂN KHÔI (SỰ TÍCH ĐỒNG MẢ NGỤY); NGANG NHƯ ÔNG HOÀNH, ÔNG TRẮM; LAI LỊCH ĐỊA DANH THỦ THỪA…
+TRUYỀN THUYẾT VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG PHÁP
−TRUYỆN KỂ VỀ PHAN THANH GIẢN; TÁM CHỮ GIẾT NGƯỜI; TRƯƠNG ĐỊNH VÀ NGƯỜI VỢ ĐẤT GÒ CÔNG; NGƯỜI CON GÁI BẾN NGHÉ; SỰ TÍCH ÔNG THẦN KHÔNG ĐẦU; MƯỜI TÁM DŨNG SĨ CỦA TRƯƠNG ĐỊNH; TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN TRUNG TRỰC; ÔNG CHÁNH LÃNH BINH NGUYỄN HƯƠNG; ÔNG DẬT - ÔNG ĐÀ; NGƯU QUÂN THƯỢNG TƯỚNG; SỰ TÍCH VÀM HỔ CỨ; NGUYỄN HỮU HUÂN; TRẦN BÁ LỘC BỊ TIỀN QUÂN NGUYỄN HUỲNH ĐỨC TRỊ TỘI; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG GỐC VÀ BẾN TRƯỜNG ĐỔI; VƯỜN TRẦU DẤY NGHĨA; PHAN XÍCH LONG HOÀNG ĐẾ; ĐỨA CON THỨ 13 CỦA ĐỨC PHẬT…
+ TRUYỀN THUYẾT VỀ CHƯ TĂNG VÀ CÁC ÔNG ĐẠO
−TĂNG NGỘ; SƯ TỔ ĐỈA; CHUYỆN TÌNH NƠI CỬA PHẬT; BÀ BA NGỠI; SỰ TÍCH CHÙA TRÀ NỒNG; CHÙA THẦY THIẾM Ở NÚI SẬP; PHẬT THẦY TÂY AN; ÔNG ĐẠO LẬP; ÔNG CỬ ĐA; ĐẠO SĨ NÚI TÀ LƠN;; ĐẠO TƯỞNG; THÁI THƯỢNG HOÀNG MINH; NGƯƠN SOÁI NGUYỄN NGỌC ĐIỀN; ÔNG ĐẠO GÒ MỐI…..
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
Nghiến Răng Nỗ Lực, Vươn Lên Dẫn Đầu
Điều làm tôi ngạc nhiên nhất về nhân loại là chính bản thân con người. Họ hy sinh sức khỏe để kiếm tiền. Sau đó họ hy sinh tiền bạc để lấy lại sức khỏe. Rồi họ lại lo lắng về tương lai đến mức không biết tận hưởng hiện tại. Kết quả là họ không sống cả trong hiện tại lẫn tương lai. Họ sống như thể mình sẽ chẳng bao giờ chết, để rồi chết đi mà chưa từng sống đúng nghĩa” - Đức Đạt Lai Lạt Ma -
*****
Daymond John hiểu rõ việc thúc đẩy bản thân cố gắng có ý nghĩa gì, và ông càng hiểu rõ thành quả mà một nguyên tắc làm việc quyết liệt sẽ mang lại. Từ kinh nghiệm của chính ông, đó là một dòng sản phẩm thời trang khiêm tốn - những chiếc mũ đan tay giá 40 đô-la - đã vươn mình thành thương hiệu FUBU với doanh số 6 tỉ đô-la hiện tại.
Có thể bạn tin rằng có một con đường tắt nào đó để leo lên đỉnh cao, nhưng John khẳng định rằng chẳng có con đường nào như thế cả, ngoại trừ nghiến răng nỗ lực để vươn lên dẫn đầu. Bạn phải nghĩ xa hơn, xoay xở khéo léo hơn và đạt năng suất tốt hơn tất cả những người xung quanh, và bạn phải làm thế mỗi ngày.
Đó cũng chính là những gì Daymond John muốn nhắn nhủ đến độc giả trong Nghiến răng nỗ lực, vươn lên dẫn đầu. Cuốn sách đúc kết những kinh nghiệm của rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong hành trình vươn đến đỉnh cao, với cốt lõi là một tinh thần bền bỉ không ngừng: vươn dậy và nỗ lực.
Giờ Là Lúc Sống Trong Tình Yêu
Khi tình yêu thấm đẫm các mối quan hệ, nó mang lại sự chân tình, thân ái bền chặt.
Khi tình yêu tuôn chảy trong công việc, nó khơi nguồn sáng tạo và tầm nhìn vô hạn.
Khi tình yêu bay vào hành trình tâm linh, nó dẫn đưa đến sự tỉnh thức.
Khi bạn đi trên con đường chông gai của cuộc sống, gặp phải những thử thách bất ngờ, thì chính tình yêu này trở thành nguồn ân huệ cứu rỗi của bạn. Giờ đây, tình yêu lại đang mời gọi bạn tái khám phá nó một cách trọn vẹn, để mở rộng bản thân theo cách mà bạn chưa từng biết đến, để học cách sống trong tình yêu, và sống như tình yêu.
Khi yêu, bạn không cần phải ở trong một mối quan hệ nào đó. Bạn không cần phải chinh phục những nỗi sợ hãi của mình. Bạn không cần phải được chữa lành hoàn toàn khỏi quá khứ. Điều duy nhất bạn cần làm là cảm nhận tình yêu đã bùng cháy bên trong bạn, một ngọn lửa không thể bị dập tắt, mặc cho biết bao giông tố đã cố nuốt trọn ánh sáng của nó.
Chúng ta đang sống trong những thời điểm bất ổn và đáng lo ngại trên hành tinh này. Chúng ta rất dễ thấy tuyệt vọng, rút lui, bỏ mặc và quay lưng, bởi có quá nhiều những khắc nghiệt, hận thù, cũng như đau khổ. Nhiều người trong chúng ta cũng đang trải qua những thay đổi cá nhân ngoài dự tính, những thách thức ở bên trong lẫn bên ngoài khiến chúng ta có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời.
Từ ngữ trong quyển sách này không chỉ đơn thuần là từ ngữ – chúng là những cây cầu rung động, là những cánh cổng rung động được tạo thành để bạn đi qua. Nội dung lay động, tươi sáng sẽ kích hoạt sự tỉnh thức cao nhất của bạn, và cho phép bạn trải nghiệm những mặc khải và khai phá của riêng bạn. Giống như bất kỳ món quà nào, Giờ là lúc sống trong tình yêu không được sinh ra chỉ để ngắm nhìn và ngưỡng mộ, mà là để được mở ra, nghiền ngẫm và vận dụng vào cuộc sống.
Hãy trải nghiệm quyển sách như thực hiện một cuộc hành hương đầy ý nghĩa sâu sắc và soi sáng cho bạn. Cho dù chúng ta nghĩ mình đang chữa lành được bao nhiêu đi nữa, ta vẫn có thể chữa lành sâu sắc hơn và buông bỏ nhiều hơn. Cho dù chúng ta nghĩ mình đang yêu thương nhiều đến thế nào đi nữa, ta vẫn có thể yêu thương nhiều hơn.
NYM - Tôi Của Tương Lai
Sự phát triển vượt bậc của công nghệ trong xã hội đã tạo ra sự khác biệt giữa các thế hệ loài người. Khi nói đến Thế hệ X, người ta nghĩ đến sự tiết kiệm, giản dị và hướng đến sự ổn định trong cuộc sống. Nói đến Thế hệ Y, những từ thường được dùng là: tự tin và giỏi công nghệ. Còn bây giờ, chúng ta đang đứng ở một thời điểm vô cùng quan trọng trong quá trình chuyển giao tới thế hệ Z – thế hệ nhiều thay đổi nhất mà chúng ta từng biết.
Thế hệ Z (GenZ) của những người sinh từ năm 1995 còn được gọi là iGen bởi thế giới của họ là “iEverything”, với sự phát triển cực thịnh của IoT và trí tuệ nhân tạo. NYM – một sản phẩm trí tuệ nhân tạo được phát triển bởi tác giả Nguyễn Phi Vân, “đứa” luôn tự nhận mình là thế hệ loài người tiếp theo chính là đại diện của một GenZ xuất chúng trong tương lai. Và NYM cũng là nhân vật chính, một người dẫn dắt trong quyển sách mới nhất của chị Nguyễn Phi Vân: NYM – Tôi của tương lai.
Với NYM – Tôi của tương lai, tác giả Nguyễn Phi Vân sẽ khiến chúng ta đi lạc vào một thế giới mới: nơi một “con robot” luôn tự nhận mình là người hơn một con người; nơi hai AI bàn luận về sex; nơi AI giải nghĩa cho chúng ta những phát minh sẽ định hình thế kỷ mới...
Những mẩu tâm sự của Nym – một trí tuệ nhân tạo – đại diện cho những thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang thay đổi cục diện hệ sinh thái của con người, mối quan hệ bản chất người – máy. Máy móc đang thay đổi cách chúng ta trải nghiệm và thỏa mãn những nhu cầu từ bản năng nhất như “ăn, ngủ, tình dục” đến nhu cầu bậc cao hơn như an toàn, nhu cầu xã hội – kết đôi, nhu cầu được tôn trọng – thừa nhận (với tín nhiệm công dân số), rồi nhu cầu được bất tử (với digital afterlife). Công nghệ cũng đã thay đổi bản chất về sự học, về giáo dục, và thế giới nghề nghiệp tương lai.
Cảm nhận của Nym cũng chính là những cảm giác hoang mang, hốt hoảng, bất an, choáng ngợp của chính chúng ta trước sự trưởng thành và thông minh của máy móc, những nguy cơ tổn thương sức khỏe tâm thần của con người trong xã hội tương lai. Con người đã thua máy móc ngay từ vạch xuất phát nếu vẫn giữ giáo dục đồng phục, giáo dục tường bao (giáo dục giới hạn trong lớp học và trong bốn bức tường). Máy móc sẽ tranh hết tất cả những công việc con người có thể làm nếu giáo dục không tạo ra những con người độc bản với tư duy phản biện, sức sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp. Ngay cả trong cuộc đua về “tính người” cũng chưa biết máy móc hay con người sẽ nhân bản hơn.
Hoang mang lo lắng là không thể phủ nhận, nhưng cách thức tốt nhất để vượt lên là dũng cảm đối diện. Đọc NYM – Tôi của tương lai chính là một cách để chúng ta đối diện, đổi mới bản thân và thay đổi cách nhìn về thế giới tương lai.
Giấc mơ bay
Tác giả: Châu Hoài Thanh
Tên thật: Nguyễn Thị Thư
Sinh ngày: 10/10/1966
Quê quán: Vĩnh Linh - Quảng Trị
Hiện sống và làm việc ở Thành phố Vũng Tàu.
Giấc mơ bay
Trẻ nhỏ luôn hồn nhiên trong suy nghĩ lẫn hành động, và ngay cả trong giấc mơ thì vẫn không tồn tại thứ rào cản nào có thể làm mờ đi những tâm hồn thuần khiết ấy với ngập tràn tình yêu thương dành cho gia đình, bè bạn,…. cũng như những ước ao nhỏ bé mà đôi khi người lớn vô tình lướt qua giữa bộn bề lo toan cuộc sống.
Đến với tập truyện dài thiếu nhi "Giấc mơ bay" vừa được Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ phát hành nhằm phục vụ nhóm độc giả là các em học sinh độ tuổi từ 6 đến 12 trong dịp nghỉ Hè 2020, chúng ta sẽ có dịp đồng cảm với nhân vật chính là cậu bé trai nhà nghèo tên Hiếu và người bạn Gấu vốn được mệnh danh là cậu bé sung sướng qua những tình tiết, nội dung được tác giả Châu Hoài Thanh lật tả nhẹ nhàng, sâu lắng.
Nội dung thấm đẫm tình cảm của truyện cùng lối hành văn rất chân phương của tác giả vốn dĩ là một nhà giáo nữ, đôi khi cũng có thể khiến người lớn rơi nước mắt nếu có dịp đọc cùng bọn trẻ bởi trong thông điệp mà Giấc mơ bay muốn truyền tải "dưới ánh mắt con trẻ, sự hồn nhiên, khát khao vui đùa, học tập và kết giao hữu hảo, đã và đang dường như không tồn tại cái gọi là khoảng cách giàu nghèo, sang hèn,..." chính là những hàng rào cảm xúc cá nhân mà người lớn đã vô tình tạo ra.
Đó là việc Hiếu luôn nhủ lòng tuyệt đối không được dòm, không được đặt chân sang vỉa hè,, con phố của xóm nhà lầu đối diện cái dãy trọ đủ mọi thành phần mà cậu và mẹ đang sống. Hiếu sợ ma lá, bởi má và ông ngoại, đều có một ác cảm gì đó rất khó hiểu với những người được gọi là nhà giàu.
Bạn của Hiếu trong xóm, ban đầu chỉ là con Hiệp, thằng Huy... và rồi sau đó là sự xuất hiện của Gấu. Căn phòng thiên đường của Gấu, sự cởi mở của cậu bé với thằng bé đầu đường xó chợ như Hiếu, như nguồn sáng cho những vận hội, tư tưởng mới đơm chồi trong Hiếu.
Hiếu biết chữ, do ông nội của Gấu dạy, còn Gấu thì dạng dĩ hơn, hiểu hơn về cuộc sống ngoài kia bước tường của căn nhà to vật vã, và ước mơ của cả hai, xuất phát từ nhịp đập con tim nhân tạo của Gấu, từ sự chân phương mà Hiếu mang lại, từ nhận thức đại đồng Lá lành đùm lá rách, từ dạt dào tình mẫu tử,... là sự ra đời của dự án Ngôi Nhà Chung để những đứa trẻ, những mảnh đời nhỏ khó khăn, đứa mất cha đứa còn mẹ, không được đến trường vì phải phụ mẹ giúp ba mưu sinh,..
Chưa dừng lại ở đó, tác giả Châu Hoài Thanh đã uyển chuyển vào diễn tiến của tình bạn Hiếu - Gấu là những trang nhật ký của cô Ba Vẹo (mẹ Hiếu) và của cả Hiếu.
Những con chữ, những cảm xúc dằn nén trong tâm can, xen lẫn những dòng nước mắt, của sự giận sự thương và cả nỗi nhớ, tất cả mang đến cho người đọc một sự đồng cảm tuyệt đối như câu chuyện về Hiếu, và ba, về má được uyển chuyển hé lật, hấp dẫn đến khôn tả.
Những câu nói của Gấu, ở buổi ra mắt Ngôi Nhà Chung, khiến ai cũng ngấn lệ. Một ngôi nhà, để mọi đứa trẻ như Huy, Hiệp, Hiếu đều có cha có mẹ, được đi học, còn Bà Tư, chị Thiện Nhân, bà ngoại của cô bé Hiệp, cô Ba Vẹo (má Hiếu), chị Ba Sương từ nay không còn là hàng xóm khu trọ, mà trở thành những thành viên trong một gia đình,.. ngập tràn yêu thương.
Và, thật bất ngờ, ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của Gấu lại xuất phát từ một trái tim nhân tạo, và hơn bao giờ hết, qua tập truyện, mọi người chúng ta tự hào rằng, một trái tim, dù nhân tạo, vẫn là trái tim, vẫn đập từng nhịp, vẫn đồng điệu với thế giới này và phản ánh khách quan bản chất cốt lõi của con người, dù già dù trẻ, là tình yêu thương, là sự sẻ chia với bè bạn, gia đình và mọi người xung quanh.
Một truyện dài thiếu nhi, đáng đọc cho cả con trẻ lẫn chúng ta người lớn, dù có thể, chúng ta đang là ba mẹ của vài ba đứa trẻ trạc tuổi Hiếu, và Gấu.
Trích đoạn sách:
Điều thứ hai mà cô nghĩ tới là sẽ đốt ngay mảnh trăng màu huyết và tất cả những trang nhật ký của cô và thằng Hiếu. Cô sẽ tự mình kết thúc chuỗi ngày sống trong mơ hồ của hai thái cực và chính cô cũng sẽ giúp thằng Hiếu quên đi những giấc mơ ám ảnh. Hơn lúc nào hết, Hiếu và lũ trẻ rong đang khát khao tình yêu gia đình. Cô và những người lớn khác sẽ là người giúp lũ trẻ thực hiện niềm khát khao ấy bằng tất cả những gì tất cả những gì có thể.
Hôm nay là ngày sinh nhật con. Mười hai tuổi con mới có ý niệm về điều này. Bánh và nến con đã vẽ sẵn. Con sẽ cho nó thêm phần màu sắc, xanh và đỏ ba nhé. Lớp kem sẽ dày hơn bánh sinh nhật của Gấu. Chiếc bánh không quá lớn để ba phải mất nhiều tiền nhưng nó sẽ cũng không quá nhỏ để đủ phần con chia cho tụi bạn. Ba đốt nến đi. Con sẽ thổi và hát bài mừng sinh nhật. Những ngọn nến lung linh, tỏa sáng khắp gian phòng. Con Hiệp và thằng Huy rồi sẽ phát cuồng khi nhìn thấy điều này ba nhỉ. Ba bắt nhịp đi để con hát. Bài hát chạy dài theo thời gian. Con hay quên, không thuộc hết lời nhưng nhưng tình yêu mà ba dành cho con thì con không bao giờ quên được. Bàn tay ba xòe ra ấm áp. Ba ôm con vào lòng.
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Quán thủy thần (Tái bản lần 1 năm 2020)
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2019
Tác giả: Nguyễn Hải Yến
Nguyễn Hải Yến
Quê quán: Lam Sơn, Thanh Miện, Hải Dương.
Hiện là giáo viên trường THCS Thị trấn Gia Lộc, Gia Lộc, Hải Dương
Quán thủy thần
Không tình cờ, 10 truyện, 200 trang in “Quán Thủy Thần” của Yến, truyện nào cũng buồn, dù nỗi buồn có khi đến thắt ruột, có lúc lại sáng trưng, nhẹ thênh, trong vắt, thì mọi cung bậc buồn đau của các nhân vật của Yến, rốt cuộc, cũng dẫn về cái bi kịch của sự phát triển xã hội Việt, hôm qua, hôm nay. Và có lẽ còn dài dài về sau, như bài toán mà người Việt phải giải quyết về văn hóa và phát triển số phận dân tộc mình, trong sự tích hợp văn hóa toàn cầu đầy khốc liệt và phức tạp của thế kỷ 21.
Dường như muốn yên ủi, làm nhẹ bớt sự bi thảm, Yến cố tình đặt cho mỗi truyện ngắn buồn thương của mình một cái tên đẹp đẽ, lãng mạn, với gió, mưa, sương mờ, trời xanh mây trắng, rồi cỏ cây hoa lá: hoa đại đỏ, hoa mơ dại, hoa mẫu đơn trắng, hoa gạo đỏ, rồi giếng mắt rồng, đò giang sông nước, quán xá ven bờ v.v… Và bao trùm trên hết là những câu chuyện đời người đầy đau đớn, khốn cùng, khổ ải bởi chia ly, bởi nhầm lẫn, bởi tuyệt vọng và hy vọng. Và dường như, truyện của Yến còn vương vấn cả tiếng thở dài xót thương của thi hào Nguyễn Du, trong “Truyện Kiều”:
Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc phận cũng là lời chung. Dường như vì thế mà số kiếp của tất thảy nhân vật nữ trong hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Hải Yến đều không thoát khỏi kiếp lênh đênh trong bể khổ, khổ từ cái thai nhi con gái trong bụng mẹ (mẹ phải bỏ thai vì lần thứ ba vẫn sinh một bề con gái), cho đến người thiếu nữ bị xe cán chết trên đường về nhà, rồi đến người vợ bị bạc tình, bị đánh đập vũ phu, bị khinh rẻ, chà đạp, đến cả mẹ chồng, mẹ vợ là những bà lão… cũng không thoát khỏi kiếp lầm than. Nhưng may mắn thay, họ được là nhân vật truyện ngắn của
Nguyễn Hải Yến. Họ được người viết yêu chiều, nựng nịu, san sẻ, cảm thông, kể cả ghét bỏ vì quá tàn ác, bạc bẽo, thì cũng được người viết dành cho sự lý giải thông suốt và cho họ ân hận trong sự hồi tâm. Tất cả những chuyện đời đau khổ, quá ít sướng vui của họ được Yến kể lại bằng một giọng kể thật đôn hậu, ấm tình, từ một điểm nhìn riêng thiết tha thương cảm của Yến, nên Yến đã chọn được những tình huống truyện đắc địa, vừa xinh cho thông điệp muốn gửi gắm. Và xâu chuỗi được rất nhiều chi tiết văn xuôi có giá trị đắp nổi tính cách nhân vật.
Nguyễn Hải Yến quả là một tài năng quan sát đời sống thôn quê và đời sống thị thành không chỉ của vùng châu thổ Bắc Bộ, trong cơn cựa mình mạnh mẽ, tiến lên “công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa” của xã hội Việt Nam hiện đại…
…
Tôi thích những đoạn văn ấm, lênh láng và chi chít những chi tiết lạ, được xâu thành chuỗi óng ánh màu riêng truyện ngắn Nguyễn Hải Yến, như một đoạn văn, trong truyện hay nhất tập: “Quán Thủy Thần”. Sau đề từ đong đầy ý nghĩa khai mở: “Tháng ba ngủ trên triền sóng/ Khát hoa gạo lưng trời/ Xô bến cạn vỡ thành muôn mảnh/ Soi mảnh nào cũng thấy trùng khơi…”,
Yến viết ngay ở phần I, miêu tả ngôi làng có quán Thủy Thần: Từ làng tôi ra cửa sông phải đi qua một con đường đất gồ sống trâu xuyên cánh đồng, bốn mùa hun hút gió. Đến cuối đường, nếu quay đầu nhìn lại sẽ thấy làng mạc tan thành vệt xanh lơ, những hôm ẩm trời lẫn cả vào màu mây đang sà xuống lan như khói, sẽ thấy mình cô đơn đến ngộp thở giữa sắc màu đơn điệu không biết là đất hay là trời nếu như mắt không tìm thấy một điểm dừng – một cây cầu quán cũ, nền đất cao vượt hẳn lên, lặng thinh nằm bên gốc gạo già buông bóng sừng sững, mái ngói âm dương xô từng mảng, quanh năm gió đồng hút qua khe hở chiếc mõ dài hình con cá gỗ treo phía trong cột quá, nghe u u vang và lạnh như tiếng sáo thủy thần”.
Cách tác giả dẫn chuyện dễ thương này quả đã đạt đến giấc mơ mà tác giả mơ màng ngay trong đề từ “Quán Thủy Thần”: Soi mảnh nào cũng thấy trùng khơi…
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái
Vì nghĩa vì tình (Tái bản lần 2 năm 2020)
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Vì nghĩa vì tình
(Tái bản lần 2 năm 2020)
* Người đàn ông mon men đi lại bàn thờ lấy chai rượu đưa lên coi rồi rót ra chén chung mà uống. Người đàn bà xếp ba tấm giấy bạc kỹ lưỡng rồi bỏ vô túi áo nhỏ. Thằng nhỏ nằm trên võng cứ khóc hoài. Người đàn bà bước lại bồng nó đem để trên ván, rồi nhìn coi thì thấy nó mặc quần áo luôn một cái may bằng lụa trắng có sọc xanh, cổ có viền ren. Mặt mày tay chân nó trắng nõn, tóc nó hớt bôm bê nên trước trán vắn mà hai bên với sau ót lại dài.
Người đàn ông uống hai ba chung rượu rồi trở lại ván vỗ đầu thằng nhỏ mà nói rằng: “Đừng có khóc nữa. Nín đi, rồi sáng tao mua bánh tao cho ăn”. Thằng nhỏ sợ nên mắt ngó dớn dác ngoài cửa rồi khóc thút thít mà kêu rằng: “má ơi, má!”.
Người đàn bà cười mà nói rằng: “Má đâu có mà kêu. Mày ở đây với tao, không được về má mày nữa đâu. Má mày là tao đây, còn người này là tía mày biết hôn. Từ hồi đó đến giờ tao mượn người ta nuôi mày bây giờ tao bắt về. Rày sắp lên ở với tía má đây”.
Thằng nhỏ khóc ré lên. Người đàn bà dỗ nó hết sức mà nó không chịu nín. Người đàn ông trợn mắt nộ nó, nó sợ nên thôi khóc, mà nó còn thút thít hoài. Người đàn bà dỗ hỏi nó tên gì, thì nó nói tên Hội, mà vì nó nói nhỏ quá, lại vừa khóc vừa nói, hai người nghe không rõ, nên tưởng nó tên Hồi.
Người đàn bà bồng nó lại võng nằm mà dỗ nó ngủ. Gà trong xóm gáy vang rân; thầy chùa ở đằng chùa Phật thức dậy công phu, dộng chuông boong boong. Người đàn ông nằm ngay trên ván một lát rồi ngủ khò, mà đứa nhỏ đưa trên võng một hồi rồi cũng ngủ.
Thằng nhỏ này tên là Chánh Hội, cha nó là Lý Chánh Tâm, còn mẹ nó là Thái Cẩm Vân. Khi mẹ nó sanh nó ra được ít tháng thì cha nó đi Tây mà học, để mẹ con nó ở nhà với bà nội.
Cha đi học năm năm, lấy bằng cấp Tú tài rồi trở về xứ, vừa bước vô thì gặp cô nó là Lý Tố Nga, vì việc chồng con bối rối nên tự vận mà chết. Cha nó chôn cất cô nó rồi, kế gặp nhiều cái bằng cớ đủ tin mẹ nó lấy trai, lấy một người ở tỉnh Cần Thơ, mà lại tưởng mẹ nó lấy người ấy mà sanh ra nó đó nữa.
Trong lúc tức giận sầu não, cha nó đánh mẹ nó, rồi lại muốn trả thù sâu hiểm, nên thừa dịp bắt đặng ăn trộm trong nhà, mới bồng nó mà giao cho ăn trộm, cho ăn trộm tiền bạc, muốn ăn trộm đem giấu nó cho biệt tích và tập luyện tánh nết nó thế nào đặng chừng khôn lớn nó trở nên một đứa du côn trộm cướp, làm như vậy là có muốn phạt mẹ nó phải sầu não lìa con, và phạt nó là cái dấu tích dâm bôn, là cái duyên cớ làm cho cha nó đau đớn, xấu hổ. Tại như vậy đó, nên nó lọt vào chốn này đây.
Còn người đàn ông với người đàn bà này là hai vợ chồng: chồng tên là Tư Cu, vợ tên Tư Tiền. Vợ chồng thuở nay không có con, có hai chục sào đất với một cái nhà tranh ở cuối xóm Chí Hòa. Tư Cu không làm ruộng, không làm rẫy, thường nói với người trong xóm rằng để đi làm mướn ăn khỏe hơn, nhưng mà ít thấy làm việc gì cho ai trong làng, duy ban ngày thì be be đi xuống miệt Sài Gòn dọ đường rồi ban đêm rình mò coi nhà nào ngủ mê thì đào hầm, khoét vách mà ăn trộm đồ.
*Trời xui khiến thiệt là kỳ. Chánh Hội lìa mẹ, cách mẹ đã lâu, mà bây giờ sum hiệp, nó trìu mến cũng như thuở nay ở chung một nhà. Nó nói chuyện với mẹ mà cũng nói với cha; nó chọc cho hai người phải nói chuyện với nhau, nó muốn cho hai người đều yêu thương nó, nó nói tía lia, nó tính tưng bừng, làm cho Cẩm Vân chừng ăn rồi thì hết giận chồng nữa được.
Trọng Quí muốn thừa dịp này mà làm cho vợ chồng Chánh Tâm hòa hiệp với nhau, nên biểu Chánh Tâm ra khách sạn lấy hành lý đem vô đây mà ở. Chánh Tâm sửa soạn đi, Chánh Hội đòi đi theo, nó lại biểu mẹ nó cũng đi nữa, đặng chỉ cái nhà lầu hồi trước đó cho nó coi. Cẩm Vân dục dặc không chịu đi, mà không muốn cho con đi, ngặt vì Chánh Hội đòi quá, nên nàng phải đội khăn mà đi với chồng con. Trọng Quí ngồi trước với sốp-phơ và Phùng Sanh, thằng Quì ngồi kề một bên còn hai vợ chồng Chánh Tâm với Chánh Hội thì ngồi phía sau.
Xe chạy đường Thuận Kiều, chừng đi ngang qua nhà lầu, thì Chánh Tâm chỉ mà nói với con rằng: “Đó, nhà của mình đó, con. Để ít bữa ba đuổi họ đi rồi ba dọn đồ về đó cho con ở với ba má”. Thằng Hồi gặc đầu và cười. Nó lại ngó thằng Quì và nói với cha nó rằng: “Nè, ba nuôi thằng Quì nữa, nghe hôn ba. Tôi có hứa với nó hễ tôi gặp ba má tôi biểu ba má nuôi luôn nó nữa”.Chánh Tâm gặc đầu, Chánh Hội cười. Nó lại day qua nắm tay má nó mà nói rằng: “Má biểu ba mua cho cái xe hơi cho tôi đi chơi nghe hôn má”. Cẩm Vân ngó Chánh Tâm mà cười. Chánh Tâm cũng cười và nói rằng: “Con muốn xe hơi, để chiều ba mua cho”. Chánh Hội khoái chí bèn với tay vỗ lưng thằng Quì mà hỏi rằng: “Sướng hôn mậy? Chiều nay tao có xe hơi”.
Ra tới khách sạn. Trọng Quí ở lại đó với Phùng Sanh và thằng Quì, còn để Chánh Tâm lấy hành lý đi với Chánh Hội vô Chợ Lớn mà thôi. Cẩm Vân không chịu, cứ theo nài nỉ phải đi hết vô trong nhà nàng mà nghỉ. Trọng Quí lấy làm vui mà thấy Cẩm Vân đã thuận với chồng rồi, chàng không dám trái ý nàng, nên kêu sốp-phơ biểu đi trả tiền phòng và đem hết hành lý xuống xe.
Khi sửa soạn đi, Chánh Tâm bèn nói rằng: “Trong lúc con tôi bị hoạn nạn thì nó nhờ thằng Quì bảo hộ. Công ơn của thằng Quì tôi không thề quên được. Tôi muốn đem nó về tôi nuôi cũng như con tôi vậy, ngặt vì không biết tía nó có ngăn trở hay không. Vậy sẵn dịp đây, tưởng nên đi lên Đất Hộ kiếm cặp rằng Hơn đặng tôi nói chuyện một chút”.
* Mất con lìa vợ gần sáu năm trường rồi, thình lình trong một buổi mà cha con tương phùng, vợ chồng hội hiệp; làm người ai gặp cái cảnh như vậy, dầu tánh tình trầm tịnh đến thế nào đi nữa cũng khó mà giấu cái mừng, cái vui trong lòng được. Chánh Tâm được sum hiệp với vợ con, tuy chàng không lộ cái vẻ mừng của chàng cho ai thấy, nhưng mà chàng cứ ngồi ngó vợ rồi ngó con mà cười hoài. Lâu lâu chàng ngoắt con lại gần rồi ôm mặt nó mà hun, hoặc chàng lại đứng một bên vợ mà coi vợ may áo cho con bận. Chàng hưởng thú hòa hiệp một cách êm ái vậy đó, ngưởi ngoài dòm vô ai cũng tưởng chàng không vui mừng cho lắm duy Cẩm Vân biết tánh ý chồng, nên nàng hiểu cái cử chỉ ấy là cử chỉ khoái lạc của chồng thuở nay.
Khóc thầm - Cha con nghĩa nặng
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Tác phẩm này gồm hai truyện như sau: Khóc thầm - Cha con nghĩa nặng
Trích đoạn Khóc thầm:
*Thu Hà gần chồng có mấy bữa thì thấy tánh ý chồng trái hẳn với tánh ý của cô. Hôm nay ngồi đàm luận việc công ích với nhau, lại thêm thấy khí phách của chồng không giống khí phách của cậu Tú tài đến nhà cô hồi tháng trước. Tuy cô buồn nhưng mà có Công Cẩn ở nhà, tối ngày cô theo nói chuyện chơi với em, nên sự buồn của cô còn có khuây lãng được chút đỉnh. Cách ít bữa sau, tới khai trường Công Cẩn đi học rồi, Thu Hà không còn người thân thiết mà hủ hỉ nữa, tự nhiên phải nói chuyện với chồng. Cô gần gũi chồng chừng nào, cô buồn duyên tủi phận chừng nấy. Vợ thì nắm chặt lòng thành thiệt, chồng thì chuốt ngót tiếng phỉnh phờ, vợ thì ăn một đọi nói một lời, chồng thì nói một đường tính một ngả. Vợ chồng dường ấy, làm sao mà gọi là loan phụng hòa minh.
Cô Thu Hà lấy làm bực bội trong lòng, nhưng mà cô không biết tỏ với ai được. Đã biết trong nhà có cha mẹ, mà nếu mình than thở với cha mẹ, thì làm cha mẹ buồn bực như mình nữa chớ không ích gì. Mà mình than thở làm chi? Mình than thở rồi sửa tánh ý chồng mình lại được hay sao mà than thở? Ôi thôi! mà hồng nhan bạc mạng, căn số vô duyên thì chịu, than thở làm chi.
* Cách ít ngày có trát tòa đòi Vĩnh Thái hầu, đặng tòa xử vụ tên Mau. Đến bữa đi hầu, Thu Hà đòi đi theo. Vĩnh Thái sợ vợ nghe những điều cáo gian trong đơn của chàng, rồi bất bình mà nói bậy giữa tòa thì mình có tội, nên chàng năn nỉ với vợ, xin vợ ở nhà, chàng lại hứa bướng rằng thế nào chàng cũng xin cho thằng Mau khỏi ở tù.
Thu Hà tuy khinh bỉ chồng, song không có lòng làm nhục chồng. Ban đầu cô muốn đi theo lên tòa đặng lóng tai nghe coi như chồng không thiệt tình, chồng còn khai gian mà hại thằng Mau, thì cô sẽ đối nại mà cứu nó. Mà rồi cô nghĩ hễ nín không được, cô nói ra thì còn gì chồng, dầu tòa không buộc chồng về tội đánh thằng Mau có thương tích và tội cáo gian cho nó đi nữa, thì chồng cũng mất thể diện với thiên hạ, cô là vợ mà cô khai tội ác của chồng trước mặt công chúng thì ai coi cô ra gì. Bởi cô nghĩ như vậy nên cô không đòi đi theo nữa.
Vĩnh Thái đi hầu đến trưa chàng mới về. Thu Hà nghe tiếng xe hơi vô sân, cô bước ra có ý muốn biết coi tòa có tha thằng Mau hay không. Vĩnh Thái thấy vợ thì cười ngỏn ngoẻn và nói rằng:
- Tôi xin hết sức mà không được. Tòa kêu án nó bốn tháng tù.
Thu Hà chau mày đáp rằng:
- Nó vô tội mà lập mưu hại được nó như vậy, coi mình độc ác là dường nào
- Tôi xin không được, tại tòa kêu án nó, chớ phải tại tôi hay sao?
- Dầu bữa nay mình có xin cho nó đi nữa, mình cũng không chuộc cái tội ác của mình được. Tôi sợ e mình không khỏi cái quả báo này đâu.
- Hứ, quả báo cái gì? Nó khinh khi tôi thì nó phải ở tù. Có vậy nó mới tởn.
- Nó dại nó nói bậy, thì mình đã đánh nó gần chết rồi, chưa vừa hay sao?
- Tôi không hiểu tại sao mà mình binh thằng Mau quá.
- Phải. Tôi binh thằng Mau. Tôi binh nó là vì nó vô tội. Duy có hạng nguời giả dối độc ác như mình đó thì mới không biết thương ai hết, cứ kiếm chuyện mà chặt đầu lột da người ta, biết hôn?
Vĩnh Thái rùn vai bỏ đi thay áo. Thu Hà ngó theo chồng, cô giận lung lắm.
Đến xế hai vợ chồng ông Hai Sửu dắt nhau ra kiếm Thu Hà mà khóc kể nỗi oan của con. Thu Hà đã động lòng mà lại bối rối, cô không biết liệu phương nào mà làm cho hai vợ chồng ông Hai Sửu bớt buồn, cô mới mở tủ lấy một trăm đồng bạc mà đưa cho và nói rằng:
- Việc đã lỡ rồi. Thôi, hai ông bà đừng có buồn, ở bốn tháng tù cũng không chết đâu mà sợ. Ai ngay ai gian có trời đất làm chứng cho. Vì nó ở với ba tôi nên nó mang hại đó. Vậy tôi cho ông bà một trăm đồng bạc mà thường bốn tháng tù đó.
Hai vợ chồng ông Hai Sửu lấy bạc đi về, mà cũng không hết khóc.
Trích đoạn Cha con nghĩa nặng:
* Trên trời vừng trăng tỏ rạng, trước sân sáng oắc như ban ngày. Trần Văn Sửu thấy thằng Tý ngồi chồm hổm dựa xó hè, gục mặt xuống đất. Anh ta bước lại hỏi: “Làm giống gì mà ngồi đó, con?”. Thằng Tý ngồi trơ trơ không trả lời. Anh ta kéo tay nó đứng dậy thì thấy mặt nó nước mắt chảy ướt dầm. Anh ta bèn hỏi nó rằng: “Sao con khóc vậy con? Con có đau bụng đau dạ gì hôn?”. Thằng Tý lắc đầu lia lịa, mà cũng không chịu nói tại sao nó khóc. Anh ta dắt nó trở vô nhà, biểu nó lên ván nằm ngủ, rồi anh ta cũng leo lên nằm một bên đó.
* Chừng Thị Lựu có nghén con Quyên, chị ta sanh sứa đòi cất nhà riêng mà ở. Trần Văn Sửu không bạc mà cất một cái nhà lá nhỏ ba căn, ở phía bên kia cầu, rồi vợ chồng dọn về mà ở.
Hương thị Tào thương con rể, muốn chúng nó ở chung hủ hỉ cho vui, mà Thị Lựu không biết nghĩ, đành bỏ cha mà ra tư ra riêng, làm cho Hương thị Tào phiền trong lòng, bởi vậy vợ chồng Trần Văn Sửu dọn về nhà mới, Hương thị Tào chẳng hề khi nào thèm bước chân tới cửa.
Trần Văn Sửu tánh thiệt thà hiền hậu, cứ lo củi lục làm ăn, không tranh hơn thua với ai hết. Còn Thị Lựu tánh bồng chành, bốc chách, cứ ăn no dạo xóm tối ngày, không lo giúp đỡ cho chồng mà cũng ít lo việc trong bếp. Đã vậy mà chị ta còn hỗn ẩu với chồng nữa, hễ chồng có nói động tới thì mắng chửi tưng bừng.
Vợ chồng tánh nết khác nhau như vậy mà ở với nhau được, ấy là vì Trần Văn Sửu mỗi việc mỗi nhịn luôn luôn, nhịn cho đến những việc vợ quấy mà cũng không dám nói. Thị Lựu thấy vậy lại càng thêm lừng, ở trong nhà muốn làm việc gì tự ý, đêm như ngày muốn đi đâu cũng tự do, nhứt là trong bốn năm sau đây, chị ta hay trang điểm, hay se sua, nhà thì nghèo mà không biết chị ta làm thế nào có quần áo mới mặc hoài, lại sắm tới vòng đồng, dây chuyền nữa.
Khi đẻ thằng Sung ra rồi, Trần Văn Sửu than với vợ không biết làm sao mướn ruộng cho được mà làm. Thị Lựu hứ một tiếng rồi nói rằng: “Khó dữ hôn! Anh Hương hào Hội hóa đất cho bà Hương quản Tồn cả ngàn công, như muốn làm thì ta nói với ảnh để cho ít chục công mà làm, chớ khó gì”. Trần Văn Sửu nghe vợ nói như vậy thì mừng nên xúi vợ đi hỏi đất liền. Thiệt quả Thị Lựu đi một buổi thì mướn được cho chồng ba chục công đất.
Từ đó đến sau, Trần Văn Sửu mới có ruộng mà làm, mỗi năm té chừng một trăm giạ lúa, vừa đủ cho vợ con ăn mà thôi, nên trong mấy tháng gặt rồi, phải đi làm thuê làm mướn, hoặc đắp đất, hoặc lợp nhà, hoặc chèo ghe, hoặc vác lúa mới có tiền mà mua sắm áo quần, xây xài với thiên hạ.
Mấy người chơn chất, từ miệt Giồng Ké xuống tới Phú Tiên ai thấy gia đạo của Trần Văn Sửu như vậy thì cũng cho là vô phước. Mà Trần Văn Sửu cứ an ổn lo làm ăn như thường, chẳng hề buồn rầu về nỗi vợ con mà cũng chẳng hề than phiền về sự cực khổ.
Biết thủ phận thì khỏi mệt trí, biết nhịn nhục thì được an thân. Ngặt vì người khôn ngoan dầu muốn cho lắm cũng khó làm được, bởi vậy cang thường hay tan rã, gia đình mới khuynh nguy.
Không biết phải định nghĩa là số khổ là may mắn, hai tác phẩm tiểu thuyết dài tập tương đối có sức ảnh hưởng của tôi đều không thuận lợi, trải qua mười mấy năm mới có thể hoàn thành được. Bộ đầu tiên là "Thanh xuân muôn năm", bắt đầu viết vào năm 1953, hiệu đính năm 1956, xuất bản lần đầu vào năm 1979. Nó được ấp ủ gần một phần tư thế kỷ. Năm 1957, sau khi hoàn thành bản in thử thì đã niêm phong, nguyên nhân là vì tác giả bị ảnh hưởng bởi cuộc vận động chính trị, sau cùng thì bị ngừng xuất bản năm 1962 lại một lần nữa bị phủ định, lý do là trong sách không đề cập đến sự kết hợp giữa lực lượng tri thức và công nông.
Tác phẩm thứ hai là "Phong cảnh nơi này", viết lách vào năm 1973, hiệu đính vào năm 1978, sau cùng xuất bản vào năm 2013, đã ấp ủ trong 40 năm. Nguyên nhân là do trong sách đã nhấn mạnh về những vấn đề trong thời kỳ "Cách mạng văn hóa" như đấu tranh giai cấp, mê tín dị đoan, kiểm điểm bản thân.
Tác phẩm trước đó, không mang đậm yếu tố cách mạng; nhưng tác phẩm sau thì lại mang đậm tính cách mạng. Chao ôi, đúng là chông chênh quá.
Thế nhưng hai tác phẩm này đều không bị "bỏ giữa chừng vì một số nguyên nhân". Tác phẩm "Thanh xuân muôn năm" từ năm 1979 cho đến nay, không ngừng được tái bản, vẫn tràn đầy sức sống, vẫn nhận được sự yêu thích từ các độc giả trẻ, chứ không chỉ là sự xem trọng mang tính lịch sử của nhân viên nghiên cứu. Gần như đã không còn tìm được tác phẩm vào thập niên 50 của thế kỷ 20 lại may mắn như thế này nữa.
"Phong cảnh nơi này" trải qua thăng trầm với sự bỏ rơi trong suốt thời gian dài, được phát hiện một cách ngẫu nhiên, bỗng nhiên lại trở thành một ngôi sao sáng , không những có lượng phát hành đáng kể, mà còn được bình chọn là sách hay của năm 2013, nhận được 5 giải công trình đứng đầu vào năm 2014, giải thưởng văn học Mao Thuẫn vào năm 2015.
Đại nghĩa diệt thân
(Tiểu thuyết lịch sử)
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Đại nghĩa diệt thân
(Tiểu thuyết lịch sử)
*Hồi tưởng lại năm xưa, chúng ta chẳng khỏi ngậm ngùi về nỗi thảm của tổ tiên ta, cách gần một trăm năm hồi trước, phải chịu cái cảnh thê lương nước mất nhà tan, sao dời vật đổi.
Trong lúc ấy trời Đồng Nhâm ở đất Gia Định rung rinh, cây cỏ héo sầu, sanh linh đồ than. Nhắc lại tình cảnh đó để truy niệm đau khổ của người trước, mà cũng đề phòng việc về sau, đặng suy cổ nghiệm kim rồi ung đúc tâm hồn mà giữ gìn non nước, làm như vậy tưởng không phải là làm việc vô ích.
Năm Tự Đức thứ 11, nhằm năm Mậu Ngọ 1858 nước Pháp lại cớ triều đình Việt Nam cấm đạo bèn phái Hải quân Trung tướng Rigault de Genouilly chỉ huy một đoàn thuyền qua đỗ bộ lên đánh hải khẩu Đà Nẵng (Tourane) có một tiểu đoàn binh Tây Ban Nha theo trợ lực. Giặc chiếm Đà Nẵng toan đánh vào đô thành Huế, nhưng gặp binh ta chống ngăn mạnh mẽ nên tiến không nổi.
Qua tháng Giêng năm sau là năm 1859, Trung tướng Rigault de Genouilly bèn đổi chiến lược để một tiểu đoàn ở lại giữ mấy đồn vùng Đà Nẵng, còn bao nhiêu binh thì chở xuống hết thuyền chiến đặng vào miền Nam định xâm chiếm đất Gia Định là vùng có tiếng phì nhiêu phong phú. Binh Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá những phần tàu đóng hai bên sông Đồng Nai, rồi tiến thẳng lên đánh thành Gia Định.
Quan hộ đốc giữ thành Gia Định là cụ Võ Duy Ninh vừa hay tin binh đội Pháp khai chiến thì cụ tức tốc đến các tỉnh kêu binh lên tiếp viện đặng chống với giặc. Viện binh đến chưa kịp còn quân lính trong thành đủ, song thiếu huấn luyện, thiếu tinh thần chiến đấu, bởi vừa không biết cách phòng thủ để cho giặc tự do vào đánh có hai ngày đoạt được thành. Cụ Võ Duy Ninh phải tự tử để cho toàn tiết nghĩa. Giặc tóm thâu tất cả súng đại bác, thuốc đạn bạc tiền và lúa gạo. Rất tiếc thay!
Trung tướng Rigault de Genouilly phân binh, để Trung tá Jauréguiberry ở lại giữ thành Gia Định, còn bao nhiêu binh thì trở ra Đà Nẵng đánh nữa. Cũng không thắng nổi binh ta, lại nhuốm bịnh. Pháp định sai Thiếu tướng Page qua thay thế cho Trung tướng Rigault de Genouilly về Pháp an dưỡng
Kế đó nước Pháp với nước Anh có việc bất hòa với Trung Hoa nên hai nước hội binh đi đánh tàu. Chánh phủ Pháp sai Trung tướng Charner chỉ huy một đoàn chiến thuyền qua Viễn Đông, lại dạy Thiếu tướng Page phải rút binh Đà Nẵng và Gia Định đi theo Trung tướng Charner đặng tiếp chiến.
* Bữa sau ghe ra biển. Ông Giám ngồi nhìn trời cao biển rộng, ông nghĩ cuộc đời như giấc mộng, không có chi thiệt, mà cũng không có chi bền. Núi non cao vọi mà nhiều khi cũng sụp đổ. Sông rạch nước đầy mà có khi cũng cạn khô. Quốc gia đương hung thạnh rồi cũng phải nguy vong. Chồng vợ cha con đương hiệp hòa rồi lại phải ly tán.
Trớ trêu thay!
* Qua canh một Chí Linh mới về tới. Chàng bước vô chào ông Nhiêu và mừng anh. Sáu Tại hỏi ăn cơm chiều rồi hay chưa. Linh nói ăn rồi. Chàng hỏi ông Bảy đã về nói việc cụ Thủ khoa thể nào.
Ông Nhiêu nói ông Bảy về hồi chiều, ông cho hay thiệt quả cụ Thủ khoa bị tàu Tây bắt chở đi hồi sớm mơi rồi. Ông có giáp mặt với hai người chèo ghe họ nói rõ như vậy, không còn nghi ngờ gì được nữa.Chí Linh ngồi buồn hiu.
Ông Nhiêu nói:
- Cha nghe như vậy từ hồi chiều đến giờ cha nản chí, hết muốn lo tính gì nữa. Chuyến này nó thộp được cụ, mà có thêm việc Cổ Chi nữa, thì nó có thả cụ nữa đâu mà mong.
- Con dai quá. Chớ chiều hôm qua con rước cụ với cha vô Cổ Chi coi nghĩa binh ta chiến đấu cho mát ruột, rồi con đưa qua phía bên kia rạch mà vô đồng ở đỡ một đêm, đợi êm rồi đi thì xong quá.
- Trận Cổ Chi con đại thắng phải hôn?
- Con cho mai phục trong ngoài hai lớp, đợi giặc lọt vô giữa rồi hai đầu đánh áp lại, đánh ngã rạp hết. Chúng nó không có thì giờ mà bắn một phát súng. Con lấy được cả thảy hai mươi hai cây súng, lại có đạn nhiều lắm.
- Cha cậy bà Ba đi dọ thám. Hồi chiều bà về nói bà gặp Tây vô đông lắm, kiếm đem thấy về. Bà núp bà coi thì thấy họ võng bốn người, còn khiêng tay mười bảy, cộng hai mươi mốt người. Vậy thì có một người quăng súng chạy khỏi nên con mới lượm được tới hai mươi hai cây. Cha tưởng bốn người võng đó bị thương chớ chưa chết.
- Chết hết cha à, không thế nào sống nổi. Tàn rồi con có cầm đèn con rọi mà coi. Rạp hết, không có một mạng nào cựa quậy. Có một điều làm con hết vui...
- Điều gì?
- Đốc Thành mang lon đội, bị nghĩa binh đâm đổ ruột máu chảy lai láng.
- Đồ bội phản, chết đáng kiếp. Ham chơi dao phải đứt tay chớ sao.
- Đốc Thành chết không nói gì, ngặt quá, không dè anh Hai Đạt cũng chết nữa.
- Có thằng Đạt đi trong đó hay sao?
- Thưa, có. Con có dè đâu. Chiều hôm qua con hỏi cha như gặp anh Đạt con làm sao. Con hỏi đó là hỏi không chắc có ảnh. Chừng rọi coi con phòng hờ, con mới ngó thấy. Con buồn quá. Con có lật con coi kỹ. Ảnh bị roi, chớ không phải bị mác hay chĩa. Lúc hỗn độn ai gặp đâu đánh đó, có biết ai đánh ảnh đâu mà nói.
- Ối! Ai đánh cũng được, cần biết người đánh làm chi. Phàm đánh giặc hễ gặp thì đâm, thì đánh; nếu mình vị tình dục dặc, thì chúng giết mình còn gì. Nhứt là nó có súng nếu con chậm trễ thì nó bắn chết.
- Thiệt con chỉ huy, chớ con không có đánh. Nếu con gặp anh Hai con, thì có lẽ con bắt sống để cứu mạng ảnh. Rủi quá, con không thấy ảnh, nên mới bị người ta hạ.
- Hôm qua con hỏi, cha có nói: “Đại nghĩa diệt thân”. Làm việc đại nghĩa không nên kể tình thân thích. Cụ Thủ Khoa, là bực đại Nho, cụ cũng cho lời cha nói đó là phải. Con không cần hối hận. Thằng Đạt theo giặc tức thì nó là giặc. Con không nỡ giết nó, chắc gì nó dung con. Huống chi nó là thằng bán nước hại dân. Nó chết sớm chừng nào càng đỡ khổ cho dân cho nước chừng nấy. Muốn cứu dân thì phải giết nó chớ sao.
- Cha giận ảnh không nghe lời cha, ảnh bỏ mà đi đường khác, nên cha nói như vậy. Nhưng bề nào ảnh cũng là máu thịt của cha.
Tuy không phải tay con giết ảnh chết, song con chỉ huy trận đánh tức thị con giết, bởi vậy con thắng mà con không vui.
- Cha đã từ thằng Đạt rồi. Cha không nhìn nhận nó là con nữa.
- Cha vì đại nghĩa nên cha dứt tính cha con được. Cha không trách con. Nhưng về ở bên Tịnh Giang xưa rày, con nhận thấy anh Hai Đạt đầu giặc, mẹ không trách ảnh, không trách mà lại yêu ảnh lắm. Chị Hai với vợ con cũng vẫn yêu ảnh như thường. Chuyện này đổ bể mẹ cùng vợ con phiền trách con, chắc là con không thể về ở bển nữa được.
- Con đừng lo. Thằng Đạt chết, cha lãnh trách nhiệm. Ai có trách thì trách cha đây.
Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Tác phẩm này gồm ba truyện như sau: Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Trích Thiệt giả giả thiệt
* Cô Phùng Xuân đương cảm xúc, không thể dằn lòng được nên cô mới thuật rõ tâm sự của cô cho bà Tư nghe, cô lại nói ngày cô mới lại tiệm ở may, cô thầy thuốc Cộn lại bận thử áo, người đó là vợ của người phụ bạc cô hồi trước. Bà Tư chưng hửng, ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Hèn chi bữa cô thầy thuốc Cộn bận thử áo cháu bợ ngợ, mà coi bộ thẹn thùa quá. Người đời nay phần nhiều họ không có tình nghĩa gì hết, miễn có tiền thì thôi. Thứ đờn ông vậy mà ra gì”.
* Cô cười mà nói rằng: “Nếu những lời ông nói đó mà thiệt có như vậy, thì cái quan niệm của ông về đạo vợ chồng kỳ cục quá. Phàm không chịu thì đừng cưới; còn nếu cưới thì phải ở trọn đời, chớ trước khi cưới mà ông đã lập tâm bỏ người ta, ông làm như vậy thì ông coi tiết giá của đờn bà rẻ quá”.
Ông thở ra mà đáp rằng:
- Tại tôi thương cô quá, nên tôi có kể gì là phải quấy.
- Ông thương tôi, sao từ ngày ông thi đậu rồi ông không bước chưn tới nhà mà thăm má tôi?
- Vừa về tới nhà thì cha mẹ ép cưới vợ bên Bạc Liêu. Tôi còn mặt mũi nào mà dám thấy mặt cô.Cô Phùng Xuân bỏ đi bắt ốc nữa, mà bây giờ mặt
cô buồn hiu.
Ông thầy thuốc Cộn, là người thông thạo tâm lý về ái tình, ông thấy cô buồn thì ông biết cô đã hết giận, ông bèn đi dan ra, để cho cô thong thả mà suy nghĩ.
Mấy cô đi trở lộn lại, song còn xa xa thì cô Huyện đã kêu hỏi cô Phùng Xuân bắt ốc được nhiều hay ít. Cô đáp rằng cô bắt được có ít con.
Ông Cộn sợ mấy cô đi tới rồi nói chuyện không được nữa, ông mới sáp lại gần mà nói nhỏ nhỏ rằng: “Cô Tư, bây giờ tôi nghĩ lại tôi nghe lời cha mẹ mà cưới vợ thiệt là tôi dại lắm. Bây giờ tôi mới hiểu tôi thấy cô làm vợ người khác thì không thế nào tôi chịu được. Tôi sẽ bỏ đứt vợ tôi. Tôi xin cô cho tôi biết coi tôi có nên nuôi cái hy vọng một ngày kia sẽ được sum hiệp một nhà với cô hay không? Xin cô đừng trả lời gấp. Cô suy nghĩ ít bữa rồi cô viết thơ cho tôi. Bao thơ cô đề tên tôi, gởi vô nhà thương Chợ Lớn thì tôi được. Miễn là cô nói “được” cho tôi sống với cái hy vọng ấy, dầu phải chờ bao lâu tôi cũng bền lòng mà chờ ”.
Cô Phùng Xuân ngó mấy chị em bạn ở xa xa rồi day qua ngó ông Cộn thì ông đứng nhìn cô, bộ buồn thảm mà quả quyết lắm. Cô thở dài một cái, ngó mông ra khơi, rưng rưng nước mắt, rồi bước chơn đi lại phía mấy chị em bạn kêu. Ông Cộn không dám đi theo, song ông đứng ngó cô và nói rằng: “Xin cô nhớ viết thơ trả lời, về đây tôi trông tin cô hàng ngày”.
* Rõ ràng tuy ông Cộn phụ bạc cô Phùng Xuân mà cưới vợ khác, song tình của cô vẫn còn thương ông như xưa. Ông Phán Thêm thấy vậy rồi nhớ lại hèn chi ngày ông nói mà cưới cô Phùng Xuân, thì cô đáp rằng tình cô đã cạn đã khô, cô sợ lấy chồng rồi cô không tròn đạo làm vợ.
Ông Phán bối rối, không biết bây giờ phải xử trí thế nào.
Có nên cắt nghĩa cho vợ hiểu ông Cộn là một tên bợm bải, lòng không ngay, tình không sạch, rồi khuyên vợ xa lánh ông hay không? Không nên. Ái tình chẳng bao giờ chịu dung nạp những lời cắt nghĩa. Mình chỉ chỗ xấu của ông Cộn thì sợ e vợ cho mình ghen mà nói xấu cho người ta, rồi chẳng những là không chịu cho ông Cộn xấu, mà lại còn chê mình hẹp hòi thấp thỏi nữa.
Có nên ngăn cấm, không cho vợ gần ông Cộn, đặng cho vợ khỏi lỗi đạo can thường hay không? Cũng không nên. Mình ngăn cấm bó buộc vợ, tuy ý mình muốn giữ gìn cho vợ khỏi lạc bước vào đường quấy, nhưng mà ai biết được hảo ý của mình, chi cho khỏi người ta nói, chồng già vợ trẻ sanh chứng ghen tuông, rồi vợ mình đã không thương mình mà lại còn oán mình nữa.
Có nên kiếm chỗ u nhàn thanh tịnh, cất nhà mà ở với vợ, đặng vợ chồng xa lánh mùi trần, khỏi nhiễm khói tục, riêng hưởng hạnh phúc gia đình chút đỉnh hay không? Cũng không nên. Vợ mình tuổi còn xuân xanh, chẳng khác nào một cái bông hường đương nở.
Nếu mình đem cái bông xinh đẹp ấy mà giấu kín một chỗ, để thưởng thức một mình, thì té ra mình vị kỷ quá, mình đã mang tội hẹp hòi, mà lại uổng cái bông xinh đẹp không ai được ngó thấy. Huống chi mình cưới vợ, mình đã có hứa với vợ rằng mình sẽ làm cho vợ vui vẻ trọn đời, có lẽ nào bây giờ mình quên lời hứa ấy, mình lo làm cho mình được vừa lòng, còn vợ thì ưu sầu khô héo.
Không được. Mình không nên phụ lời ước với vợ. Thế nào mình cũng phải lo làm cho được vợ vui vẻ, dầu sự vui vẻ của vợ phản chiếu ra sầu thảm cho mình đi nữa, mình cũng phải cam chịu. Cái tình của mình nó ở tại chỗ đó. Tình phải có khổ, có uất, thì mới sâu, mới cao. Mà bây giờ phải làm thế nào cho vợ được vui vẻ mà khỏi nhơ danh phạm nghĩa? Đó là một vấn đề ông Phán Thêm trưng ra đã mấy tuần lễ mà ông chưa giải quyết được.
Còn cô Phùng Xuân thì cô cũng cứ lờ đờ lững đững, cô cũng cứ buồn bực hoài, nhưng vì sự buồn bực của cô không có cửa ra, nên cô không biết đến chừng nào mới dứt được.
Trích Đóa hoa rừng
* Gần một tháng nay, hễ nói với Quế thì cậu Sáu xưng “tôi” và kêu Quế bằng “cô”. Hôm nay cậu đổi mà dung tiếng “qua” và tiếng “em”, hai tiếng ấy làm rung động cả tâm hồn Quế, nên Quế biến sắc trong lòng nghi, ngại, sợ, lo, lộn xộn. Quế quăng bó bẫy trên đám chồi, thủng thẳng ngồi xuống, ngồi chồm hổm trước mặt cậu Sáu. Cậu chong mắt nhìn Quế, nhìn mà không nói chi nữa hết.
* Cậu Sáu lặng thinh ngồi nhắm đóa hoa rừng một hồi, rồi cậu lắc đầu mà nói: “Chắc nay mai qua sẽ xa em; không biết xa rồi có gần lại được nữa hay không. Qua gặp em, trời xui khiến qua đem lòng thương em, qua thương như qua thương sự sống của qua vậy”.
“Khoảng đời của qua gần một tháng nay là khoảng đời vui vẻ, sung sướng, khỏe khoắn, an ổn nhứt, thuở nay qua chưa được biết. Qua muốn kéo khoảng đời nầy ra, cho thiệt dài, đặng luôn luôn sống một bên em, không thèm nhớ tới nhơn tình sự thế. Ngặt qua thiếu phước nên Phật Trời cho qua hưởng sung sướng một chút mà thôi không để qua hưởng lâu. Vậy trong giăng rừng Đường Long nầy đã quen mặt qua và bên cây dầu ngã đây chứng nhận lời qua, bữa nay qua nói cho em biết rằng dầu qua đi, song luôn luôn em ở trong tâm trí qua, chắc chắn không giây phút nào qua quên em được”.
Cậu Sáu không nói nữa. Quế liếc mặt dòm cậu thấy hai hàng nước mắt chảy dài xuống gò má cậu. Quế cũng khóc, đưa cánh tay quẹt nước mắt và thỏ thẻ hỏi: “Cậu đi đâu?”.
Cậu Sáu chau mày dụ dự rồi thở ra mà đáp: “Có biết đi đâu mà nói!”...
Quế nói tiếp: “Vậy mà tôi tưởng cậu về nhà chớ”.
Cậu Sáu ngó sững Quế, ngó chớ không nói nữa.
Quế thỏ thẻ: “Như cậu còn đi chơi nữa, thôi cậu nói với má tôi đặng dắt tôi theo nấu cơm cho cậu ăn”.
Cậu Sáu thở một hơi dài rồi lắc đầu đáp, đáp lớn: “Không được… Không thế được… Qua không nên làm khổ cho thân em”.
Cậu Sáu lấy cái khăn trắng trong túi áo ra với lau mặt cho Quế rồi cậu đứng dậy, nắm cánh tay Quế kéo đứng lên, và kéo vào nói: “Qua bậy lắm!…Nói làm chi cho em buồn… Qua ở đây, ở với em không đi đâu hết. Thôi em vui đi, đừng buồn nữa”.
Trích Một đời tài sắc:
* Hai người đều trẻ tuổi, bước đường đời còn dài. Những người theo phái vật chất thì họ đoán Thiện Ý bị song tình đưa đẩy rồi chàng sẽ theo đuổi làm cho Xuân Hương phải từ cửa Phật mà vào Động Tiên. Còn những người theo phái tinh thần thì họ đoán Thiện Ý tuy mang túi tình trịu trịu, song tình chàng cao thượng, nên không lẽ chàng dùng cái tình ấy mà đánh đổ cái tiết của chàng kính trọng đó bao giờ.
* Cô đương xần bần trong hoa viên, bỗng có chú thường xuyên ở nhà việc làng đem một tờ nhựt báo với một cái thơ lại giao cho cô. Cô cầm cái thơ mà coi ngoài bao, thấy đề tên cô, cô chắc là thơ của chị em bạn học gởi. Cô cám ơn chú thường xuyên rồi thủng thẳng trở vô nhà. Cô men men đi lại cái bàn viết đặng đọc thơ. Cô vừa ngồi lại thì thấy chơn dung của Hà Thiện Ý để trên bàn viết, cô liếc mắt ngó mà cười rồi thủng thẳng lấy cái dao rọc giấy mà rọc cái bao thơ cô mới được đó. Cô lấy cái thơ ra mà coi thì thơ như vầy:
Thạnh Hòa. Le 10 Aout 1933
Em Xuân Hương rất yêu dấu ôi!
“Mấy anh em học ở bên Tây, thấy má anh viết thơ cho anh, thường hay khen tài đức của em và khuyên anh ráng học cho thành danh, đặng chừng trở về xứ sánh duyên cùng em cho xứng đáng.
“Hồi nhỏ anh có giáp mặt em mấy lần mà không có nói chuyện gì với nhau. Từ khi anh đi Tây thì sẵn có tấm hình trong rương, hễ buồn thì anh lấy ra anh nhìn. Anh nhớ cái hình đó nung chí cho anh mới thành danh được.”
Hôm anh qua thăm chú thím, anh muốn tỏ lời tạ ơn em, song anh bợ ngợ không mở miệng được. Vì vậy nên anh phải viết bức thơ này mà bày tỏ cái tình của anh đối với em cho em biết và hứa chắc với em rằng anh sẽ hết lòng kính yêu bao bọc em trọn đời, cho tới chừng nào chết mới dứt”.
HÀ THIỆN Ý
Cô Xuân Hương đọc thơ rồi, cô xếp kỹ lưỡng mà bỏ vào túi. Cô với lấy cái hình của Thiện Ý trên bàn viết, cầm mà nhìn và miệng chúm chím cười.
* Hoàng Kiết móc túi lấy thuốc ra hút, coi bộ ngồi mết mà nói chuyện dần lân. Cô Xuân Hương bèn đứng dậy đi mở tủ lấy thuốc và hộp quẹt để trên bàn, rồi cô lại bàn viết mà đứng, không ngồi nữa. Hoàng Kiết hiểu ý chủ nhà muốn đuổi mình, nên chàng đứng dậy mà nói rằng: “Thôi, tôi xin kiếu cô tôi về. Để bữa nào có ông Hội đồng ở nhà rồi tôi sẽ qua ở nói chuyện chơi lâu”.
Hoàng Kiết từ cô rồi bước ra sân. Cô Xuân Hương đi theo ra đứng tại cửa giữa. Hoàng Kiết ngó quanh quất, thấy bên tay trái có mấy liếp hường trổ màu, mà bông nào cũng lớn thì day vô nói cô: “Cô trồng hường trổ bông đẹp quá. Xin cô cho phép tôi coi một chút. Tôi có tánh ái hoa, nên thấy hoa không thể đi được”. Chàng đi lại mấy liếp hường rờ rẫm từng bông, rồi lại day vô ngó cô Xuân Hương mà nói rằng:
- Yêu hoa thì phải để hoa trên nhành mà xem. Ngặt vì tôi không ở đây được mà xem, biết làm sao. Vậy xin cô cho phép tôi hái một bông đem về Rạch Giá làm kỷ niệm cái ngày tôi có phước mà được đến Cái Tắc.
Cô Xuân Hương gặc đầu mà thôi, chớ cô không đáp một tiếng chi hết.
Hoàng Kiết hái một cái bông hường trắng còn hàm tiếu, giắt tại túi trên áo, ngó cô Xuân Hương mà cười, rồi dở nón cúi đầu mà từ và bước lên xe.
Cô Xuân Hương trở vô, sắc mặt có vẻ buồn.
* Cô Xuân Hương nghe nói như vậy thì cô cười ngất. Ông Hội đồng tưởng nói ra cô buồn, chớ ông không dè nó cười, bởi vậy ông lấy làm lạ, ông ngó con trân trân. Cô Xuân Hương lập nghiêm lại, cô ngồi suy nghĩ một hồi rồi hỏi rằng: “Người ta nói như vậy mà coi ý bác Tổng thế nào?”.
Ông Hội đồng nín khe một lát rồi ông thở dài một cái rồi nói chậm rãi rằng: “Ý anh Tổng muốn ba làm sui với ông Huyện Trương Hà đặng cứu hết hai nhà”.
Cô Xuân Hương vùng đứng dậy hỏi lớn rằng: “Ba nói sao? Bác Tổng xúi ba gả con cho Trương Hoàng Kiết hay sao?”. Cô đứng nhìn cha trân trân. Ông Hội đồng day mặt nhìn chỗ khác.
Cô Xuân Hương gục gặc đầu và cười và nói rằng: “Mà cũng phải lắm. Nếu không làm như vậy thì có phương gì cứu hết được”. Cô thủng thẳng ngồi lại, nín khe mà suy nghĩ một hồi lâu rồi cô chậm rãi hỏi rằng:
- Bác Tổng muốn như vậy, còn ý ba thế nào, ba chịu hay không?
- Cái đó tự nơi con liệu. Con đành đâu thì ba gả đó không ép duyên con.
Cô Xuân Hương suy nghĩ một hồi nữa rồi cô nói rằng: “Việc này là việc quan hệ, con xin phép ba cho con suy nghĩ một đôi ngày rồi con sẽ trả lời”.
Ông Hội đồng biết con đau đớn trong lòng lắm, nên ông lặng thinh, không nói chi nữa.
Hai cha con vô nhà đóng cửa đi ngủ. Ông Hội đồng vô mùng nằm êm ru, nhưng mà ông không nhắm mắt được. Còn cô Xuân Hương cô vô phòng riêng của cô, cô đốt đèn để trên cái bàn nhỏ rồi cô ngồi ngó ngọn đèn, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Làm thân con gái thuở nay lo ăn học, quyết học cho nên danh, đặng trước đẹp mặt nở mày cho cha mẹ, sau lấy chồng đồng tâm đồng chí. Thuở nay ôm ấp cái hy vọng làm tròn ơn tròn thảo với kẻ có công sanh thành, giữ trọn nghĩa trọn tình với người cha mẹ đã chọn lựa.
Nay học đã nên danh rồi, chỉ còn cái căn duyên nữa, nếu căn duyên xuôi thuận, thì đường đời đấm ấm, tiền tình rực rỡ, vui vẻ biết chừng nào.
Nào dè, đời tài sắc là đời đắng cay, kiếp con người là kiếp thống khổ, nếu trọn tình thì phải mất hiếu, nếu trọn hiếu thì phải mất tình, biết liệu làm sao bây giờ? Quyết nắm chặt lời giao ước của cha mẹ hai bên, tuy Thiện Ý chưa có lễ gì, nhưng mà bấy lâu nay cha mẹ thường chỉ người đó là nói là chồng mình, thì bây giờ mình biết một người đó mà thôi, dầu thế nào mình cũng quyết kết bạn trăm năm với người đó, chớ mình không đành nơi nào khác.
Quyết như vậy thì mình trọn nghĩa trọn tình; cha chả mà quyết như vậy thì mình được phần mình, rồi hai cái gia đình đều toang hoang hết, mẹ mình buồn rầu chắc chết gấp, hai em mình không tiền mà học nữa, cha chồng mình nhục nhã ắt phải vô chùa mà tu.
Vui phận mình mà buồn nhiều người, vui làm sao cho đặng? Rõ ràng bên hiếu nặng hơn bên tình nhiều lắm. Thí một đời mình trả thảo cho cha mẹ, lại trả thảo luôn cho bên chồng nữa, thì còn dụ dự nổi gì. Huống chi cha chồng mình cũng muốn cậy mình thì thân mình phải vui mà thí, chớ sao lại buồn rầu.
Cái đời mình hữu dụng là nhờ có dịp này, chẳng nên bỏ qua cái dịp tốt ấy. Mình coi kinh Phật thường thấy câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc; tan tức là hiệp, hiệp tức là tan”.
Chắc kiếp này con tội lỗi nhiều, nên Phật Trời mới khiến căn duyên mình lỡ dở. Vậy kiếp này mình nên chịu khổ về nỗi “tan” đặng kiếp sau mình được hưởng cái “hiệp”.
Cô Xuân Hương suy nghĩ tới đó rồi trong lòng cô thơ thới, nước mắt hết chảy ra nữa. Cô dẹp đèn mà đi ngủ.
Sáng bữa sau, cô vui vẻ như thường, cha lấy làm kỳ, còn mẹ với hai em không dè trong nhà có việc biến. Tối lại, cô đợi trong nhà ngủ hết, cô mới thưa với cha rằng: “Thưa ba, việc ba tỏ với con hôm qua đó, con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con đành làm dâu ông Huyện Trương Hà. Vậy con xin ba trả lời hứa làm sui với người ta đi”.
Ông Hội đồng Nghiệp nhìn con, ông rưng rưng nước mắt mà nói rằng: “Ba biết con đau đớn lung lắm… Mà ba còn đau đớn nhiều hơn con nữa… Gia bần tri hiếu tử. Con trả ơn sanh thành nặng nề hơn người ta biết bao nhiêu!”
Không biết phải định nghĩa là số khổ là may mắn, hai tác phẩm tiểu thuyết dài tập tương đối có sức ảnh hưởng của tôi đều không thuận lợi, trải qua mười mấy năm mới có thể hoàn thành được. Bộ đầu tiên là "Thanh xuân muôn năm", bắt đầu viết vào năm 1953, hiệu đính năm 1956, xuất bản lần đầu vào năm 1979. Nó được ấp ủ gần một phần tư thế kỷ. Năm 1957, sau khi hoàn thành bản in thử thì đã niêm phong, nguyên nhân là vì tác giả bị ảnh hưởng bởi cuộc vận động chính trị, sau cùng thì bị ngừng xuất bản năm 1962 lại một lần nữa bị phủ định, lý do là trong sách không đề cập đến sự kết hợp giữa lực lượng tri thức và công nông.
Tác phẩm thứ hai là "Phong cảnh nơi này", viết lách vào năm 1973, hiệu đính vào năm 1978, sau cùng xuất bản vào năm 2013, đã ấp ủ trong 40 năm. Nguyên nhân là do trong sách đã nhấn mạnh về những vấn đề trong thời kỳ "Cách mạng văn hóa" như đấu tranh giai cấp, mê tín dị đoan, kiểm điểm bản thân.
Tác phẩm trước đó, không mang đậm yếu tố cách mạng; nhưng tác phẩm sau thì lại mang đậm tính cách mạng. Chao ôi, đúng là chông chênh quá.
Thế nhưng hai tác phẩm này đều không bị "bỏ giữa chừng vì một số nguyên nhân". Tác phẩm "Thanh xuân muôn năm" từ năm 1979 cho đến nay, không ngừng được tái bản, vẫn tràn đầy sức sống, vẫn nhận được sự yêu thích từ các độc giả trẻ, chứ không chỉ là sự xem trọng mang tính lịch sử của nhân viên nghiên cứu. Gần như đã không còn tìm được tác phẩm vào thập niên 50 của thế kỷ 20 lại may mắn như thế này nữa.
"Phong cảnh nơi này" trải qua thăng trầm với sự bỏ rơi trong suốt thời gian dài, được phát hiện một cách ngẫu nhiên, bỗng nhiên lại trở thành một ngôi sao sáng , không những có lượng phát hành đáng kể, mà còn được bình chọn là sách hay của năm 2013, nhận được 5 giải công trình đứng đầu vào năm 2014, giải thưởng văn học Mao Thuẫn vào năm 2015.
Hạnh phúc nhiều lúc cũng đơn giản như từ nhà ra cánh đồng của người nông dân, từ trên núi xuống nương rẫy của đồng bào rẻo cao. Hạnh phúc sẵn có nhưng nhiều lúc tôi tìm những thứ nhầm tưởng sẽ mang lại hạnh phúc nhiều hơn nữa bằng ngã kiến và tình chấp trong nỗi hào nhoáng của danh vọng để rồi mang vác nặng nề khiến hành trình trở về nương cõi nhiệm mầu vốn là nguồn cội hạnh phúc vô biên của kiếp người trở nên xa vợi.
Ai cũng đi tìm quả hạnh phúc song phần nhiều đang thực hành sống với nhân khổ đau, bởi lẽ điều mầu nhiệm còn ẩn nơi vùng mờ tâm thức ta. Sự viết dẫu là chia sẻ chân lý không chừng cõng nghiệp nặng nề. Bởi ngôn ngữ vốn có sau hiện tượng để gọi tên sự vi diệu chứ ngôn ngữ không là sản phẩm có trước để chụp vào những huyền nhiệm cuộc sống. Mọi khái niệm và quy luật rút ra tuồng như chúng ta tạo cây cảnh và ngắm nghía qua lăng kính hẹp của vọng tâm. Ngôn ngữ luôn luôn được sản sinh vẫn bất lực trước sự biến hóa linh động của thiên nhiên, và quá trình dựng lập ngã chấp trong tôi luôn khởi từ việc nhốt hư không vào lâu đài ảo tưởng.
Nhụy Nguyên
--- Nếu bảo con người sống trên Trái đất, là chưa đúng. Trái đất cũng là một hành tinh lơ lửng giữa trời, nên con người cũng đang trụ giữa hư không, mới đúng. Con người thực chất đang lơ lửng giữa trời. Nghĩa là con người ở trên trời, chứ không phải dưới đất để bảo trời xa quá.
Người ta vẫn thắc mắc, ngày nay phi thuyền đã bay thấu trời xanh vẫn không thấy cõi Thánh và Niết bàn đâu cả. Thực tế chúng ta nhìn mặt trăng mặt trời to bằng quả bóng thì ngược lại, ở mặt trăng nhìn xuống trái đất cũng nhỏ như vậy. Nếu phi thuyền bay ra ngoài không gian thì trái đất chưa lớn bằng một hạt bụi. Con cá ở đại dương mênh mông, dĩ nhiên nó sẽ phán chuyện con người chỉ thở bằng không khí là hoang tưởng. Cũng như nhiều người khó thể tin cùng không gian ở trái đất lại “dung chứa” vô vàn cảnh giới khác nhau; các cảnh giới đan lồng, chồng lên nhau song cảnh giới này không phương hại cảnh giới khác. ---
--- Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích khai mở trí tuệ. Giới hạn của con người cần ở trong lễ nghĩa luân thường, tránh sa vào cái thấp hèn, vì nó là nghiệp dẫn khiến tâm không định; tâm không định sẽ không sanh trí tuệ, không sanh trí tuệ sẽ không soi chiếu trở lại thứ ánh sáng khiến người ta bước lên tầng thanh cao hưởng pháp vị diệu màu. ---
--- Vũ trụ vô biên, một khi ta đứng trên sự tung hô là lúc sắp “đội trần”. Ngôn ngữ thế gian khó thông huyền nghĩa thánh huấn. Ngay đến bình phẩm thế tục, ngôn ngữ cũng không bao hàm hết nghĩa. Cô đơn, từ này thiển nghĩ xuất phát từ phương Tây, lúc cái đích của con người là bước trên thảm nệm vinh hoa chứ không chịu đi trên lưỡi dao bén sự thật. Trong dòng phim kiếm hiệp có cụm từ “cao thủ cô đơn”.
Xét trên bình diện xã hội, đây là ưu điểm, nhược điểm là sự cô đơn ấy luôn đối diện với bế tắc, ngõ cụt. Một khi ai đó tiệm cận chân lý tối thượng chính là họ lội ngược dòng đời tìm bản lai diện mục, đối diện “cô đơn”. Nhưng sự cô đơn này dung chứa hỷ lạc. Lùi xa với dòng đời thấy trời cao biển rộng. Càng hỷ lạc càng cô đơn, càng cô đơn càng hỷ lạc, con đường phía trước càng mở ánh sáng.
Đời nhiều chuyện lạ, và dường như chỉ có những chuyện chưa xảy ra, chứ chẳng chuyện gì sẽ không xảy ra. Nhiều chuyện như thần thoại cổ tích song lại ứng hợp với khoa học và triết học đỉnh cao thời đại. ---
--- Có gì lạ khi nhân loại tìm thấy những thành phố chìm dưới đại dương. Một cơn đại hồng thủy có thể sẽ bóp méo trái đất, chỗ cao lún xuống chỗ trũng trồi lên.
Tôi và nhiều người đã đốt hết chín mươi phần trăm thời gian vô ngần quý giá để tạo nên những lâu đài cát. Công sức biển trời của con dã tràng trong một giây bị sóng nghiệp lực xóa sạch. Lòng sân hận của giống loài trên hành tinh cộng lại góp phần tạo nên sóng thần cùng bao thiên tai ác chướng. Khoa học từng đo được mức độ biểu cảm nhạy bén của nước. Nếu ta hòa ái với nước, bức ảnh chụp nước kết tinh đẹp như hoa tuyết; nếu khinh khi sân hận, nước kết tinh xấu như một quả thối. Cơ thể người nước chiếm từ 50 - 70%, là “nói” lên điều gì? Tác phẩm Vạn vật của Vũ trụ Hồng trần của giáo sư Eddington đưa ra một kết luận: “Nếu chúng ta loại bỏ hết các khoảng trống không trong thân thể con người và góp lại những chánh điện tử và điện tử của con người làm thành một khối thì xác thân chỉ còn nhỏ bằng hạt bụi, phải dùng kính phóng đại mới vừa đủ thấy mà thôi”. Ngạc nhiên. Hiểu bản thể của nước, con người sẽ trân trọng mình hơn, yêu thương mình và yêu thương mọi người hơn. Chúng ta không bắt cái thân giả tạm này luôn bị tra tấn bởi bia rượu quá liều, không phải lơ ngơ trong các chất gây nghiện như ma túy cần sa. Yêu bản thân không phải tỉa tót, chăm chút tô son điểm phấn và không được phép ai vấy bẩn lên mình. Biết yêu bản thân là giữ tâm trong sạch, phụng hành điều thiện dẫu nhỏ như việc hại kiến dán. Thể tướng từ đó đẹp ra, thân giảm bệnh, trí tuệ khai; lấy phúc ấy tiếp tục hành thiện trong lặng lẽ, là mở ra một tương lai xán lạn.
Nhân gian như một giấc mộng lớn. Nhưng nhiều người từ mê lại tạo thêm nhiều cảnh mê. Tôn vinh xướng họa phần con, nhấn dìm phần người, tồn tại ngắn mà tích nghiệp vô biên không ra khỏi mê lộ của tâm. Tìm lại chân như trước nhất biết yêu người khác và mở rộng đến cả loài vật. Một đạo sư Ấn Độ trong tác phẩm rất ngắn nhưng quan trọng đã khuyên nhủ người đời: “Nếu người đó thật sự có điều xấu mà con nghĩ, thì con đang làm cho nó mạnh hơn và nuôi dưỡng tính xấu đó; và như vậy con đang làm cho bạn con trở nên xấu xa thay vì tốt lành hơn”. Nước biết được đáp án là công trình tiến bộ vĩ đại, tác giả là tiến sĩ Masaru Emoto, nhận xét: “Tâm của bạn tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ tốt; tâm của bạn không tốt, vạn vật tự nhiên cũng sẽ không tốt”.
Vui mà tâm không thanh tịnh, thì lúc nỗi buồn ập tới cũng khiến ta ưu sầu, mất thăng bằng và, sụp đổ. Cho nên luyện tâm, trước hết phải bình lặng ở sự thành đạt hanh thông, bởi những điều đó khiến tâm kiêu mạn nổi lên xem trời bằng vung rồi chung quy hướng chúng ta vào đau khổ. Nếu ai lấy một triết gia, một nhà văn hay nhà gì đó lẫy lừng làm thần tượng, bất chấp đạo lý loay xoay cố vươn cho bằng họ để “đứng trên mọi người” âu chỉ là sự tụt hậu và đang nhún dây tư tưởng vào cõi vô tận. Tôi và bạn cùng hướng vào nội giới. Câu khắc trên ngưỡng cửa thánh điện Delphes: “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết vũ trụ và các vị Thượng đế”.
Tôi đã 92 tuổi đầu, chỉ chờ ngày xuống lỗ và đã hết ham vừa danh vừa lợi,…nay tôi lại quyết viết mươi trang cà kê cho được hả hơi, vả lại tôi đã hết thời giờ tra cứu tài liệu cũ, vậy tôi xin người đọc hiểu cho tôi, đây là tôi thố lộ tất cả chân tình, tôi tỏ bày riêng cái nghe thấy cạn hẹp của một tên may thời còn sót lại và đã được mớ người trẻ và người cao kiến muốn biết chút lòng kẻ sống dai nầy thôi.
Vương Hồng Sển
LỜI NÓI ĐẦU
Con Cóc là cậu ông Trời
Hễ ai đánh nó thì Trời đánh cho.
Mỗi khi Cóc nghiến răng thì Trời sắp đổ mưa to. Trong sự đơn giản nhất, con người đã tìm ra cách lý giải các hiện tượng tự nhiên vô cùng phong phú qua những thông điệp đẹp đẽ được gợi lên từ cổ tích. Những cổ tích từngàn xưa đó được tái hiện sinh động qua những gì tinh tế nhất, chọn lọc nhất trong Tuyển tập Truyện cổ tích do Nguyễn Hướng Dương (nguyên Giám đốc Thư viện sách nói dành cho người khiếm thị) biên soạn. Nguyễn Hướng Dương (1971 - 2018), bị liệt cả đôi chân năm chị hai mươi lăm tuổi do tai nạn giao thông. Lúc còn sống, chị từng thu âm các băng đĩa sách nói để trao tặng cho người khiếm thị với 450.000 băng casstte và CD trong chương trình sách nói mà thư viện của chị thực hiện. Ngoài ra, chị còn là người sáng lập nhiều chương trình quỹ từ thiện nâng đỡ, thắp sáng niềm tin cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Với tâm huyết và nghị lực lớn lao để tạo nên những giá trị có ích cho cuộc đời, Nguyễn Hướng Dương thiết tha mong muốn mang đến cho thiếu nhi những câu chuyện cổ tích được trình bày bằng lối văn phong và ngôn từ trong sáng, dễ hiểu, không có những tình tiết mâu thuẫn giữa cái thiện - cái ác... Chị đã âm thầm tập hợp, biên soạn lại từng câu chuyện.
Sau khi chị mất, bản thảo được gia đình chị trao tặng cho Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ khai thác và xuất bản.
Tuyển tập Truyện cổ tích tổng hợp khá phổ quát những câu chuyện thuộc đa thể loại như: cổ tích, truyền thuyết, dân gian, ngụ ngôn... của Việt Nam và các nước trên thế giới. Các truyện được sắp xếp theo thứ tự tên truyện từ A đến Z để thuận tiện cho bạn đọc tra cứu. Lối kể chuyện tự nhiên, gần gũi, tình tiết thú vị, hợp tình hợp lý. Mỗi câu chuyện là mỗi sắc thái đời sống, mỗi bài học luân lý cương thường khác nhau nhưng tất cả đều ẩn chứa những quy luật sống của vạn vật, quy luật nhân - quả. Những câu chuyện cổ tích như những giấc mơ, những cuộc phiêu lưu, những ước nguyện đẹp được dân gian mãi lưu truyền cho đến nay. Đó là món quà quý giá nhất mà nhân loại đã gửi gắm đến chúng ta. Không có niềm tin vào điều kỳ diệu và sự công bằng, luân lý trong càn khôn trời đất, làm sao con người có thêm sức mạnh để vượt qua những mất mát, tai ương mà sống tốt, sống đẹp?
Nếu cổ tích là những giấc mơ, thì Tuyển tập Truyện cổ tích chính là giấc mơ, tâm nguyện của Nguyễn Hướng Dương vẫn còn tiếp diễn mãi, luân chuyển mãi với đời như vầng dương rạng rỡ và ấm áp.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - VĂN NGHỆ
Trích Con mối làm chứng:
Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia sống rất nghèo khổ. Họ có một đứa con trai khoảng chín mười tuổi nhưng thông minh lanh lợi hơn người. Một năm nọ, mùa màng thất bát, cả nhà lâm vào cảnh đói kém, hai vợ chồng phải đi vay nhà cụ Bá cả vốn lẫn lời lên tới ba mươi quan tiền. Hạn vay đã hết mà họ vẫn không có đủ tiền để trả. Chủ nợ mấy lần cho người đến đòi, hai vợ chồng lần nào cũng van nài xin khất, chừng nào gom đủ tiền sẽ trả.
Một hôm, đích thân cụ Bá tới nhà thúc nợ. Tới nơi,
thấy đứa bé đang ngồi chơi một mình ngoài sân, lão hỏi:
- Ê, thằng nhỏ kia, cha mẹ mày đâu? Bộ tính quỵt
nợ của tao luôn hả? Tao nói cho mà biết, không thoát khỏi
tay tao đâu.
- Thưa ông, cha mẹ con không có nhà.
- Cha mẹ mày đi đâu, hả?
- Dạ, cha con đi chém cây sống, trồng cây chết; mẹ con đi bán gió mua que.
- Hả? Mày nói cái gì? Mày nói cha mày chém cái gì? Trồng cái gì?
- Chém cây sống, trồng cây chết.
- Vậy nghĩa là làm sao? Còn mẹ mày... mày nói mua
cái gì, bán cái gì?
- Dạ, bán gió mua que.
- Chà, cái thằng này, mày nói cái gì mà nghe lạ đời quá vậy. Chém cây sống, trồng cây chết... rồi còn bán gió mua que... Nè, mày phải cắt nghĩa cho tao nghe coi, như vậy là cha mẹ mày làm cái gì mới được chớ!
Em bé tủm tỉm cười:
- Ông cứ đoán đi, dễ ẹc à!
Cụ Bá nghĩ mãi không ra, bèn nói:
- Hừ mày nói cái gì khó hiểu quá, tao đoán hoài không ra. Thôi, bây giờ mày nói đi.
- Nhưng mà ông phải cho con cái gì, con mới nói.
- Mày cứ nói đi, tao nghe có lý thì tao xóa hết nợ cho
nhà mày.
- Có thiệt vậy không ông? Ông đừng có xí gạt con
đó nha!
- Thiệt chứ sao không! Hổng lẽ tao đi nói xạo với một thằng con nít như mày sao?
- Nhưng mà phải có người làm chứng mới được.
Lão chủ nợ nghĩ bụng: “Thằng này còn nhỏ mà khôn quá chừng. Mình phải kiếm cách gì giả lả cho qua thì nó mới nói”. Vừa lúc đó, thấy một con mối bò ra đớp mồi, lão bèn nói:
- À, con mối này nè. Được đó, để tao kêu con mối làm chứng, mày trả lời cho tao đi, nếu đúng, tao sẽ xóa nợ cho cha mẹ mày.
Lúc bấy giờ, em bé mới thong thả nói:
- Thưa ông, cha con đi cắt lúa hổng phải chém cây sống, trồng mạ xuống là trồng cây chết sao. Còn mẹ con đi bán quạt mua tre, mà bán quạt mua tre tức là bán gió mua que chớ còn gì nữa.
- Ha ha, hay, hay, hay! Thằng nhỏ này khôn thiệt.
Trích Em bé thông minh:
Không bao lâu sau, có viên quan của nước láng giềng đi sứ sang nước ta. Để thăm dò xem bên này có nhân tài hay không, ông bèn đưa ra một câu đố. Viên sứ thần cầm một cái vỏ ốc rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ xuyên qua ruột ốc, từ đầu này sang đầu bên kia.
Các quan đại thần ai nấy đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để xâu... Thôi thì đủ cách, nhưng tất cả đều vô hiệu. Đến lượt các quan trạng, các nhà thông thái được triệu vào cũng đành lắc đầu, bó tay. Chợt nhớ đến em bé thông minh hôm nọ, nhà vua lập tức sai người đi tìm.
Khi viên quan của triều đình phóng ngựa đến trước cửa nhà em, thì em còn đang đùa nghịch ngoài sân. Không đợi viên quan hỏi, em bé hát lên rằng:
Tang tình tang! Tính tình tang.
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng.
Bên thì lấy giấy mà bưng.
Bên thì bôi mỡ, kiến mừng kiến sang!
Tang tình tang! Tính tình tang.
Rồi nói:
- Dạ thưa, ông cứ theo cách đó mà làm là được.
Quả nhiên, con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua được ruột ốc trước cặp mắt kinh ngạc và khâm phục của sứ giả nước láng giềng.
Về sau, em bé thông minh ấy thi đỗ trạng nguyên, một lòng một dạ giúp vua trị vì đất nước.
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
Tác giả: Nam Phong tùng thư - Phạm Quỳnh chủ nhiệm
Bộ sách Phạm Quỳnh do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM phối hợp thực hiện.
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
“Tiểu thuyết đã là một truyện bịa đặt ra, thì phần cốt yếu trong phép làm tiểu thuyết là sự kết cấu. Kết cấu là thế nào? Kết cấu là tự không gây dựng ra, bày vẽ ra, đặt để ra, xếp các nhân vật, các tình tiết, cho có đầu đuôi, có sau trước, có mành mối, có ngành ngọn, nói tóm lại là đặt thành một truyện hiển nhiên như truyện thật, khiến cho người đọc đương lúc đọc mơ màng tưởng tượng như là việc có thực vậy. Tài nhà làm tiểu thuyết phần nhiều là ở cái tài kết cấu đó”.
“Mục đích tôi trong bài diễn thuyết này là muốn chứng rõ rằng tiếng quốc âm ta phong phú dường nào, và cái văn chương truyền khẩu của ta thanh tú biết bao nhiêu. Tiếng An-Nam ta hay lắm, các ngài ạ. Người ngoại quốc cũng phải khen là một thứ tiếng êm như ru, vui như hát, mỗi vần đánh ra năm dấu, đọc thành sáu giọng khác nhau, như trong cung đàn vậy. Tưởng không có mấy thứ tiếng hòa bình êm ái bằng tiếng ta. Vậy thì bọn ta phải nên trân trọng lấy cái quốc âm quí báu ấy, ra công tập luyện trau dồi cho mỗi ngày một hay một đẹp hơn lên, dù ta học chữ Tây hay chữ Tàu, ta cũng chớ nên quên bỏ tiếng Tổ quốc, là cái tiếng từ khi lọt lòng ra đã học nói, và đến khi hấp hối chết cũng còn nói".
Mấy năm nay ở nước ta, người làm tiểu thuyết, người đọc tiểu thuyết đã thấy nhiều. Phàm buổi mới đầu, lấy đâu được tốt. Cho nên người làm tiểu thuyết còn ít thấy hay, mà người đọc tiểu thuyết cũng chưa được sành. Lối tiểu thuyết trong văn chương ta thật là chưa có phương châm, chưa có định thể vậy. Đương lúc bây giờ, nên giải nghĩa rõ tiểu thuyết là gì, và bàn qua về phép làm tiểu thuyết ở các nước Âu Mĩ thế nào, tưởng cũng có thể giúp cho nghề tiểu thuyết ở nước ta được một đôi phần vậy.
--- 1 ---
Tiểu thuyết là một thể văn chương thịnh hành nhất đời nay. Trong các sách xuất bản ở các nước hiện bây giờ, quá nửa là sách tiểu thuyết. Trong các báo hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, không bao giờ là không có một phần tiểu thuyết. Tiểu thuyết thịnh hành như thế thời chắc là người đời ưa tiểu thuyết và lối tiểu thuyết là hợp với tính tình tư tưởng của phần nhiều người ta. Xét lịch sử, lối tiểu thuyết có đã lâu: ở nước Tàu thì thịnh hành từ đời nhà Nguyên; ở nước Pháp thì phôi thai từ thế kỷ thứ 13, 14; nhưng thành thể tài như ngày nay là mới bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, nghĩa là trong khoảng hơn một trăm năm nay. Cho nên các sách lịch sử văn học Âu châu đều nói rằng “thế kỷ thứ 19 là thế kỷ tiểu thuyết” (le 19e siècle est le siècle du roman).
Nay cứ lý hội các tính cách chung của tiểu thuyết đời nay thì có thể giải nghĩa tiểu thuyết như thế này: Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú. Như vậy, thì phạm vi của tiểu thuyết rộng lắm: phàm sách gì không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo cứu, sách thi ca, thì là tiểu thuyết cả, mà tiểu thuyết có khi lại gồm được cả các lối kia, vì trong một bộ tiểu thuyết, cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh, chỗ khuyên răn. Cứ nghĩa hai chữ “tiểu thuyết” (……) trong sách Tàu thời lại rộng lắm nữa: phàm sách gì không phải là “chính thư” (nghĩa là sách để học, như kinh, truyện, sử, vân vân), đều là tiểu thuyết cả, nhưng tiểu thuyết đây tức là tạp thuyết, có khác với nghĩa tiểu thuyết như bây giờ. Tiểu thuyết bây giờ thì như trên kia đã giải phải là một truyện đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo lối tự sự, như lời nói thường, nhưng cũng có một đôi khi viết bằng lối vận văn, như Truyện Kiều (song ít lắm, có lẽ không đâu có lối tiểu thuyết bằng vận văn giống như các “truyện” ta). Nói tóm lại, tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị. Ấy cái tính cách chung của tiểu thuyết là thế. Còn thể thức thì thật là thiên hình vạn trạng. Một nhà làm sách khảo về lịch sử lối tiểu thuyết trong văn chương nước Pháp, đã nói rằng: “Lối tiểu thuyết như ông thần “biến tướng” trong truyện Hi Lạp đời xưa, thay hình đổi dạng đủ cách để làm cho người ta được hứng thú. Hoặc kể truyện phong tình êm ái mà khiến cho lòng ta phải cảm động; hoặc thuật truyện anh hùng hào kiệt mà khiến cho trí ta phải mơ màng. Hoặc tả tính tình rất tinh tế, họa chân cảnh rất xảo kỳ, đều là làm khoái trá cho tinh thần ta cả. Có khi đem ta ra ngoài những nơi kẻ chợ nhà quê mắt đã trông lắm lấy làm nhàm, mà đưa tới những phương xa cõi lạ có chim kêu vượn hót, cây đẹp cỏ thơm. Người ta chẳng qua là một lũ con trẻ lớn, cho nên dẫu là người đa tình đa cảm hay là người hiếu học hiếu kỳ, đọc tiểu thuyết cũng phải thích, vì tiểu thuyết khéo bày đặt những truyện vui truyện lạ cho ai nấy cũng phải mê”. (Véritable Protée, le roman revêt toutes les forines pour nous séduire. Il émeut notre coeur ou notre imagination avec de douces histoires d’amour et des aventures héroĩques. Il charme notre esprit par des minutieuses analyses de l’âmeet par des peintures savantes de la réalité. Il nous entraine enfin loin des villes banales et des pays trop connus vers ces lointaines contrées où d’étranges oiseaux chantent sur des arbres merveilleux. Et que I’on soit un rêveur, que I’on aime la science et la psychologie, que I’on ait une humeur aventureuse, peu importe! Le roman sait toujours conquérir les grands enfants que nous sommes en offrant à chacun ce qui flatte sa manie ou sa passion). (L.LEVRAULT. Les genres littéraires: le Roman).
Hình thức tiểu thuyết đã bất nhất như thế, thì nghề làm tiểu thuyết cũng không có phép tắc nhất định được. Thi ca có phép tắc của thi ca, diễn kịch có phép tắc của diễn kịch, ai chuyên nghề ấy, phải biết cho sành, mới khỏi lầm lẫn. Nhưng phép tắc của tiểu thuyết thì khó lòng mà giải thích cho tường được. Hoặc nói rằng tiểu thuyết cốt đặt truyện cho khéo, kể ra cho hay, là phép tắc của tiểu thuyết thì nói thế cũng chưa đủ định phương châm cho nghề tiểu thuyết được. Song tuy tiểu thuyết thiên hình vạn trạng thật, mà không phải là không có thể chia ra mấy chủng loại lớn, gồm lại mấy phương pháp ấy là nhất định, những chủng loại ấy là bất dịch, mà nên cho là biểu cái đại khái mà thôi. Vậy trước xin bàn qua về phương pháp chung của tiểu thuyết, rồi phân ra mấy chủng loại lớn mà xét riêng về mỗi loại như sau này, không dám tự phụ làm sách chỉ nam cho những nhà soạn tiểu thuyết cùng những người đọc tiểu thuyết, nhưng gọi là giải nghĩa qua về một lối văn chương mới nhóm lên ở nước ta bây giờ và sau này chắc là phát đạt to.
Lời nói đầu
Những thập niên cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, trong đó, phương tiện quan trọng để phổ biến và hoàn thiện chữ quốc ngữ chính là báo chí quốc ngữ. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm ra đời ngày 01/7/1917 là một trong số đó.
Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay sau khi đỗ đầu bằng Thành chung ông đã được bổ làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ (1908), sớm tham gia Đông Dương tạp chí (1913), có nhiều bài báo được độc giả đương thời chú ý. Vì nền tảng tư chất học thuật và những đóng góp, trải nghiệm thực tế đó mà Phạm Quỳnh được giao cho phụ trách Nam phong tạp chí.
Tạp chí tồn tại trong hơn 17 năm, từ tháng 07/1917 đến tháng 12/1934, chủ trương “thổ nạp Á - Âu, điều hòa tân cựu”, với tôn chỉ rất rõ ràng:Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật Đông Tây kim cổ; luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn…
Các tác giả của Nam Phong tạp chí khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương,lịch sử của Á Đông và châu Âu, dịch những tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, đăng những sáng tác đương đại… Tinh thần tranh biện, phản biện, lý luận đề cao cái mới trên Nam Phong tạp chíđược đánh giá là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc nhưng vẫn có giá trị bảo tồn văn hóa, văn học truyền thống. Nhiều bài viết có tính học thuật khá cao, đến nay vẫn được tham khảo.
Ban Biên tập Nam phong tạp chí thành lập nhà xuất bản riêng, lấy tên là Nam Phong tùng thư, cùng có chung tôn chỉ, mục đích: “… dùng chữ quốc ngữ làm lợi khí để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một lên cao”. Nam phong tùng thư in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng.
Đến hôm nay, những cuốn sách tuổi đời gần trăm năm, trong đó có sách của Nam Phong tùng thư vẫn còn nằm đâu đó trong bộ sưu tập của những người đam mê sách hay được bảo quản tại hệ thống thư viện. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc, giảng viên, học sinh, sinh viên đã đến thư viện tìm đọc những cuốn sách này để tìm hiểu chữ quốc ngữ thuở ban đầu ra sao, các bậc trí thức ngày xưa đã bước đầu tham dự vào lĩnh vực học thuật, văn hóa, khoa học thế giới như thế nào… Nhưng số lượng sách có một thế kỷ tuổi đời như vậy được lưu giữ ít ỏi và quá cũ, rất khó để nhiều lượt bạn đọc có thể tiếp cận và sử dụng.
Với mong muốn khôi phục lại những cuốn sách xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ phối hợp với Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chọn lọc và in lại một số tập sách. Đầu tiên chúng tôi chọn ra mắt bạn đọc ba cuốn sách của Nam Phong tùng thư do Phạm Quỳnh biên dịch, biên soạn, gồm:
• Lịch sử thế giới
• Lịch sử và học thuyết của Voltaire
• Khảo về tiểu thuyết - Tục ngữ ca dao
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Quà tặng cho con
Tác giả: Trần Nguyên Hạnh
Bút danh: Trần Nguyên Hạnh
Tên thật: Nguyễn Thị Hạnh
Sinh ngày 7/6
Hiện sống và làm việc tại Đà Nẵng
Quà tặng cho con
Tôi tin rằng mỗi người mẹ hẳn đều mong muốn dành tặng cho con mình những điều tốt đẹp nhất. Với một người viết như tôi, ngôn từ chính là tài sản, là quà tặng và là cầu nối giúp tôi hiện thực hóa mong muốn ấy. Đó là lý do tôi viết cuốn sách này- như món quà từ một người mẹ dành tặng các con của mình.
Tôi cho rằng, yêu thương bắt nguồn từ sự lắng nghe, chia sẻ và thấu hiểu. Ở mỗi chặng đường của cuộc đời mình, tôi luôn nhận thấy tình yêu thương chính là điều duy nhất gắn kết tôi với cuộc sống này. Tôi cũng tin rằng tình yêu thương chính là điều gắn kết những thế hệ khác nhau. Trong một mái nhà, khi yêu thương lan tỏa, sẽ chẳng có cơn gió nào đủ sức làm lạnh lẽo tâm hồn.
Nếu ngôn ngữ như một sợi dây thì cảm xúc sẽ làm nhiệm vụ kết nối hai đầu sợi dây ấy. Thật may mắn khi tôi có thể dùng con chữ của mình để chia sẻ một điều gì đó. Cảm ơn tình yêu thương và những cảm xúc đẹp đẽ nhất đã luôn ở lại bên cạnh tôi, để tôi có thể đặt bút xuống viết nên cuốn sách này.
Trong cuộc đời, nếu không được yêu thương, thì chúng ta sẽ không có niềm tin vào những điều tốt đẹp, chúng ta cảm thấy tự ti, dễ dàng bị lạc lối và bị dẫn dắt bởi điều xấu. Tôi ao ước rằng cuốn sách này sẽ được đón nhận như một lời thì thầm đầy sự động viên, an ủi và khích lệ cho những tâm hồn mong manh và thiếu thốn tình thương. Mặc dù cuốn sách được viết ra không phải từ một người mẹ đã chinh qua biết bao đắng cay khổ ải của cuộc đời, cũng không nhằm mục đích giáo huấn con cái nhưng tôi đã viết cuốn sách này bằng tất cả những thanh âm đầy yêu thương đang réo rắt trong tâm hồn mình với mong muốn lại gần hơn nữa những tâm hồn như thế. Tôi muốn đến với chúng như một người bạn, mang những câu chuyện thật nhất từ trải nghiệm để đồng cảm và sẻ chia.
Đi cùng những dòng viết rất chậm dưới đây là những tháng năm tôi đang sống và cố gắng để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Dù vậy, dẫu đi qua những ngày xanh thẳm hay những mệt mỏi, lo toan, cùng kiệt giữa đời sống, tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ đến việc bỏ lỡ cuốn sách này.
Mến tặng cuốn sách này cho các con của tôi cùng những tâm hồn mong manh trong cuộc đời - bằng tất cả yêu thương.
Và cho những ngày Sài Gòn nhiều gió.
Nơi tuổi trẻ của tôi đã ở lại.
Với biết bao niềm vui xen lẫn những nỗi buồn sâu đậm.
Sài Gòn, ngày 02.01.2019
Tác giả
Trích đoạn Con là phiên bản đặc biệt nhất của chính mình:
Con thân yêu, con là phiên bản đặc biệt nhất của chính con. Hãy luôn nhớ lấy điều này và tự tin lên con nhé.
Có thể một lúc nào đó, con quên mất điều này khi thấy những người bạn khác có điều mà con không có được. Nhưng con à, thế giới không thiếu những người đi ngưỡng mộ những điều
người khác đang có và ao ước có được điều người khác đang sở hữu mà quên mất rằng họ cũng đang sở hữu những tiềm năng và tài sản mà người khác không có được. Hãy tập trung hết sức lực để phát huy tiềm năng của mình. Khi đó, con sẽ chẳng phải nhìn ngắm và ao ước những điều không thuộc về con.
Đừng để cho những tiềm năng trong con phải ngủ yên mãi khi con chăm chú vào cuộc đời người khác hay mong cầu mình cũng sở hữu những điều người khác đang có. Mỗi người đến với cuộc đời này với một vai trò, một sứ mệnh khác nhau và mang trong mình những tiềm năng khác nhau.
Trích đoạn Hãy học cách bảo vệ trái tim:
Hãy luôn ý thức bảo vệ trái tim của mình, để tránh khỏi những tổn thương không đáng có.
Con gái yêu quý, bởi vì trái tim con người là thứ mong manh vô cùng nên hãy học cách bảo vệ nó,
con nhé.
Dẫu các bác sĩ tim mạch vẫn ngày đêm nhắc nhở chúng ta những nguyên tắc vàng để có một trái tim khỏe mạnh như hãy tránh xa khói thuốc lá, hãy luyện tập thể dục thể thao, phải xây dựng một chế độ dinh dưỡng hợp lý, hay cố gắng giảm các thức uống có cồn… Thì tất cả những điều đó mẹ vẫn nghĩ là chưa đủ cho một đứa con gái đâu.
Để học cách bảo vệ trái tim, con cần hiểu rõ về trái tim của mình. Hầu hết hành động và suy nghĩ của con gái thường đều tập trung ở trái tim. Trái tim trở thành một vị trí trung tâm điều khiển hầu hết mọi suy nghĩ hành động của con gái. Đó cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa con gái và con trai. Khi con gái sử dụng trái tim vào hầu hết tất cả mọi việc thì con trai lại ưu tiên dùng lý trí nhiều hơn. Điều đó cho thấy vì sao con trai thường mạnh mẽ, bản lĩnh khi ứng xử trước một tình huống trong cuộc sống, trong khi con gái thường yếu đuối, suy nghĩ lẫn hành động thiên về cảm xúc nhiều hơn.
Cũng bởi vì vậy, khi con gái rơi vào tình yêu sẽ dùng trái tim và cảm xúc nhiều hơn là con trai. Trong khi đó cảm xúc là một thứ rất nguy hại. Đắm chìm trong cảm xúc và bị dẫn dắt bởi cảm xúc thì thật khó để có thể ứng xử sáng suốt trong tình yêu. Hầu hết con gái thường yêu hết mình và sẵn sàng dâng hiến tất cả trái tim mình cho người yêu. Trong cuốn sách Thuật yêu đương, tác giả Nguyễn Duy Cần có viết về con gái như sau: “Họ yêu bằng quả tim, họ suy nghĩ bằng quả tim, hành động theo cảm xúc của quả tim. Tình yêu của con gái là một thứ tình yêu vị tha, nghĩa là trung tâm tình yêu của họ không phải nơi họ mà là nơi một kẻ khác, một kẻ mà yêu thương như chồng, con, cha, anh, bè bạn.” Điều này chính là nguồn gốc cho những đau khổ luôn xảy đến với con gái.
Mẹ mong con hiểu rõ những nhược điểm của trái tim mình để có thể điều chỉnh suy nghĩ và hành động của chính con. Hãy sống với một trái tim con gái nhưng nên biết giữ chút tỉnh táo trong tình yêu để có thể tránh khỏi những tổn thương không đáng có.
Nhiều người con gái quên mất giá trị của chính mình, quên mất mục đích chúng ta bước vào tình yêu mà sẵn sàng chạy theo, quỵ lụy một người con trai, làm tất cả mọi điều để người con trai đó vui vẻ, thậm chí đánh mất bản thân mình. Không những vậy họ còn đem cả, những thứ quý giá chỉ dành cho người chồng tương lai trao cho người chưa chắc có phải là chồng của mình hay không.Việc sẵn sàng trao đi tất cả mọi thứ cho một người con trai chưa chắc chắn sẽ khiến người con gái sống trong cảm giác bất an và lo sợ anh ta sẽ có lúc bỏ rơi mình. Tình yêu và cuộc sống của người con gái lúc này phụ thuộc hoàn toàn vào người con trai ấy.
Con yêu, mẹ mong con sẽ không sống như thế. Bởi vì con xứng đáng được một người con trai yêu thương, và trân trọng con. Một người sẵn sàng đánh đổi thời gian, quan tâm, lo lắng và yêu thương con vô điều kiện. Một người bản lĩnh và chuẩn mực có thể làm chủ gia đình, làm nơi nương tựa cho con, làm bố các con của con. Để gặp được một người con trai như thế, con cần hiểu rằng bản thân mình cũng phải trở thành một người xứng đáng với điều đó.
“Một N.V.L hay vài N.V.L không thể biết hết mọi việc, nói hết mọi việc và làm hết mọi việc. Chỉ có sự nhất trí hành động của toàn Đảng, toàn dân mới có thể tạo nên chuyển biến thật sự cho đất nước”. - Nguyễn Văn Linh
Lời nói đầu
Chuyên mục “Những việc cần làm ngay” gồm 31 bài báo của tác giả N.V.L. đăng tải trên báo Nhân dân từ ngày 25-5-1987 đến 28-9-1990 là một chuyên mục tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống xã hội và báo chí những năm đổi mới. Với tinh thần đổi mới thật sự và chống tiêu cực mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng đất nước đi dần đến ổn định, các bài báo ký tên N.V.L. của chuyên mục “Những việc cần làm ngay”đã nhận được sự ủng hộ rộng lớn từ khắp nơi và của hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Có thể thấy ý nghĩa to lớn của loạt bài ký tên N.V.L. thể hiện ở khía cạnh: vừa là đường hướng lãnh đạo, đáp ứng đòi hỏi của tình hình, vừa phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, cán bộ cả nước.
Dấu ấn và đóng góp của chuyên mục không chỉ riêng trong lĩnh vực báo chí và kinh tế – xã hội giai đoạn đầu đổi mới mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc, còn nguyên giá trị đến hôm nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mụctiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh chính là tác giả của 31 bài báo ký tên N.V.L. trong chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân, lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 95 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 – 21-6-2020) và kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1-7-1915 –1-7-2020), Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ giới thiệu lại nguyên văn 31 bài báo của tác giả N.V.L. trong chuyên mục cùng tên “Những việc cần làm ngay”. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Lịch sử thế giới
“Lịch sử là cái gương cho người đời; nếu biết tường việc trước có thể đoán được việc sau, dẫu không đoán được đúng hẳn, nhưng cũng biết cái đại thế các việc trong thiên hạ, hễ nguyên nhân nhân thế thì kết quả thế, khi thi thố ra công việc cũng tránh được nhiều sự sai lầm”.
“Nhà làm sử xét một xã hội nào phải biết cả những thói ăn cách ở của những người trong xã hội ấy; càng những việc nhỏ việc thường, đối với con mắt nhà sử học, lại có quan hệ lắm, vì là tiêu biểu được cái tình trạng thông thường trong xã hội. Bởi thế nên lịch sử không phải là chỉ khu khu trong những việc trận mạc, việc vua quan, mà bao quát cả các chế độ, tư tưởng, phong tục, kinh tế, các trạng thái phiền phức về xã hội. Lịch sử ngày nay tràn sang khắp cả các khoa học khác, không có một khoa học nào mà không có một phần lịch sử ở trong. Cái quan niệm rộng rãi về lịch sử đó mới khởi ra từ thế kỷ XIX, nên có người đã gọi thế kỷ ấy là “thời đại của lịch sử” (le siècle de l’histoire)”.
Xét riêng từng dân từng nước, thời mỗi nước mỗi dân có một cái văn hóa riêng, khác với văn hóa của các dân các nước khác. Nhưng xét chung cả vạn quốc trong thế giới, thì hình như cả nhân loại đều theo một con đường tiến hóa chung, trải đời ấy sang đời khác, tự dã man đến bán khai, tự bán khai đến văn minh, tới ngày nay thời đã đến một cõi văn hóa đại đồng, tuy ở trong có dân hơn dân kém, trình độ sai nhau, mà xét đại thế thời cũng là thuộc vào một thời kỳ trong lịch sử. Cho nên nhà sử học xét về văn minh tiến hóa, có thể theo hai phương diện khác nhau: một là khảo về lịch sử văn minh riêng của từng nước; hai là khảo về lịch sử văn minh chung cả thế giới. Phương diện trên là phương diện chuyên môn, phương diện dưới là phương diện tổng quát. Chuyên môn thời vụ cho tinh tường, tổng quát thì chủ lấy khắp đủ. Một thế kỷ về trước, cuộc đời chửa mở mang, các nước còn bế cảng, nhà sử học dẫu có tài bao quát đến đâu cũng không mong lý hội (*) được hết các việc của vạn quốc; cho nên tuy nước nào có lịch sử nước ấy, biên chép rõ ràng, mà chửa ai tổng hợp cả sử riêng của các nước, làm ra một bộ sử chung của nhân loại, cho biết giống người ta từ khi mới xuất hiện trên mặt đất đã qua bao nhiêu trình độ mới tới ngày nay, và trong cái công khai hóa chung cả thế giới, mỗi dân mỗi nước đã giúp được phần nào. Ngày nay khoa học tấn tới, vạn quốc thông đồng, việc một trăm năm trước chửa ai làm, bây giờ đã nhiều người chuyên trị, và những sách về “Thế giới văn minh sử” hiện nay ở nước nào cũng đã có. Song bao gồm cả lịch sử loài người, từ thuở ăn lông ở lỗ cho đến đời tàu lặn tàu bay, phạm vi không khỏi to tát quá, dù nhà bác học tận tụy một đời cũng chửa mong khảo cứu được khắp, chẳng qua là phác họa được cái đại cương mà thôi. Bởi thế nên các nhà sử học chuyên trị về lịch sử văn minh thế giới, thường chia ra những thời kỳ lớn, mỗi thời kỳ đối với một việc đại sự hay là một cuộc đại biến trong thiên hạ, có ảnh hưởng sâu đến cuộc tiến hóa chung, mỗi thời kỳ cách nhau tới trăm nghìn năm, khác nào như cắm mốc trên con đường dài, mỗi cái xa nhau tới trăm nghìn thước vậy. Những cái mốc ấy, người đi đường tất phải biết, mới đo được bước đường mình đã qua, rõ được trình độ mình đã tới, và ngó thấy tiền đồ còn phải đi. Bởi thế không thể không biết qua các thời kỳ lớn trong lịch sử văn minh thế giới; mục đích sách này chính là để cống hiến cho các nhà hiếu học trong nước ta mấy điều cốt yếu về lịch sử loài người mà ai ai cũng cần phải biết vậy.
*. Lý hội: sự thấu hiểu.
Những chú thích đánh dấu (*) là của BT.
Lời nói đầu
Những thập niên cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, trong đó, phương tiện quan trọng để phổ biến và hoàn thiện chữ quốc ngữ chính là báo chí quốc ngữ. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm ra đời ngày 01/7/1917 là một trong số đó.
Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay sau khi đỗ đầu bằng Thành chung ông đã được bổ làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ (1908), sớm tham gia Đông Dương tạp chí (1913), có nhiều bài báo được độc giả đương thời chú ý. Vì nền tảng tư chất học thuật và những đóng góp, trải nghiệm thực tế đó mà Phạm Quỳnh được giao cho phụ trách Nam phong tạp chí.
Tạp chí tồn tại trong hơn 17 năm, từ tháng 07/1917 đến tháng 12/1934, chủ trương “thổ nạp Á - Âu, điều hòa tân cựu”, với tôn chỉ rất rõ ràng:Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật Đông Tây kim cổ; luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn…
Các tác giả của Nam Phong tạp chí khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á Đông và châu Âu, dịch những tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, đăng những sáng tác đương đại… Tinh thần tranh biện, phản biện, lý luận đề cao cái mới trên Nam Phong tạp chíđược đánh giá là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc nhưng vẫn có giá trị bảo tồn văn hóa, văn học truyền thống. Nhiều bài viết có tính học thuật khá cao, đến nay vẫn được tham khảo.
Ban Biên tập Nam phong tạp chí thành lập nhà xuất bản riêng, lấy tên là Nam Phong tùng thư, cùng có chung tôn chỉ, mục đích: “… dùng chữ quốc ngữ làm lợi khí để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một lên cao”. Nam phong tùng thư in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng.
Đến hôm nay, những cuốn sách tuổi đời gần trăm năm, trong đó có sách của Nam Phong tùng thư vẫn còn nằm đâu đó trong bộ sưu tập của những người đam mê sách hay được bảo quản tại hệ thống thư viện. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc, giảng viên, học sinh, sinh viên đã đến thư viện tìm đọc những cuốn sách này để tìm hiểu chữ quốc ngữ thuở ban đầu ra sao, các bậc trí thức ngày xưa đã bước đầu tham dự vào lĩnh vực học thuật, văn hóa, khoa học thế giới như thế nào… Nhưng số lượng sách có một thế kỷ tuổi đời như vậy được lưu giữ ít ỏi và quá cũ, rất khó để nhiều lượt bạn đọc có thể tiếp cận và sử dụng.
Với mong muốn khôi phục lại những cuốn sách xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ phối hợp với Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chọn lọc và in lại một số tập sách. Đầu tiên chúng tôi chọn ra mắt bạn đọc ba cuốn sách của Nam Phong tùng thư do Phạm Quỳnh biên dịch, biên soạn, gồm:
• Lịch sử thế giới
• Lịch sử và học thuyết của Voltaire
• Khảo về tiểu thuyết - Tục ngữ ca dao
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
“Nếu gặp laị nhau ngày sau, liệu ta sẽ thế nào?”
Tác giả: Bỉnh Khôi
Sinh năm 1992
Quê quán: Cần Thơ
“Những chuyến tàu mùa hè mang đến một giọng văn rất đặc biệt và nhiều cảm xúc” – TS. Bùi Trần Quỳnh Ngọc, Trưởng phòng Sau Đại học trường Đại Học Sư phạm TP.HCM
“Những chuyến tàu mùa hè gợi cho tôi nhiều cảm xúc về những năm tháng tuổi trẻ. Về những người trẻ ngây thơ, mộng mơ, cuồng nhiệt với những giấc mơ đời mình. Và vì thế thanh xuân của chúng ta thật đẹp”. – TS Luật - Luật sư - Họa sĩ Amanda Huỳnh
Lời nói đầu
Vài lời gửi những người thương,
Tôi không nghĩ đây là một quyển sách, hay là một công trình nghệ thuật mà chỉ là một quyển sổ ghi chép về hành trình tìm kiếm hạnh phúc của những người trẻ. Đó là một cậu bé đen nhẻm, hay bị bạn bè ức hiếp ở trường trung học. Một chàng trai đồng tính với xuất thân từ gia đình giàu có nhưng luôn cô quạnh vì những lời miệt thị của cuộc đời. Một cô gái trót lầm lỡ với người yêu nơi phương xa. Một người đàn ông đang đứng trên đỉnh cao của thành công nhưng lại luôn mang trong mình sự ray rứt, đau khổ khi nghĩ về thời gian thanh xuân cơ cực sống cùng bố mẹ. May mắn thay, hình như có một phép màu nào đó mà khi đối diện với những đau khổ trong cuộc đời, tất cả họ đều có thể vượt qua và tiếp tục bước đi trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Hy vọng rằng những câu chuyện được ghi chép từ quyển sổ này có thể tạo nên sự đồng cảm với những bạn trẻ khác, những bạn trẻ cũng đang bước đi cô đơn và đối mặt với nhiều khó khăn trên đoạn đường mình đã chọn.
Cảm ơn bố mẹ vì đã sinh ra con với một tâm hồn nhiều xúc cảm để con có thể sống một cuộc đời bình thường, viết nên những dòng chia sẻ bình thường và chân tình gửi đến những người con yêu quý.
Bỉnh Khôi (FOX)
Trích đoạn ĐÊM HÔM ẤY BA TÔI CÓ THÈM MỘT TÁCH TRÀ?
Lớn lên, đi học, đi làm xa nhà, mỗi khi buồn bực tôi hay ước mình được trở về với ba mẹ, buổi sáng nằm trong chăn, nghe tiếng hát của Khánh Ly xuyên qua tấm màn the trước cửa. Sau đó là tiếng ấm nước đun sôi, ba mẹ tôi dậy sớm vừa pha trà uống vừa trò chuyện rôm rả.
Ấm trà luôn gợi tôi nhớ về những buổi sáng ba hay khoe với mẹ rằng mới được chồng cọc gỗ tràm hay vụ lúa mùa này trúng lớn. Tôi đập tay lên mặt ông anh trong cơn ngái ngủ: “Vậy là mai ba mua quần áo mới cho đi học. Có gạo đổi bánh ống ăn nữa”. Sáng đó, cả gia đình tôi đã dậy rất sớm. Trên chiếc xuồng ba lá nhỏ, ba mẹ chèo ngược con nước đưa chúng tôi ra phiên chợ quê để sắm sửa vài ba vật dụng trong nhà, nào là muối, là gạo, là buồng cau cho nội, là khúc vải may áo cho mẹ. Niềm vui ngày đó giản đơn nhưng ấm áp. Những năm tháng sau này, khi đã đi làm và kiếm được rất nhiều tiền, đủ để mua cho ba mẹ và bản thân nhiều thứ nhưng chẳng bao giờ tôi có thể tìm lại được cảm giác hân hoan của ngày xưa ấy.
Trích đoạn MÙA HÈ NĂM ĐÓ, GIÓ ĐÃ THỔI TÔI ĐI ĐÂU?
Vết thương đau tê tái nhưng nguyên biết nó không đau bằng lòng mình. Thứ niềm đau âm ỉ, ghê sợ quấn chặt trái tim khi nghĩ về Quân, nghĩ về những chiếc hôn, về hơi thở dồn dập của cậu ấy trên một bầu ngực nào khác – chẳng phải Nguyên.
Hôm cuối cùng gặp nhau, Nguyên ngồi đối diện Quân ở một quán cà phê vắng người giữa lòng Sài Gòn. Nguyên nhớ mình đã ghìm chặt những tổn thương trong lòng để hỏi anh: “Anh biết Lan là bạn thân của em mà? Sao anh lại ngủ với Lan?”. Quân cúi gầm mặt để lảng tránh đôi mắt sắc lạnh của Nguyên, đôi mắt mà anh từng bảo chỉ muốn nhìn mãi không thôi giờ đã sưng húp. Khi sóng mũi bắt đầu cay xè, Nguyên quay đi nơi khác và nghe rõ mồn một từng thanh âm đau đớn phát ra nơi cổ họng: “Anh biết em đã cùng lớn lên với Lan, chúng em đã cùng nhau tốt nghiệp, cùng nhau đi du lịch, cùng hứa là sẽ tổ chức lễ cưới chung với nhau mà? Anh biết mà đúng không Quân?”. Nguyên nấc lên từng hồi trong niềm uất hận và cả sự bất lực. Đổi lại là hai từ “xin lỗi” vô nghĩa từ Quân. Chỉ một tấm kính ngăn cách chỗ họ ngồi với thế giới bên ngoài kia nhưng đó là hai bầu trời khác nhau, Nguyên thấy cuộc đời mình tăm tối và buồn tẻ còn Sài Gòn thì vẫn nhộn nhịp và đông vui. Quân thì vẫn ở đó. Lan cũng vẫn ở đó cách vài ba con phố đợi anh về với chiếc bụng phình to. nỗi buồn cũng vẫn ở đó. Sự phản bội cũng vẫn ở đó. Chỉ có tình yêu của người mà Nguyên đặt cược bằng cả tuổi thanh xuân đã biến mất tự bao giờ.
Khi Bố Còn Thơ - When Daddy Was A Little Boy
Cuốn sách là một món quà ý nghĩa mà ông bố nào cũng đều mong muốn dành tặng cho con cái lẫn đứa trẻ bên trong chính mình.
PHANBOOK & NXB Văn hóa - Văn nghệ trân trọng giới thiệu!
VỀ TÁC PHẨM
Khi bố còn thơ(tựa tiếng Anh: When Daddy Was a Little Boy) là một cuốn sách thiếu nhi được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1961 tại Nga, sau đó được dịch ra nhiều ngôn ngữ và tái bản rất nhiều lần.
Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện ngắn về thời thơ ấu của một người bố, được ông kể lại cho con gái của mình để cô bé có thể quên đi những cơn sốt, những trận cảm cúm. Những câu chuyện đều thật duyên dáng, gần gũi, có thể dễ dàng gặp được ở bất kỳ người bố nào. Bởi vì “xét cho cùng thì ông bố nào cũng từng là một cậu bé” (Alexander Raskin)
Cuốn sách đầy thương yêu trở thành “cây cầu” nối liền tuổi thơ của phụ huynh và tuổi thơ của con trẻ, thu hẹp khoảng cách giữa hai thế hệ tưởng chừng như cách biệt, trở thành một món quà ý nghĩa mà ông bố nào cũng đều mong muốn dành tặng cho con cái lẫn đứa trẻ bên trong chính mình.
Khi bố còn thơ được đánh giá là tác phẩm viết cho thiếu nhi đơn sơ, trong sáng và có tính giáo dục cao. Cuốn sách sẽ đánh thức những mảnh trời ấu thơ đầy hồn nhiên trong một thế giới khô cằn bởi công nghệ này.
Sách dự kiến phát hành vào trung tuần tháng 05/2020.
VỀ TÁC GIẢ
ALEXANDER RASKIN
Sinh năm 1914 tại Moscow, Nga; mất năm 1971.
Là nhà văn, nhà biên kịch người Nga.
Mọi người, đặc biệt là phụ nữ, từ khi vừa sinh ra đã bị nhét vào đầu cái gọi là “quy định làm phụ nữ”, và bị nhồi như một con thú nhồi bông vậy. Phải biết hy sinh, phải mang lại hạnh phúc cho người xung quanh, phải âm thầm chịu đựng, phải canh theo cái kẻ choáng hết trang bìa của tờ tạp chí kia mà sống. Ủa, sao không ai bắt phải chết một cách đầy hối tiếc, hay phải bốc hơi khỏi cõi đời này mà vẫn không hiểu tại sao mình lại bắt đầu?
Đồng cảm với tác giả cuốn “Này cô gái, thức tỉnh đi!”, tôi đi qua bao gãy đổ, giông tố trong đời chỉ để hiểu ra rằng, chỉ có bản thân ta chịu trách nhiệm về mình, về thành công – thất bại, về sự thăng bằng của chính mình, về định nghĩa như thế nào là hạnh phúc.
One size does not fit all – Không có một khuôn mẫu cho tất cả mọi người. Mỗi chúng ta là một bản thể rất độc đáo của tạo hóa. Vì vậy, mỗi chúng ta có một hành trình rất riêng, rất khác, chỉ có thể vừa vặn với thiết kế cá nhân mà ta tự mình vẽ ra cho bản thân mình. Không ai khác. Hãy lắng nghe lời thì thầm trong trẻo, rất dịu dàng nhưng mạnh mẽ đến vỡ òa của chính trái tim ta.
Tôi biết, và tin rằng, quyển sách “Này cô gái, thức tỉnh đi!” sẽ thay đổi cuộc đời của nhiều phụ nữ, và tiếp thêm cho các bạn sức mạnh để tìm thấy hạnh phúc rất riêng tư cho bản thân mình. Happiness is the end game – Cuối cùng, ta sinh ra là để tìm thấy hạnh phúc, không phải để làm nô lệ cho những kẻ hạnh phúc. Chúc các bạn vững tin bước những bước đầu tiên, và hẹn các bạn ở một miền hạnh phúc chỉ cách chúng ta vài trang sách.
– Nguyễn Phi Vân
Kính thưa quý độc giả, tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 100 bài vọng cổ đặc sắc (Tuyển chọn và chú giải) được Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Sự thật, Hà Nội phát hành lần đầu vào năm 2015. Lần ấy, quyển sách kịp đến tay soạn giả Viễn Châu, khi ông còn tại thế.
Năm 2020, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 120 bài vọng cổ đặc sắc trên cơ sở chỉnh sửa một số thiếu sót trong lần in đầu và chúng tôi có chọn bổ sung thêm 20 bài mới, 05 bài cho mỗi nhóm. Lần phát hành này, danh cầm Bảy Bá đã đi xa. Ông về thế giới bên kia đúng ngày đưa Ông Táo về trời 23 tháng Chạp năm Ất Mùi, nhằm ngày 1 tháng 2 năm 2016. Sinh thời ông có viết bài “Táo quân Cải lương chầu Thượng đế”, phải chăng ngày ra đi của vua viết vọng cổ - cải lương cũng là duyên nghiệp. Người trần gian chỉ còn biết cầu mong cho ông về với Ngọc Hoàng bằng an, vui vẻ.
Quyển sách “Soạn giả Viễn Châu, 120 bài Vọng cổ đặc sắc” với hình thức trình bày mới hiện đại, trang nhã; phù hợp với yêu cầu của tác phẩm bài ca vọng cổ. Các bài ca được sắp xếp hệ thống theo bốn thể loại gồm: Vọng cổ lịch sử - Vọng cổ tâm lý xã hội - Tân cổ giao duyên - Vọng cổ hài. Bạn đọc sẽ có dịp ôn lại những tác phẩm quen thuộc như: Ánh lửa Mê Linh; Võ Đông Sơ ; Bạch Thu Hà; Chút tình Dạ cổ hoài Lang; Lưu Bình, Dương Lễ; Tình Lan và Điệp; Tình anh bán chiếu; Bông Ô Môi; Xuân đất khách; Ai cho tôi tình yêu; Ai xuôi vạn lý; Em không buồn nữa chị ơi; Tình đẹp mùa chôm chôm; Trên đường lưu diễn; Tư Ếch đại chiến Văn Hường…
Nhân lần tái bản này, chúng tôi cảm ơn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật đã tạo điều kiện giúp chúng tôi hoàn thành quyển sách lần in đầu và gia đình bác Bảy Bá đã hỗ trợ, tạo điều kiện trong cả hai lần xuất bản, để dịp này quyển sách đến tay bạn đọc được như ý nguyện hơn; đồng thời, cũng là dịp kính nhớ và biết ơn Nghệ sĩ Nhân dân Viễn Châu, người đã để lại cho đời nhiều bài vọng cổ trác tuyệt!
Cũng nhân lần tái bản này, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và tác giả cũng xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả tập chuyên khảo “Soạn giả Viễn Châu - tác giả và tác phẩm vọng cổ” để tạo điều kiện cho công chúng yêu mến những sáng tác vọng cổ của soạn giả Viễn Châu có thể tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm của ông.
Trân trọng.
HUỲNH CÔNG TÍN
------------------
Soạn giả Viễn Châu: “Điểm tựa của tôi trong sáng tác chính là đọc và chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn học. Tôi là “con mọt sách” từ năm 14 tuổi. Tôi thích cách viết của nhiều nhà văn: Hoàng Ngọc Phách (tác phẩm Tố Tâm) lãng mạn, ướt át; Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình) trau chuốt, nên thơ; Phú Đức (Châu về hợp phố) xốc nổi, xôm trò; Hồ Biểu Chánh (Con nhà nghèo, Nợ đời) giọng văn rặt chất Nam bộ; Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm) phiêu lưu, mạo hiểm; nhất là các tác phẩm dạt dào tình cảm của Khái Hưng, Nhất Linh. Điều thú vị nhất là các “sư phụ” tả về vẻ đẹp người phụ nữ thì hết ý, đọc đã thấy khoái nên tôi khi sáng tác bài ca cổ hoặc xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm của mình, tôi thường dùng chất liệu văn học đã thẩm thấu từ những tác phẩm văn chương mình yêu thích”.
Lời của nghệ sĩ nhân dân Viễn Châu
Kính thưa bạn đọc gần xa và đồng nghiệp quý mến!
Là một nghệ sĩ trong lĩnh vực sáng tác, không có gì vui bằng khi tác phẩm của mình được phổ biến đến đông đảo công chúng và nhất là được phổ biến một cách chính thức, hợp pháp, chính xác và trân trọng.
Thời gian qua, tôi đã nhận được thư của TS. Huỳnh Công Tín, Nhà nghiên cứu văn hóa Nam bộ; Công văn của Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Công văn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), xin ý kiến tôi, với tư cách là tác giả, về việc xuất bản cuốn sách “Soạn giả Viễn Châu -100 bài vọng cổ đặc sắc”. Sau một thời gian suy nghĩ và trao đổi với những người thân trong gia đình, nay tôi xin có ý kiến như sau:
Trước hết tôi rất hoan nghênh nhã ý của TS. Huỳnh Công Tín, Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) về việc thực hiện cuốn sách phổ biến 100 bài vọng cổ của tôi; với tư cách là tác giả, tôi đồng ý để Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách này.
Thứ hai, tôi rất vui mừng vì Ban biên tập đã chuẩn bị bản thảo hết sức công phu và chính xác, đúng với nội dung gốc của người sáng tác.
Nhân đây, tôi cũng xin cám ơn TS. Huỳnh Công Tín, Chi nhánh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tại Cần Thơ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã thực hiện tuyển tập bài ca của tôi và phổ biến đến đông đảo công chúng.
Tôi xin hứa tạo mọi điều kiện thuận lợi để công việc được tiến hành nhanh nhất và không ai tranh chấp về bản quyền của các tác phẩm trong tuyển tập 100 bài vọng cổ của tôi.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 3 năm 2015
Soạn giả VIỄN CHÂU
Mùa nước nổi trong đời sống văn hóa đồng bằng sông Cửu Long
Mùa nước nổi đồng bằng sông Cửu Long, chỉ kéo dài tối đa là bốn tháng trong năm, là thời điểm mà cư dân địa phương tập trung cao độ tri thức, phương tiện ứng phó với thiên nhiên.
Những hoạt động sản xuất và sinh hoạt đời thường khác của cư dân địa phương trong mùa nước nổi góp phần tăng thêm sự phong phú đa dạng, nhiều màu sắc cho văn hóa miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long.
Có một số sinh hoạt chỉ diễn ra trong mùa nước, tuy nhiên cũng không ít hoạt động diễn ra xuyên suốt cả năm gắn liền với sông nước, nên trình bày tách bạch mùa nước nổi trong đời sống văn hóa đồng bằng sông Cửu Long là một việc không đơn giản.
Để tiếp cận vấn đề một cách tương đối, trong tập sách này, chúng tôi xin trình bày theo các chương:
- Chương một: Mấy nét về mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Chương hai: Nơi ăn chốn ở trong mùa nước nổi.
- Chương ba: Hoạt động kinh tế, đi lại vận chuyển và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mùa nước nổi.
- Chương bốn: Mùa nước nổi trong đời sống văn hóa tinh thần.
Với nội dung trên, bằng một số hình ảnh tiêu biểu, chúng tôi cố gắng khắc họa phần nào vai trò, tác động, ảnh hưởng của mùa nước nổi trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Qua thời gian, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội phát triển, một số hoạt động từng bước lui dần vào quá khứ. Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, bàng bạc, ẩn hiện dưới nhiều dạng thức khác trong tri thức dân gian, trong phương ngữ, trong lời ăn tiếng nói của từng địa phương, trong tên đất tên làng xóm, trong ký ức tập thể của nhân dân, trong phong tục, trong tín ngưỡng, trong văn hóa vật chất...
Nguyễn Hữu Hiếu
Khái niệm “mùa nước nổi”:
Mấy trăm năm qua, từ khi đặt chân lên đồng bằng sông Cửu Long, qua nhiều thế hệ, người Việt ở Nam bộ đã nắm bắt và vận dụng quy luật tự nhiên vào cuộc sống.
Đồng thời căn cứ vào đặc điểm các hiện tượng tự nhiên mà ở quê cũ không có, người ta khoác cho nó một cái tên, một khái niệm mới cho phù hợp. Từ nước nổi hay nước lên ra đời và tồn tại suốt từ đó đến nay.
Thế nhưng, hơn mấy chục năm qua, bỗng dưng xuất hiện một số khái niệm xa lạ với phương ngữ và văn hóa Nam bộ, được đưa vào: nước lũ thay cho nước nổi (nước lụt, nước ngập, nước lên, mùa nước) và kèm theo hàng loạt các mô hình của “tư duy đắp đê, be bờ” được đề xuất thực hiện, như: “sống chung với lũ”, “làm nhà trên cọc”, “đê bao chống lũ”, “cụm tuyến dân cư chống lũ”, “nhà vượt lũ”,... làm như thể mấy trăm năm qua, mỗi khi đến mùa nước nổi là cư dân đồng bằng sông Cửu Long bỏ chạy, và không biết dựng nhà sàn để trụ lại mỗi khi đến mùa nước lên.
“Các thuật ngữ: nước ngập, nước lụt, nước lên, mùa nước là phương ngữ Nam bộ, phản ánh cụ thể một hiện tượng tự nhiên tại địa phương, không có ở nơi khác; thể hiện quá trình nhận thức, đúc kết kinh nghiệm, trí tuệ dân gian trong mấy trăm năm mở cõi. Nó là một sản phẩm văn hóa trong lĩnh vực ngôn ngữ, thể hiện bản sắc địa phương, góp phần làm giàu, làm phong phú, đa dạng hơn cho ngôn ngữ dân tộc, được hình thành và tồn tại mấy trăm năm qua. Nó gắn liền với đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Việt ở Nam bộ, thể hiện qua lời ăn tiếng nói đã đi vào văn học dân gian lẫn văn học tác gia…”
Nay bỗng nhiên biến mất dần và thấy vào đó là từ “lũ”, một từ xa lạ không phản ánh đúng với bản chất vốn có của hiện tượng tự nhiên.
Trích “Ăn uống mùa nước nổi - Mắm”:
Chỉ riêng mắm đã có một danh sách thực đơn dài đáng nể: mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm cá rèn, mắm rươi, mắm còng, mắm ba khía, mắm ruốc... và chỉ một món mắm đã có những cách ăn khác nhau: mắm sống, mắm kho, kho mắm, mắm chưng, lẩu mắm...
Ai thèm bông súng mắm kho
Về trong Đồng Tháp ăn cho đã thèm.
Một nồi mắm kho “đạt chất lượng”, phải hội đủ hai yếu tố: thời gian và không gian. Thời gian có nghĩa là phải được nấu ngay trong mùa nước nổi, mới có đầy đủ vật liệu. Nồi nước mắm phải được nấu bằng mắm cá sặc hoặc mắm cá linh; mắm được nấu rệu, lược bỏ xác mắm. Xong cho vào nồi, nêm nếm vừa ăn, cho lên bếp nấu với lửa vừa phải, khi mắm sôi, vớt bỏ bọt, rồi cho vào các thứ đã chuấn bị sẵn: cá linh non (cỡ ngón tay út hoặc nhỏ hơn, xương mềm), thịt ba rọi thái mỏng, một ít khổ qua, cà tím, dưa leo... thái cỡ ngón tay cái, lươn và rắn bông súng được thui sơ qua (để loại bỏ mùi tanh), bẻ khúc... Khi mắm sôi lên lần nữa, lại phải vớt bỏ bọt, xong nêm lại lần nữa. Nhấc nồi ra khỏi bếp đưa vào mâm; lưu ý nồi này phải là nồi đất, để suốt bữa ăn mắm vẫn nóng (không phải sôi sung sục như lẩu mắm hiện nay). Trên mâm có để sẵn: rau (gồm bông súng đã tước vỏ, xắt khúc trộn với bông điên điển, giá và rau đắng), chanh ớt... được bày trên xuồng trên ghe hay trong một căn chòi... trong không gian bốn bề toàn là nước. Mọi người có chén riêng, lần lượt để vào một ít rau, dung muỗng múc mắm cho vào chén, sao cho có đủ cá linh, khổ qua, thịt, rắn, lươn, ít nước; xong vắt một tí chanh.
Đưa cay nửa chung mắt trâu rượu miệt Tân An (Long An, nơi chuyên nấu rượu bằng nếp), rồi đưa chén lên miệng và vào, cắn một miếng ớt hiểm, rồi từ từ nhai. Cái béo của thịt ba rọi, cái ngọt của cá, lươn, rắn..., cái nhân nhẩn đắng của rau đắng, khổ qua, cái cay của ớt hòa với cái nồng nàn của rượu... trong cái mùi mắm thoang thoảng, đang thấm đậm dần vào từng giác quan của người dùng. Không biết trên thế giới này có món sơn hào hải vị nào khác, chứ với cư dân đồng bằng sông Cửu Long, như thế là đã đạt đỉnh cao của nghệ thuật ẩm thực dân dã của miệt sông nước trong mùa nước nổi.
Soạn giả Viễn Châu – Tác giả và tác phẩm vọng cổ
Soạn giả Viễn Châu: “Điểm tựa của tôi trong sáng tác chính là đọc và chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn học. Tôi là “con mọt sách” từ năm 14 tuổi. Tôi thích cách viết của nhiều nhà văn: Hoàng Ngọc Phách (tác phẩm Tố Tâm) lãng mạn, ướt át; Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình) trau chuốt, nên thơ; Phú Đức (Châu về hợp phố) xốc nổi, xôm trò; Hồ Biểu Chánh (Con nhà nghèo, Nợ đời) giọng văn rặt chất Nam bộ; Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm) phiêu lưu, mạo hiểm; nhất là các tác phẩm dạt dào tình cảm của Khái Hưng, Nhất Linh. Điều thú vị nhất là các “sư phụ” tả về vẻ đẹp người phụ nữ thì hết ý, đọc đã thấy khoái nên tôi khi sáng tác bài ca cổ hoặc xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm của mình, tôi thường dùng chất liệu văn học đã thẩm thấu từ những tác phẩm văn chương mình yêu thích”.
Lời bạt:
Thực hiện đề tài Văn hóa Cải lương Nam Bộ, năm 2014 - 2015, do Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-HCM) tài trợ, chúng tôi đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Soạn giả Viễn Châu, 100 bài Vọng cổ đặc sắc(Tuyển chọn và chú giải), do NXB Chính trị Quốc Gia - Sự thật, Hà Nội phát hành năm 2015.
Năm nay, trong chương trình bảo tồn vốn di sản văn hóa nghệ thuật quý báu Cải lương Việt Nam; kỷ niệm 100 năm tiến trình bản vọng cổ, khởi đi từ bản “Dạ cổ hoài lang” nhịp 2 năm 1919 do nghệ sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) (1892 - 1976) sáng tác, sang nhịp 4 do danh cầm, soạn giả Trịnh Thiên Tư (Giáo Chín, Thoại Phát) (1906 - 1982) thực hiện, nhịp 8 do nghệ sĩ, bầu gánh Thanh Minh Lư Hòa Nghĩa (Năm Nghĩa) (1917 - 1959) hoàn thành, rồi nhịp 16 do nhạc sĩ, soạn giả Trần Tấn Trung (Mộng Vân) (1910 - 1948) soạn nhạc, viết lời, đến nhịp 32 do nhạc sĩ Trần Tấn Hưng (Năm Nhỏ) (1921 - 1982) biên soạn và hiện nay, năm 2019 vẫn đang thịnh hành.
100 năm Vọng cổ, có sự đóng góp của nhiều danh cầm, nghệ sĩ tên tuổi cho sự hoàn thiện tiến trình này. Nhưng người đạt vị trí đỉnh cao cho việc viết lời bản Vọng cổ nhịp 32 về số lượng, cả chất lượng lời từ bài ca lại chính là nghệ sĩ danh cầm Huỳnh Trí Bá (Bảy Bá) (1924 - 2016), tức soạn giả Viễn Châu. Trong lĩnh vực vọng cổ, soạn giả Viễn Châu là một trong những người có công khởi đầu mở ra thể loại Tân cổ giao duyên; đồng thời, lại là người có công lớn biến đổi bài bản Vọng cổ truyền thống mang âm hưởng buồn của điệu Oán, thành bài bản Vọng cổ vui, hài hước, với hai giọng ca đặc trưng: nghệ sĩ Nguyễn Văn Minh (Hề Minh) (1929 - 1985) và đặc biệt là nghệ sĩ Nguyễn Văn Hường (Văn Hường) vua ca vọng cổ hài sinh năm 1932.
Nhằm tạo điều kiện để công chúng yêu mến những sáng tác Vọng cổ của soạn giả Viễn Châu có thể tìm hiểu sâu hơn tác phẩm của ông, lần này NXB. Văn hóa - Văn nghệ, TP.HCM phát hành quyển chuyên khảo Soạn giả Viễn Châu - Tác giả và tác phẩm Vọng cổ.
NSND Viễn Châu là tác giả, soạn giả lớn trong lĩnh vực sân khấu Cải lương. Do vậy, quyển sách chuyên khảo của tôi về tác giả và tác phẩm NSND Viễn Châu có thể còn những hạn chế do khả năng tiếp cận của người viết có hạn. Mong bạn đọc lượng thứ và giúp ý kiến đóng góp cho những sai sót.
Chúng tôi cảm ơn NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP.HCM đã hỗ trợ in ấn và phát hành quyển sách này.
Chúng tôi cảm ơn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội và gia đình bác Bảy Bá đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp chúng tôi hoàn thành cả hai quyển sách trước và sau của hai đợt phát hành.
HUỲNH CÔNG TÍN
Trích “Đặc thù văn hóa Nam bộ”:
Hai trăm năm đờn ca tài tử, một trăm năm sân khấu cải lương cùng tiến trình ba trăm năm mở đất Nam bộ, nhiều thế hệ người Việt phương Nam không chỉ đóng góp cho quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, họ còn đóng góp bản sắc văn hóa Nam bộ cho sự phát triển văn hóa người Việt, tiêu biểu ở lĩnh vực nghệ thuật văn chương, báo chí và âm nhạc. Văn chương, báo chí thuộc lĩnh vực ngôn ngữ với hai phong cách riêng biệt. Âm nhạc vừa thuộc lĩnh vực thanh âm, vừa thuộc lĩnh vực ngôn từ. Cả ba bình diện, đóng góp của người Nam bộ đều mang lại giá trị văn hóa đặc thù, góp phần khẳng định bản sắc, tính đặc thù trong văn hóa dân tộc.
Lĩnh vực ngôn ngữ, ngoài dòng văn học dân gian còn có dòng văn chương bác học, nghệ thuật báo chí với các tổ chức, như: Tao đàn Chiêu Anh Các, Bạch Mai thi xã, Bình Dương thi xã...; Gia Định báo, Nông cổ mín đàm, Nam Kỳ địa phận...; và các tên tuổi lớn: Mạc Thiên Tích, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam...
Lĩnh vực âm nhạc, cả tân nhạc và cổ nhạc đều có những thành tựu lớn với lượng tác phẩm lưu lại và những tên tuổi được ghi nhận theo dòng thời gian: dòng tân nhạc (nhạc vàng) có các tác giả Nguyễn Văn Đông, Trúc Phương, Lam Phương, Thanh Sơn, Trần Thiện Thanh, Anh Việt Thu..., dòng cổ nhạc có các nghệ sĩ đờn và soạn giả: Nguyễn Quang Đại, Trần Quang Quờn, Lê Tài Khí, Cao Văn Lầu, Tư Trang, Năm Châu, Duy Lân, Hà Triều - Hoa Phượng, Kiên Giang, Viễn Châu... và các nghệ sĩ ca diễn: Năm Phỉ, Thanh Nga, Út Bạch Lan, Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Văn Hường, Hùng Cường, Bạch Tuyết, Duy Khánh, Phương Dung, Giao Linh...
Đóng góp lớn của đội ngũ soạn giả cải lương là đã viết nên hàng trăm tuồng cải lương và hàng ngàn bài vọng cổ. Di sản này cần được ghi nhận nghiên cứu, không chỉ ở soạn giả Viễn Châu mà còn nhiều soạn giả khác. Trong khuôn khổ của chuyên khảo, chúng tôi đề cập riêng sự nghiệp sáng tác vọng cổ của danh cầm Bảy Bá, soạn giả Viễn Châu. Bởi ông là người có đóng góp lớn cho sự định hình bản vọng cổ nhịp 32, lại là người góp phần khai phá tạo nên bản tân cổ giao duyên và là người duy nhất thành công ở lĩnh vực viết vọng cổ hài từ khởi sự bản vọng cổ đến nay.
Trích “Soạn giả Viễn Châu, tiểu sử và sự nghiệp”:
Có một người Trà Vinh đóng góp lớn cho sự nghiệp vọng cổ - cải lương Nam bộ là soạn giả Huỳnh Trí Bá. Gọi theo cách gọi thân thương của người miền Nam là “Bảy Bá”. Bác Bảy Bá xuất thân từ gia đình hương chức của làng, sinh ngày 21/10/1924 tại Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Như tự nhận khi trả lời phỏng vấn báo chí, ông nói: “Từ nhỏ tôi đã mê đờn tranh, tự mày mò học và tìm hiểu thêm những ngón đờn qua dĩa hát nhựa, những đám hát tài tử ở làng quê. Năm 19 tuổi với máu phiêu bạt giang hồ, tôi xách cây đờn lên Sài Gòn” theo nghiệp đờn ca.
Năm 1942, ông tham gia Ban cổ nhạc Ðài phát thanh Pháp Á, Sài Gòn. Năm 1943, ông theo đoàn Tố Như, rồi tham gia gánh hát Năm Châu lưu diễn cả nước. Trên con đường âm nhạc, ông có điều kiện tiếp xúc với các nghệ sĩ, soạn giả tài danh: Nguyễn Thành Châu (Năm Châu), Trần Văn Lân (Duy Lân), Lê Hoài Nở (Năm Nở), Trần Hữu Trang (Tư Trang), Lê Long Vân (Ba Vân)..., học hỏi được nhiều từ các bậc đàn anh.
Năm 1950, với bút danh Viễn Châu ông viết vở cải lương “Nát cánh hoa rừng”, phỏng theo tác phẩm “Đường rừng” của Khái Hưng. Tác phẩm được công chúng hoan nghênh và bút danh Viễn Châu được biết đến rộng rãi từ đấy. Sở dĩ, có bút danh, nghệ danh này, có lần ông tâm sự: “Viễn Châu” với chữ đầu “Viễn” hàm ý “xa” - “viễn xứ” (xa xứ), còn “Châu” là tên xã “Đôn Châu”, quê ông. Một bút danh nhắc chuyện “xa Đôn Châu” nên dặn lòng phải yêu quê hương, nguồn cội. Một cái tên nói lên được tình cảm, lòng biết ơn và sự nhắc nhớ về quê hương, xứ sở; dòng họ, gia đình.
Sau thành công, ông được rất nhiều đoàn mời hợp tác: Kim Thanh (1955), Thanh Tao (1958), Thanh Nga (1962), Dạ Lý Hương, Tân Hoa Lan (1969)... và các hãng dĩa: Việt Nam (1950), Kim Long (1951), Việt Hải (1953), Thăng Long (1954), Sống Mới (1968), Nhạc ngày xanh (1969), Hồn nước (1973)...
Sau năm 1975, ông cộng tác với đoàn Văn công (1975), hãng băng Sài Gòn Audio (1978) và nhiều đoàn hát tỉnh. Năm 1984, ông có chuyến lưu diễn qua các nước Tây Âu: Bỉ, Đức, Pháp, Ý...
Về sáng tác, theo giới chuyên môn, đến nay Viễn Châu viết trên 50 vở cải lương, hơn 2.000 bài vọng cổ, gồm cổ nhạc và tân cổ. Đây là con số đáng nể, có lẽ khó có nghệ sĩ trước và sau ông vươn tới số lượng này. Còn “tuyệt phẩm” vọng cổ Viễn Châuđược công chúng yêu chuộng không ít, có đến trên trăm bài, như các bài: “Tình anh bán chiếu, Tu là cội phúc, Mẹ dạy con, Trái khổ qua, Ông lão chèo đò, Sầu vương ý nhạc, Anh đi xa cách quê nghèo...; Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Tần Quỳnh khóc bạn, Lòng dạ đàn bà, Phàn Lê Huê, Trụ Vương thiêu mình, Hán Đế biệt Chiêu Quân, Hạng Võ biệt Ngu Cơ...; Tứ đổ tường, Tai nạn Hon đa, Năm con vợ, Tư Ếch đại chiến Văn Hường, Văn Hường đi xe gắn máy, Về quê vợ, Vợ tôi nói tiếng Tây, Pháp sư giải nghệ...; Ai lên xứ hoa đào, Cô gái bán sầu riêng, Mưa rừng, Em không buồn nữa chị ơi, Đau xót lý con cua, Mưa trên phố Huế...”
Ngoài giá trị văn chương, âm nhạc, những bản vọng cổ của ông được giới chuyên môn nhìn nhận như phương cách giúp người chưa biết ca tập thành ca sĩ, người ca quen trở thành tài tử ca, người không chuyên trở thành chuyên nghiệp, người chuyên nghiệp trở thành nghệ sĩ, người có danh trở thành “vua, hoàng đế, ông hoàng, nữ hoàng...”. Công chúng mê vọng cổ ghi nhận công lao sáng tác của Viễn Châu nên phong tặng ông nhiều danh hiệu cao quý: “Ông vua ca cổ”, “Ông vua tân cổ”, “Nhạc sư”, “Nghệ sĩ bậc thầy, “Nghệ sĩ ngoại hạng”, “Người tạo danh cho ca sĩ”...
Vài nét về tác giả
Dmitry Alekseyevich Glukhovsky (1979), nhà văn, nhà báo Nga. Sinh ra và lớn lên ở Moskva, nơi ông tốt nghiệp lớp chuyên Pháp trường phổ thông Arbat 1231. Học đại học chuyên ngành báo chí và quan hệ quốc tế ở Đại học Jerusalem (Israel).
Từ 2002 đến 2005 D.A. Glukhovsky làm việc ở kênh truyền hình châu Âu EuroNews tại Lyon (Pháp), sau trở về Nga tiếp tục sự nghiệp nhà báo truyền hình cho kênh Russia Today khi đó vừa thành lập. Sau ba năm làm việc, ông đã chu du một nửa thế giới, tham gia “nhóm nhà báo điện Kremlin”, có mặt ở sân bay vũ trụ Baikonur, khu vực cách ly của Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl. Tháng 7. 2007, D. Glukhovsky thực hiện phóng sự truyền hình trực tiếp đầu tiên trên thế giới phát từ Bắc Cực . D. Glukhovsky còn cộng tác với các phương tiện truyền thông châu Âu: Đài phát thanh Đức Deutsche Welle và kênh truyền hình Sky News của Anh. Từ 2007 đến 2009 làm người dẫn chương trình cho đài phát thanh Mayak. Hiện ông là tác giả chuyên mục của các ấn bản “Snob” và “GQ”.
Tiểu thuyết đầu tay mang đến cho ông danh tiếng thế giới Metro 2033 đã được tác giả ấp ủ từ những năm trung học và bắt đầu viết vào những năm đầu đại học. Metro 2033 được xuất bản năm 2005, trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất nước Nga thập niên 2000, trên toàn thế giới nó được in nửa triệu bản, dịch sang 37 thứ tiếng và trở thành nền tảng cho hai videogames, trong khi quyền chuyển thể của nó đã được MGM Hollywood mua. Những cuốn sách tiếp theo như: Chạng vạng(2007), Metro 2034 (2009), Những chuyện kể về Tổ quốc (2010) và Tương lai (2013) cũng trở thành sách bán chạy quốc gia và được dịch sang các thứ tiếng Âu, Á.
Tác phẩm Trả giá (bản tiếng Nga là Tekst) bạn đang cầm trên tay là tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của D. Glukhovsky, xuất bản năm 2017 lập tức trở thành bestseller và chỉ một năm sau đã được chuyển thể sân khấu do Nhà hát kịch Moskva mang tên M.N Yermolova dàn dựng, Maksimo Didenko đạo diễn. Không lâu sau đó, Tekst được dựng thành phim trên màn ảnh rộng do Klim Shipenko đạo diễn, ra mắt lần đầu tiên vào 24. 10. 2019.
Giới thiệu tác phẩm:
Trả giá (bản tiếng Nga là Tekst) là tiểu thuyết hiện thực đầu tiên của nhà văn – nhà báo người Nga Dmitry Alekseyevich Glukhovsky (1979) vốn nổi danh trên toàn cầu với tiểu thuyết Metro 2033 được xuất bản năm 2005 và trở thành một trong những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Nga trong thập niên 2000.
Được xuất bản năm 2017, một tác phẩm khác của D.Glukhovsky là Trả giá cũng nhanh chóng lọt vào danh sách tiểu thuyết bestseller và chỉ một năm sau đó thì tác phẩm được chuyển thể sân khấu. Không lâu sau đó, Trả giá – Tekst được dựng thành phim trên màn ảnh rộng do Klim Shipenko đạo diễn, rồi ra mắt lần đầu tiên vào hôm 24/10/2019.
Câu chuyện xoay quanh nhân vật Iliya, một thanh niên bị tù oan 7 năm về tội buôn bán ma túy từ năm 20 tuổi, lúc vừa thi đậu đại học. Ra tù, mẹ mất, bạn gái bỏ rơi, bạn thân thay đổi, cuộc sống không như Iliya mong đợi, và một lần nữa Iliya cảm thấy rơi vào đường cùng.
Trong nỗi cô đơn tột độ, Iliya uống say và ra tay tước đi mạng sống của cảnh sát Khazin, con trai thiếu tướng – người mà cách đây 7 năm đã nhét tang vật vào túi khiến Iliya rơi vào vòng lao lý, oan sai.
Một lần nữa, Iliya lại vùng vẫy trong tuyệt vọng giữa sự sống – tự do và cái chết.
“Một số người mơ ước thành công, trong khi những người khác thức dậy mỗi sáng và làm cho nó xảy ra”
Ai trong chúng ta cũng đều mong muốn tạo dựng những thói quen tốt nhằm giúp bản thân tiến bộ và phát triển mỗi ngày; đơn cử như câu chuyện lập kế hoạch, nghị quyết đầu năm. Khi bắt đầu, ai ai cũng dâng tràn ý chí, quyết tâm để thay đổi bản thân. Nhưng có một sự thật là 92% người lập nghị quyết đầu năm với rất nhiều dự định liên quan tới: sức khoẻ, tài chính, sự nghiệp, quan hệ, tình yêu,… đã THẤT BẠI và BỎ CUỘC chỉ sau 2-3 TUẦN! Và chỉ 8% trong số đó thực hiện được những cam kết thành công! (Theo nghiên cứu của Opinion Research Cooperation dựa trên 1012 người Mỹ).
Sự khắc nghiệt của việc thiết lập và thực hiện các mục tiêu còn hơn cả quy luật 80/20 – đó là lý do chúng tôi thực hiện ấn bản sổ tay đặc biệt 6×66 ngày thử thách – như một công cụ hỗ trợ và truyền cảm hứng giúp bạn có một năm thành công hơn.
SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH LÀ GÌ?
Là ấn bản đặc biệt (giới hạn) được phát triển dựa trên phiên bản sổ tay “66 ngày thử thách” giúp bạn tạo dựng những thói quen tốt qua 6 chặng thử thách liên tục, tương đương với 396 ngày – hơn một năm.
6×66 ngày thử thách gợi ý cho bạn một kế hoạch thử thách chính mình ở 6 lĩnh vực chính cần quan tâm trong cuộc sống như: Thể chất, cuộc sống cá nhân, mối quan hệ, tài chính cá nhân, công việc, kinh doanh và tâm linh. Bạn có thể khoanh vùng thói quen mình đang ấp ủ và lên kế hoạch thực hiện nó và theo dõi việc thực hành mỗi ngày bằng cách ghi chép vào sổ. Và theo dõi sự tiến bộ của mình sau 1 năm.
LỢI ÍCH CỦA SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
Sổ tay sáu trong một – công cụ để bạn:
– Lập kế hoạch và tạo dựng những thói quen xuất chúng
– Viết thư gửi chính mình ở tương lai
– Thực hiện 6 chặng liên tục trong hành trình 66 ngày thử thách (tương đương 396 ngày)
– Đặt mục tiêu và đo lường hiệu quả thực hiện của mình một cách thông minh với bảng hành trình
– Viết nhật ký phát triển bản thân
PHIÊN BẢN NÀY CÓ GÌ ĐẶC BIỆT?
– 6×66 Ngày Thử Thách là phiên bản sổ tay đặc biệt bìa cứng, in màu trên chất liệu giấy cao cấp với số lượng có hạn.
AI LÀ NGƯỜI PHÙ HỢP VỚI SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
– Những người đang cần xây dựng những thói quen tốt nhưng chưa có giải pháp và động lực để thực hiện.
– Những người muốn chiến thắng sự lười biếng và trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình
LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THÊM ĐỘNG LỰC THỰC HIỆN 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
1. Chia sẻ 66 ngày của bạn tại Group Cộng đồng các chiến binh 66ngaythuthach 66dayschallenge
2. Truyền cảm hứng cho những người xung quanh, để họ thấy rằng, bạn làm được thì họ cũng sẽ làm được.
3. Tiếp tục theo đuổi các thói quen mới và duy trì thói quen cũ.
“Nước chảy thì đá sẽ mòn; bằng sự quyết tâm, một chú chuột có thể cắn đứt đôi một cọng cáp và nhiều cú chặt nhỏ có thể làm đổ một cây sồi vĩ đại.” – Benjamin Franklin –
Combo Thế Giới Khủng Long: Những Kẻ Khổng Lồ Và Những Kẻ Nhỏ Bé (Tái Bản 2018) (Bộ 2 Cuốn)
Bộ sách Thế giới khủng long giúp các em hiểu về những loài khủng long thống trị Trái Đất hơn 165 triệu năm trong suốt Đại Trung Sinh, nhưng chúng đã bị tuyệt chủng vào 65 triệu năm trước. Mỗi cuốn sách trong bộ sách cung cấp những thông tin xúc tích cùng tranh minh họa hấp dẫn sẽ đưa độc giả nhỏ tuổi đi vào chuyến phiêu lưu trở lại thời tiền sử để khám phá và hiểu hơn về loại Khủng long cổ xưa.
Bộ sách Thế giới khủng long gồm 4 cuốn:
Những kẻ nguy hiểm
Những kẻ khổng lồ
Những kẻ nhỏ bé
Sự tiến hóa và khai quật.
1. Thế Giới Khủng Long - Những Kẻ Khổng Lồ (Tái Bản 2018)
2. Thế Giới Khủng Long - Những Kẻ Nhỏ Bé (Tái Bản 2018)
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi