Phật đạo luôn nhắc đến hai từ “viên mãn”! Ở góc nhìn nào đó, viên mãn còn mang ý nghĩa về sự toàn bích của hai thành phần chính làm nên Phật đạo, đó là Giáo tông và Tâm tông! Người xưa thường ví Giáo Tông và Tâm tông trong Phật đạo như đôi cánh của một con chim, như hai chân của một người... Con chim mà đôi cánh không hoàn hảo sẽ không thể bay cao, bay xa... Con người mà đôi chân không lành lặn, sẽ khó có thể hoàn thành hành trình dài hơi đầy khó khăn, nhiều thử thách!
Phật đạo là chân lí, mà chân lí chính là sự thật hằng hữu trong mỗi pháp... Mà, đã là sự thật hằng hữu thì không có cái được gọi là bí mật! Vì thế, cái cớ sự được gọi là “bí” chỉ xảy ra khi người ta không hiểu (điều gì đó)... Cái cớ sự được gọi là “mật” chỉ xảy ra khi người ta không thấy (điều gì đó)... Ta có thể tạm hiểu: Không hiểu gọi là bí, không thấy gọi là mật! Để con đường tu tập và giáo pháp không còn bí mật, người tu hành thành tựu Giáo tông sẽ giải quyết cớ sự bí, cho ra Thuyết thông... Thành tựu Tông thông sẽ giải quyết cớ sự mật, cho ra Tông thông! Vì thế, kinh Lăng Già Phật dạy: “Ta có hai thứ thông, Thuyết thông và Tông thông, thuyết dạy kẻ đồng mông, tông vì người tu hành...”. Tổ Huệ Năng cũng nói: “Thuyết thông và Tông thông, như mặt trời giữa hư không, duy truyền pháp kiến tánh, xuống thế phá tà tông...”. Thiết nghĩ, lời Phật (Vị khai sáng Phật đạo) và lời Tổ Huệ Năng (Vị Tổ cuối cùng được chánh truyền đạo ấy) đã nói lên sự quan trọng của Giáo tông và Tâm tông là như thế nào!?
“Chuyện trên mây” cuốn sách bao gồm 88 bài viết nhỏ của tác giả Lý Tứ viết về nhiều chủ đề khác nhau của đạo Phật như vô tu vô chứng, sở tri chướng, phiền não chướng, ăn chay hay ăn mặn v.v. Cuốn sách được chia thành rất nhiều bài nhỏ, mỗi bài nói về một vấn đề trong đạo Phật theo cách thú vị và hóm hỉnh mà vẫn sâu sắc của tác giả.
MỤC LỤC
Khai bút
1 Chúc mừng năm mới 2020
2 Bài thơ đầu năm
3 “Ăn chay” hay “ăn mặn”?
4 Chuyện về “vô tu − vô chứng”
5 Bát Nhã Tâm Kinh
6 “Độ ta” rồi mới “độ nàng”
7 Xô dẹp cái “ngã” (Lý Gia học tập)
8 Hai câu chuyện kể: 1. Cần có địa chỉ của người nhận; 2. “Vô Đối Môn” và “vàng”
9 Người bạn mới quen từ “Fanpage Lý Tứ”
10 “Bốn loại thiền” Phật dạy
11 Cảm hứng viết “Bài tráng ca bất tử”
12 Con chiên lạc bầy
13 Bảy câu hỏi về sách “Vô Đối Môn”
14 Lời tri ân “đến các vị trợ duyên năm xưa đã giúp Lý Tứ thấy được Phật đạo”
15 Cảnh báo “bọn sâu xâm hại vườn”
16 Sinh nhật Houston (USA)
17 Gợi ý lần 1 “Trò chơi trí tuệ kỳ 02/2019”
18 “Bình” và “luận”
19 Lão sư Trương Tam ‒ Những điều chưa kể
20 “Nhân quả” và “tham” trong Phật đạo
21 Có phải Phật đạo chủ trương “Triệt tiêu tất cả lòng tham”
22 Thể nhập đại đạo
23 Vấn nạn “phiền não chướng và sở tri chướng”
24 Giới thiệu mười một “bài kinh Phật”
25 Tâm sự của người ăn “lụ đạn”
26 Đẳng cấp và phong độ
27 Cảm xúc khi đọc các bài viết trả lời “Trò chơi trí tuệ” của HĐTM
28 Thực phẩm sạch
29 Kinh “thật” hay kinh “giả”
30 Tất cả chúng sanh đều có “Phật tánh” (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh)
31 Thành viên trung kiên “ba cõi”
32 Tám câu hỏi về ba cuốn sách “Vô Đối Môn”, “Tâm pháp”, “Phật giáo và thiền” đã xuất bản
33 Học một điều để bớt ngu một điều
34 Khái quát về 37 Phẩm trợ đạo
35 Quả ngọt Lý Gia
36 Trao đổi về “ngũ trược”
37 Con đường đưa đến an vui, đến trí tuệ
38 Đạo “xuất thế” là gì?
39 Hữu sư trí và vô sư trí; nhập pháp giới; nhập thế!
40 Tản mạn về câu nói “Tam giới như nhà lửa”
41 Dừng phân biệt ‒ Điều không thể trở thành có thể!
42 Người tu hành lấy gì làm gốc?
43 Sự khác biệt giữa giác lực - huệ lực - bát nhã lực
44 Cây bồ đề của Lý Gia
45 Tản mạn chuyện “sống chết” (phần 1)
46 Tản mạn chuyện “sống chết” (phần 2)
47 Thơ ca thời dịch dật!
48 Cách ly “tâm” để trị bịnh “phiền não”
49 Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi
50 Mỉm cười trước cái chết
51 Phật đạo và con đường tiến hóa như pháp!
52 Kỷ niệm một mùa Phật đản
53 Phản hồi các bài viết từ “Lý Gia”!
54 Tri ân hạnh phúc
55 Chuyện bướm và tằm
56 Một phen giác ngộ
57 Viết cho những người bạn trẻ
58 Nhật kí một ngày
59 Chuyện đừng nên tin
60 Tu hành là làm cái chi
61 Hai anh “Quảng Nôm” luận bàn nghĩa “mạt pháp”
62 Hai anh “Quảng Nôm” bàn về xây dựng
63 Hai anh “Quảng Nôm” bàn chuyện sanh tử
64 Hai anh “Quảng Nôm” bàn chuyện đạo Phật và Phật pháp
65 Hai anh “Quảng Nôm” bàn luận tánh không
66 Hai anh “Quảng Nôm” bàn chuyện tu sửa
67 Hai anh “Quảng Nôm” bàn chuyện mần chi
68 Hai anh “Quảng Nôm” bàn về khác biệt
69 Hai anh “Quảng Nôm” luận về buông xả
70 Ba vị huynh đệ bàn chuyện xuất thế
71 Ba vị huynh đệ bàn chuyện đọc kinh
72 Ba vị huynh đệ luận về “ngã” và “vô ngã”
73 Ba vị huynh đệ luận về Phật tánh
74 Chuyện người và quỷ
75 Ba vị huynh đệ bàn về giác ngộ
76 Nhặt nhạnh
77 Ba vị huynh đệ luận về kinh Kim Cang
78 Ba vị huynh đệ luận về phước đức
79 Ba vị huynh đệ bàn về tam vô lậu học
80 Tản mạn về việc ăn độn
81 Ba vị huynh đệ bàn về lõi cây
82 Ba huynh đệ luận về “ngũ nhãn”
83 Ba vị huynh đệ luận về tâm và pháp
84 Ba vị huynh đệ luận về các tầng giác ngộ
85 Ba vị huynh đệ luận về tu tập
86 Ba vị huynh đệ luận về cực lạc
87 Trò chơi trí tuệ kỳ 12/2016: Về chánh tinh tấn
88 Trò chơi trí tuệ kỳ 04/2020: Giáo tông và tâm tông
Trích đoạn sách:
“ĐỘ TA” RỒI MỚI “ĐỘ NÀNG”
Câu chuyện xảy ra cách đây trên bảy năm, lúc ấy Lý Gia còn lèo tèo... HĐ (huynh đệ) chừng dăm ba chục!
Một hôm, mình và một vị HĐ còn rất trẻ rủ nhau đi nhâm nhi cà phê ở một quán cóc ven đường... Sau một hồi tâm sự, mình nhìn ra “một cọng tóc công đức” nổi lên từ tâm thức vị HĐ ấy! Thế là mình quyết định đưa vị HĐ này vào quỹ đạo!
Ngặt nỗi, tuy trước khi gặp mình, vị HĐ này cũng có thời gian chừng bốn năm năm tu tập, nhưng kiến thức Phật đạo thì rất tạp nhạp, lơ tơ mơ, hiểu đâu sai đó... Mà thời gian quen mình lại quá ngắn, chưa kịp trang bị cho bạn ấy các kiến thức cơ bản... Nhưng, nhờ vị bằng hữu này là một kĩ sư công nghệ, mình lập tức khai thác nhanh chuyên môn của bạn ấy!
Mình hỏi bạn ấy:
− Bạn giảng giải cho mình, nguyên lí thu phát tín hiệu của chiếc điện thoại di động là như thế nào, có được không?
Thế là bạn ấy thao thao bất tuyệt về công nghệ!
Mình lại hỏi:
− Bạn có bao giờ tự hỏi, vì sao chiếc điện thoại di động cũng thu phát tín hiệu mà vẫn bất động, an nhiên... Còn con người ta, khi thu và phát tín hiệu lại bị dao động và phát sinh phiền não hay không?
Bạn ấy cười và bảo:
− Thầy so sánh thú vị thiệt, chuyện này con chưa từng nghĩ... Thầy phân tích cho con nghe đi!
Thế là cơ duyên đã đến, mình giảng giải cho vị ấy cơ chế sinh tâm, sinh pháp của một hữu tình! Mình hỏi vị ấy:
− Như vậy, bạn có nhận ra sự khác biệt về cơ chế hoạt động khi thu phát tín hiệu của người và máy hay không?
Bạn ấy trả lời:
− Con đã mơ hồ hiểu ra điều gì đó!
− Thế, muốn thu phát tín hiệu một cách rõ ràng mà không phát sinh phiền não, theo bạn thì ta nên thế nào?
− Chỉ thu phát tín hiệu, nhưng tắt nguồn tâm thức!
− Ha ha ha ha! Bạn hay đó! Ngay tại thời điểm này, bạn có thể tắt cái “nguồn tâm thức lu bu” của mình được hay không?
Bạn ấy ngồi chiêm nghiệm một hồi, rồi trả lời:
− Thưa Thầy được! Nhưng còn chập chờn và hay bị nhiễu!
Mình nói với bạn ấy:
− Mình truyền cho bạn một câu chơn ngôn... Bạn hãy tắt nguồn tâm thức, đồng thời dùng câu chơn ngôn này để hộ trì, nhằm giúp tâm thức tịch diệt những chập chờn do nhiễu loạn từ thấy nghe gây nên!
Câu chơn ngôn đó là: “Thuê bao quý khách vừa gọi tạm thời không liên lạc được, xin quý khách vui lòng gọi... lại... sau”!
Bạn có nhớ câu chơn ngôn này không?
− Thưa Thầy con nhớ rất rõ!
− Nào! Ngay từ bây giờ, bạn thử áp dụng nguyên lí tắt nguồn tâm thức và hộ trì bằng câu chơn ngôn đó, xem nó ra sao!
Thế là bạn ấy chìm trong công việc của bạn ấy, mình thì lặng lẽ bỏ đi đến một quán cà phê khác để nhâm nhi một mình!
Trong lúc nhâm nhi tách cà phê bốc khói, mình thầm nghĩ:
− May thiệt! Nếu bạn ấy làm tài khôn trong lúc trao đổi, đặt ra câu hỏi: “Tu là biến mình thành chiếc điện thoại di động hay sao hả Thầy!” Chắc chắn mọi thứ đã hỏng bét rồi, người không làm tài khôn cũng có cái lợi của nó!
Chừng một giờ sau, mình trở lại quán cà phê, vị HĐ ấy vẫn còn chìm trong bất động!
Mình đánh động vị ấy, và hỏi:
− Thế nào, khả quan không?
Vị ấy chợt tỉnh và nói:
− Rất tốt Thầy ơi! Gần như đã tịch diệt đến 90% lăng xăng, phiền não!
− Tốt lắm! Tốt lắm!... Bạn có cảm nhận rõ những gì xảy ra chung quanh hay không?
− Cảm nhận mọi thứ xảy ra chung quanh rất rõ, nhưng tâm thức vắng lặng, không chút muộn phiền!
− Bạn có thể duy trì được không?
− Mỗi lúc một tốt hơn! Con nghĩ là được! Không thành vấn đề! –
... Chiều hôm đó, mình lại gặp bạn ấy, và bạn ấy đã thật sự bay vào quỹ đạo! Mình lại tiếp tục giúp bạn ấy “mở nguồn”! Kể lại câu chuyện này, mình chợt nhớ câu chuyện Ngài Xá Lợi Phất và người đệ tử trẻ trao đổi với nhau khi gặp người vót tên và con kênh dẫn nước trên đường đi khất thực, hình ảnh người vót tên và con kênh dẫn nước đã giúp vị đệ tử trẻ chứng quả Giải Thoát ngay tại thời điểm ấy!
Thế đấy các bạn! Công đức hội đủ, thời cơ chín muồi, thiện xảo phương tiện, v.v... nếu khéo biết tận dụng, có thể giúp người bay vào quỹ đạo xuất thế ngay hiện tiền không một chút khó khăn!
Đây cũng là lí do vì sao, các câu nói như: “Phật pháp bất ly thế gian pháp” hay “Nhất thiết pháp, giai thị Phật pháp” ra đời!
Câu này có nghĩa là, “tạp” hay “xảo” là do người sử dụng, một pháp tự bản chất của nó chẳng có tính chất thế gian hay xuất thế! Giống như con dao, thiện hay ác là do người sử dụng!
Hơn bảy năm trôi qua! Sau bảy năm miệt mài ôn luyện giáo pháp kể từ ngày đọc câu “thần chú tắt nguồn”, giờ đây vị HĐ của ngày ấy đã trưởng thành rất nhiều trong Phật đạo, không muốn nói, là một trong những HĐ kiệt xuất của chúng ta!
Các bạn!
Bài viết chỉ giúp các bạn tham khảo, để thấy sự diệu dụng từ câu nói: “Phật pháp bất ly thế gian pháp” của người xưa!
Khi chưa thông đạt giáo pháp, khi chưa biết tâm người, khi chưa thấy được lúc nào là thời cơ, khi chưa nắm vững kĩ thuật khai thị, khi chưa nhìn ra sợi tóc công đức của người nổi lên khi kẻ ấy bị chìm, v.v...
Xin các bạn “ĐỪNG DÙNG THỬ” câu chuyện này!; “DÙNG THỬ”, chẳng những nó không đem đến lợi ích, mà có thể khiến người phát sinh tà kiến!
“Độ ta xong, mới độ đến nàng...
Ta còn chìm nghỉm, đừng màng... độ... ai”! (08/07/2019)
"Một cuộc sống không tình yêu liệu có đáng để sống chăng?"
Ở tuổi 31, Linda có mọi thứ một người đàn bà cần để cảm thấy viên mãn: người chồng thành đạt và yêu thương cô, hai đứa con ngoan, sự nghiệp ổn định và cuộc sống vật chất đầy đủ. Nhưng sự hoàn hảo đó chỉ là vẻ bề ngoài, thâm tâm Linda phải đối diện với một nỗi sợ mơ hồ: vừa sợ chuỗi hành động lặp lại ngày này qua tháng khác, vừa sợ sự đời đổi thay bất ngờ khiến mình tay trắng.
Vậy thì NGOẠI TÌNH liệu có phải là giải pháp tốt nhất cho Linda lúc này không?
PAULO COELHO một lần nữa dùng tài năng của mình để khẳng định lời tuyên bố của chính ông "những điều đơn giản nhất là những điều giá trị nhất"
Infinite Dendrogram - Tập 1: Khởi Điểm Của Những Khả Năng
Infinite Dendrogram lấy bối cảnh trong tương lai gần, khi mà công nghệ VR (Virtual Reality – Thực tế ảo) đạt được những thành tựu đột phá. Là tựa game VRMMO dạng full-dive đầu tiên có khả năng tái hiện đầy đủ cả năm giác quan trong thế giới ảo, kết hợp với hệ thống Embryo có khả năng tự tiến hóa theo phong cách cá nhân của người chơi, “Infinite Dendrogram” nhanh chóng trở thành cơn sóng lớn thu hút cộng đồng game thủ trên toàn thế giới.
Vượt qua kỳ thi đại học, chàng thanh niên Mukudori Reiji bắt đầu cuộc sống tự lập ở thành phố Tokyo. Cậu ăn mừng điều này bằng cách khởi động “Infinite Dendrogram” – tựa game mà cậu đã phải nhịn không chơi suốt gần 2 năm để tập trung vào việc ôn thi. Và đó cũng chính là điểm khởi đầu cho cuộc phiêu lưu của Reiji tại “Thế giới của vô hạn những khả năng”.
Tại Nhật Bản, Infinite Dendrogram đã xuất bản được 14 tập truyện, đồng thời cũng nhận được rất nhiều lời đánh giá tích cực từ các độc giả ưa thích thể loại truyện phiêu lưu, giả tưởng lấy bối cảnh VRMMO. Bộ truyện cũng thường xuyên lọt vào top những bộ Light Novel bán chạy nhất Nhật Bản, theo số liệu từ bảng xếp hạng doanh số do Oricon công bố. Ngoài ra, Infinite Dendrogram hiện cũng đã được chuyển thể thành truyện tranh và phim hoạt hình.
VỀ TÁC GIẢ
Sakon Kaidou
Sakon Kaidou là một tiểu thuyết gia người Nhật Bản. Infinite Dendrogram là tác phẩm đầu tay của anh, đăng tải lần đầu tiên vào năm 2015 trên trang web Shōsetsuka ni Narō (Let’s become a Novelist) của Nhật Bản. Đây cũng là tác phẩm mang đến cho anh nhiều thành tựu, bao gồm “Hạng nhất trong các tiểu thuyết VRMMO trên Shōsetsuka ni Narō”, “Hạng nhất trong cuộc thi bầu chọn Light Novel mới do BookWalker tổ chức năm 2017”, “Hạng nhì trong số các tác phẩm mới của Kono Light Novel ga Sugoi! năm 2018”.
Minh họa: Taiki
Họa sĩ minh họa của Infinite Dendrogram. Bên cạnh Infinite Dendrogram, anh còn đảm nhiệm công việc minh họa cho nhân vật Merlin và Dioscuri trong tựa game Mobile đình đám Fate/Grand Order.
TRÍCH ĐOẠN
Điểm lạ là trước khi mở bán, chẳng hề có thông tin gì về Infinite Dendrogram được tung ra. Nó được giữ bí mật tuyệt đối, cho đến tận ngày phát hành mới công bố đồng loạt trên mạng và phương tiện truyền thông ở toàn thế giới. Trong lần công bố này, nhà phát triển đã nêu ra bốn điểm đặc sắc của trò chơi:
1. Tái hiện đầy đủ cả năm giác quan.
2. Kể cả khi có hơn trăm triệu người chơi, họ đều sẽ cùng tham gia vào một thế giới game trên một máy chủ duy nhất.
3. Người chơi có thể chọn cách thể hiện trò chơi với ba lựa chọn gồm thực tế, 3DCG hay đồ họa 2D anime.
4. Thời gian trong game trôi qua nhanh gấp ba lần so với hiện thực.
Đáp lại công bố của nhà phát hành, cả thế giới rộ lên những lời bàn tán kiểu như…
“Thứ này mà cũng làm được á?”
“Họ tốn bao nhiêu tiền của và công nghệ để làm ra được vậy?”
“Dù có là quảng cáo láo thì cũng quá đà rồi.”
Tuyên bố ấy tuy rất chấn động, nhưng nội dung của nó lại thật hoang đường.
Tính cả những người vốn chưa từng tiếp xúc với game, có đến 99,9998% người xem lần công bố trên đều chẳng tin nổi và không mua trò chơi này. Nhưng 0,0002% còn lại thì nói rằng “Nghe giống như lừa đảo ấy, nhưng biết đâu là thật không chừng…” “Để thử xem.” “Tôi tin đó.” và đến cửa hàng mua.
Phần cứng cần thiết tính theo yên Nhật thì chỉ khoảng mười ngàn yên, một mức giá rẻ bất ngờ, hay cũng có thể nói là rẻ đến điên rồ. Nhờ vậy lại có hiệu quả, một số người chơi vì nghĩ “Ôi dào, có bị lừa cũng chỉ mất có mười ngàn yên” mà mua và chơi thử.
Và khi đăng nhập vào trò chơi… họ hiểu ra tất cả đều là sự thật.
Họ chết lặng trước thực tại ảo hiển hiện trước mắt, sau khi đăng xuất và nhìn đồng hồ thì càng không khỏi kinh ngạc. Giấc mơ mà họ vừa chứng kiến hoàn toàn là thật. “Trò chơi trong mơ” giờ đã trở thành hiện thực.
Một hôm sau ngày phát hành, trong lúc cả thế giới đang xôn xao những bài viết và bình luận của những người đã chơi qua, nhà làm game lại lên tiếng một lần nữa. Lần này để làm rõ nội dung trò chơi. Một người đàn ông tên Lewis Carroll đứng lên phát biểu, tự xưng là người chịu trách nhiệm phát triển Infinite Dendrogram. Ông ta nói như sau trong buổi phát sóng:
“Hệ thống trò chơi của Infinite Dendrogram có một tính năng đặc biệt. Thay vì dựa vào hàng ngàn kiểu phối hợp giữa nghề nghiệp và kỹ năng, chúng tôi chỉ coi trọng một yếu tố đúng đắn duy nhất. Tính năng ấy vừa là độc nhất vừa tạo ra được muôn vàn khả năng, được gọi là Embryo.
Embryo sẽ thích ứng với hoàn cảnh riêng của từng người, tiến hóa thành vô hạn chủng loại. Không chỉ đơn thuần khác biệt về màu sắc hay các bộ phận, cả những kỹ năng đặc thù cũng khác biệt, có vô vàn hướng phát triển khác nhau.
Đó chính là lý do trò chơi có tên… Infinite Dendrogram.”
“Đúng vậy, Infinite Dendrogram sẽ đem đến cho các bạn một thế giới mới, nơi bạn có thể trở thành duy nhất.”
Những lời ấy đã trở thành mấu chốt cuối cùng, khiến cho trò chơi bùng nổ như một cơn sóng dữ.
Bộ sách Tô màu phương tiện giao thông gồm 5 cuốn:
- Xe thể thao siêu tốc độ - Speedy sport cars
- Siêu xe cực ngầu - Super cool super cars
- Xe tải vượt mọi địa hình - Trucks on the ways
- Máy bay siêu khổng lồ - Super huge airplanes
- Tàu thuyền siêu xịn - Super nice ships and boats
Bộ sáchTô màu phương tiện giao thônggồm 5 cuốn:
- Xe thể thao siêu tốc độ - Speedy sport cars
- Siêu xe cực ngầu - Super cool super cars
- Xe tải vượt mọi địa hình - Trucks on the ways
- Máy bay siêu khổng lồ - Super huge airplanes
- Tàu thuyền siêu xịn -Super nice ships and boats
Bộ sáchTô màu phương tiện giao thônggồm 5 cuốn:
- Xe thể thao siêu tốc độ - Speedy sport cars
- Siêu xe cực ngầu - Super cool super cars
- Xe tải vượt mọi địa hình - Trucks on the ways
- Máy bay siêu khổng lồ - Super huge airplanes
- Tàu thuyền siêu xịn -Super nice ships and boats
Bộ sáchTô màu phương tiện giao thônggồm 5 cuốn:
- Xe thể thao siêu tốc độ - Speedy sport cars
- Siêu xe cực ngầu - Super cool super cars
- Xe tải vượt mọi địa hình - Trucks on the ways
- Máy bay siêu khổng lồ - Super huge airplanes
- Tàu thuyền siêu xịn -Super nice ships and boats
Bộ sáchTô màu phương tiện giao thônggồm 5 cuốn:
- Xe thể thao siêu tốc độ - Speedy sport cars
- Siêu xe cực ngầu - Super cool super cars
- Xe tải vượt mọi địa hình - Trucks on the ways
- Máy bay siêu khổng lồ - Super huge airplanes
- Tàu thuyền siêu xịn -Super nice ships and boats
Infinite Dendrogram - Tập 2: Những Quái Thú Bất Tử
Infinite Dendrogram lấy bối cảnh trong tương lai gần, khi mà công nghệ VR (Virtual Reality – Thực tế ảo) đạt được những thành tựu đột phá. Là tựa game VRMMO dạng full-dive đầu tiên có khả năng tái hiện đầy đủ cả năm giác quan trong thế giới ảo, kết hợp với hệ thống Embryo có khả năng tự tiến hóa theo phong cách cá nhân của người chơi, “Infinite Dendrogram” nhanh chóng trở thành cơn sóng lớn thu hút cộng đồng game thủ trên toàn thế giới.
Vượt qua kỳ thi đại học, chàng thanh niên Mukudori Reiji bắt đầu cuộc sống tự lập ở thành phố Tokyo. Cậu ăn mừng điều này bằng cách khởi động “Infinite Dendrogram” – tựa game mà cậu đã phải nhịn không chơi suốt gần 2 năm để tập trung vào việc ôn thi. Và đó cũng chính là điểm khởi đầu cho cuộc phiêu lưu của Reiji tại “Thế giới của vô hạn những khả năng”.
Tại Nhật Bản, Infinite Dendrogram đã xuất bản được 14 tập truyện, đồng thời cũng nhận được rất nhiều lời đánh giá tích cực từ các độc giả ưa thích thể loại truyện phiêu lưu, giả tưởng lấy bối cảnh VRMMO. Bộ truyện cũng thường xuyên lọt vào top những bộ Light Novel bán chạy nhất Nhật Bản, theo số liệu từ bảng xếp hạng doanh số do Oricon công bố. Ngoài ra, Infinite Dendrogram hiện cũng đã được chuyển thể thành truyện tranh và phim hoạt hình.
Trong tập hai của Infinite Dendrogram, sau khi đặt chân đến Thành phố Quyết đấu Gideon, Ray bắt đầu thử nghiệm tính năng mới của món trang bị đặc biệt vừa lấy được. Cậu cố gắng nâng cao khả năng của chính mình, và khám phá trò quay gacha!
Cùng lúc ấy, những vụ bắt cóc trẻ em diễn ra khắp Gideon với thủ phạm là “băng sơn tặc Gouz-Maise”. Tình cờ, Ray gặp gỡ hai người chơi Hugo và Cyco – họ quyết định cùng nhau giải cứu bọn trẻ. Nhưng rồi, một tình huống hoàn toàn không ngờ tới đang đợi chờ nhóm bạn...!
“Phải tiêu diệt lũ sơn tặc đã bắt cóc những đứa trẻ!!!”
Hành trình của Mukudori Reiji trong “Thế giới của vô hạn những khả năng”, tiếp diễn!
VỀ TÁC GIẢ
Sakon Kaidou
Sakon Kaidou là một tiểu thuyết gia người Nhật Bản. Infinite Dendrogram là tác phẩm đầu tay của anh, đăng tải lần đầu tiên vào năm 2015 trên trang web Shōsetsuka ni Narō (Let’s become a Novelist) của Nhật Bản. Đây cũng là tác phẩm mang đến cho anh nhiều thành tựu, bao gồm “Hạng nhất trong các tiểu thuyết VRMMO trên Shōsetsuka ni Narō”, “Hạng nhất trong cuộc thi bầu chọn Light Novel mới do BookWalker tổ chức năm 2017”, “Hạng nhì trong số các tác phẩm mới của Kono Light Novel ga Sugoi! năm 2018”.
Minh họa: Taiki
Họa sĩ minh họa của Infinite Dendrogram. Bên cạnh Infinite Dendrogram, anh còn đảm nhiệm công việc minh họa cho nhân vật Merlin và Dioscuri trong tựa game Mobile đình đám Fate/Grand Order.
TRÍCH ĐOẠN
Đa số các thành phố lớn ở Vương quốc Altar (tính cả Kinh đô) đều được bao bọc bởi các bức tường lớn. Đây là cấu trúc cần thiết cho việc phòng tránh quái vật và các đợt tấn công từ nước khác, đồng thời cũng giúp ngăn cách thế giới bên trong với bên ngoài.
Thành phố Quyết đấu Gideon mà chúng tôi mới tới cũng như thế.
“Ồ…”
Tôi trầm trồ. Ở phía bên kia các bức tường (giống kiểu ở Kinh đô) là một khung cảnh khác hoàn toàn so với bên ngoài.
Nó đem lại cảm giác giống như lần đầu tôi đến Altar. Khi đó, không khí của thành phố kỳ ảo rất chân thật đã làm tôi ngất ngây, và thành phố Gideon này lại cho tôi trải nghiệm cảm giác đó thêm lần nữa. Bầu không khí ở Gideon vô cùng sôi nổi. Phần lớn bọn họ nhất định đến từ nơi đang hiện ra trước mắt tôi: Đại Đấu trường. Nó tọa lạc ở ngay trung tâm thành phố quyết đấu này. Đấu trường La Mã cổ đại là công trình hình tròn có đường kính hai trăm mét và chiều cao là năm mươi mét, nhưng Đại Đấu trường ở Gideon trông có vẻ còn lớn gấp đôi nó.
Dựa theo tấm bảng treo gần lối vào Gideon, ngoài Đại Đấu trường còn có mười hai đấu trường nhỏ khác rải khắp xung quanh thành phố, mỗi nơi đều hoạt động thường xuyên. Có vẻ như Đại Đấu trường ở trung tâm thành phố là nơi hay tổ chức các sự kiện đặc biệt. Thành phố này nhộn nhịp đến mức tôi không nghĩ được nó lại là một phần của một Vương quốc mới chịu thiệt hại nặng nề trong chiến tranh, và rồi sẽ chiến bại lần hai trong tương lai rất gần.
Nhìn xung quanh, tôi thấy có nhiều chủng tộc mà tôi hiếm khi nhìn thấy hồi còn ở Kinh đô. Nào là tộc người có tai thú, tộc người có sừng giống của rồng, rồi còn cả tộc yêu tinh chỉ cao tới đầu gối tôi. Lác đác có những á nhân, chủng tộc thường xuất hiện trong các tác phẩm kỳ ảo. Tôi nhìn họ và nhận ra rằng thành phố này ngoài du khách ra cũng có những người đã sống và làm ăn từ trước.
Thành phố này thật tràn đầy sức sống, đúng như những gì anh Figaro đã kể.
“Quả là một nơi nhộn nhịp.”
“Các dãy làng quanh thành có tên là Kẻ Bưởi, Kẻ Mọc, Kẻ Lủ, Kẻ Mơ, thì bà con nông thôn cũng hay gọi Hà Nội là “Kẻ Chợ”. Vì là kẻ chợ, nên lịch lãm có khi hóa ra kênh kiệu, buôn bán cũng có lúc lá phải, lá trái.
Nhưng ‘người Tràng An’ rõ ràng là người cần cù, cứng rắn, vẻ thanh lịch, đôi lúc hào hoa, yêu văn, yêu hoa, sành mỹ thuật, ăn mặc đơn sơ và trang nhã, nói lời văn vẻ dễ nghe, dễ hòa hợp với bà con phường, xóm, hay động lòng vì việc nghĩa, tình người, ghét cay ghét đắng những chuyện tục tằn kệch cỡm, hoạnh họe, lố lăng, đê tiện. Người Tràng An ở với nhau, ‘biết nhịn’, ‘biết nể’, ‘biết ngượng’, ‘suy bụng ta ra bụng người’. Trong thôn phố, có việc là chạy sang thăm hỏi ngay, ở với nhau chu tất, ăn ý, không ‘bỏ được lòng nhau’ [...]
Khách nhà quê ra, đi mãi, nóng, nhọc thì thấy ngay bên đường một vại nước vối ngon với mấy cái bát sạch. Người ta tóm cả cái thanh, cái cao, cái lịch sự, ẩn ý vào hai chữ ‘thanh lịch’.
Và khi đón bà con các tỉnh về, tiếp các khách phương xa đến, người ta nhắc nhau giữ lấy ‘vẻ thanh lịch của người Tràng An’.”
"Ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, có làng Phú Đôi, dân làng làm nghề nông, nhưng lại kiêm nghề gánh sách đi bán. Những người bán sách như vậy, gọi là phường Đổi đến, vi khao khát sách tốt văn hay. Hàng sách vào đến ngõ, là thầy búi tóc chạy ra, trò xúm xít lại; dăm ba người biết chữ trong làng cũng đến. Nhà hàng đưa danh mục xem trước, khách có tỏ ý mua, mới bày sách ra. Cách trả tiền cũng vừa với sức nhà nho nghèo. Có tiền thì trả tiền; không sẵn tiền thì đem ra sách cũ, giấy lộn, là thứ giấy đã viết kín một mặt rồi, lại lộn ra mặt sau mà viết lần nữa. Cứ xếp giấy bằng bê ngang hay bề dọc quyển sách là đủ."
Với Phố phường Hà Nội xưa, nhf văn hóa Hoàng Đạo Thúy đã kể lại thật sâu sắc văn hóa phong tục của mảnh đất kinh thành. Ông coi đó là những vật liệu quý để rèn đúc con người ngày mai. Bây giờ đây, khi chính người Hà Nội đôi lúc còn cảm thấy lạ lẫm với thành phố, với con người nơi mình đang sống thì những trang viết khúc triết, đầy hoài niệm của Hoàng Đạo Thúy lại càng thêm cần thiết: chúng tái hiện một Hà Nội khác, thâm trầm và sâu lắng hơn trong những căn rễ văn hóa chưa hẳn đã phôi phai...
Trấn Hồn - Tập 2
“Những cái khác thì tôi cũng có, nhưng phần nhiều chắc anh cũng chẳng buồn để mắt tới đâu, chỉ có một chút chân tâm ấy... Nếu anh không chịu nhận, thì đành thôi vậy.”
“Tôi nhận. Tôi nhận lấy rồi, cả đời này của cậu, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, tôi cũng sẽ không buông tay lần nữa. Kể cả là một ngày nào đó, cậu thấy nhàm rồi, chán ghét rồi, muốn bỏ đi rồi, tôi cũng tuyệt đối không buông cậu ra đâu, dẫu có phải siết, cũng nhất quyết siết cậu chết trong vòng tay tôi.”
Đôi nét tác giả
Priest là một trong những tác giả cấp "đại thần" của Tấn Giang. Mỗi một tác phẩm của cô đều được đầu tư công sức nghiên cứu bối cảnh tỉ mỉ, tình tiết hợp lý, thắt mở lôi cuốn, lối kể chuyện hài hước. Priest chưa từng lặp lại một đề tài cho hai tác phẩm, cho thấy sức sáng tạo mạnh mẽ của ngòi bút, chính điều này đã giúp cái tên Priest đứng vững trong lòng độc giả bao lâu nay.
Tác phẩm tiêu biểu: Đại ca, Trấn hồn, Sát phá lang, Thất gia...
Non nước cỏ cây, trà trong rượu nhạt, đình đài lầu gác, vàng ngọc châu báu, đều có tình ý, chi tiết, có cơ duyên diệu kỳ khó mà diễn tả nổi. Biết làm sao khi sự vật sự việc có đẹp hơn đi chăng nữa, cũng cần người có lòng thưởng thức, thương tiếc nó. Nếu không chỉ là một sự tồn tại giản đơn, ngàn năm cũng như một ngày mà thôi.
Phồn hoa trên đời khiến người ta say đắm ưa thích, yêu đến nỗi chẳng muốn rời tay, nhưng lại nhỏ bé tựa như hạt bụi, không thể trường tồn. Nhưng một kiếp một đời mênh mông này, rốt cuộc vẫn có điều mong cầu, hoặc là công danh lẫy lừng, hoặc là hoa mai cắm bình cùng gió mát. Nhân lúc tuổi hoa, bẻ vài cành hoa dại, thưởng mấy chén rượu thơ, điền vài câu tiểu lệnh, giãi bày dăm ba tâm sự, như thế, chẳng phụ nhân gian như gấm thêu.
Đôi nét tác giả
Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ, sống ở Giang Nam, đơn giản tự chủ, tâm như lan thảo, văn chương thanh đạm.
Cẩm Phong đã xuất bản:
- Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên (tái bản 2018)
- Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất (tái bản 2018)
- Duyên (tái bản 2018)
- Nếu em an lành, đó là ngày nắng (xuất bản 2018)
- Ngoảnh lại đã một đời (xuất bản 2019)
- Bởi vì thấu hiểu cho nên từ bi (xuất bản 2020)
Cẩm Phong sắp xuất bản:
- Anh đi ngang qua thời khắc khuynh thành của em (tạm dịch)
- Tôi dùng cả thanh xuân để tìm em (tạm dịch)
Lời giới thiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành cho cuốn sách: “Rachel Neumann đã hiệu đính hơn 20 cuốn sách của tôi trong mười năm qua. Nhờ sự hiểu biết sâu rộng của cô về những điều tôi giảng dạy, thông điệp của tôi, văn phong cũng như ngôn từ, đã được truyền đạt rõ ràng, đúng đắn và trung thực đến hàng ngàn độc giả. Tôi chân thành cảm ơn cô Neumann về sự đóng góp tận tâm và tài năng của cô. Trong thời gian hiệu đính, cô Neumann đã học một bài học cực kỳ quan trọng là không để bị kẹt bởi hình tướng của giáo lý, trái lại phải để cho con tim mở rộng hướng dẫn và tìm hiểu. Trong cuốn sách này, cô Neumann đã lưu ý độc giả rằng chánh niệm tỉnh giác là người thầy xứng đáng nhất của mình.
Trong kinh Kim Cang, Đức Phật kể chuyện một người muốn vượt qua một con sông nước chảy xiết. Anh ta thu nhặt những cành cây gãy và bó lại thành một chiếc bè để qua sông. Khi qua tới bờ bên kia, anh ta nghĩ rằng mình đã mất bao nhiêu công sức để làm nên chiếc bè này. Nghĩ thế anh ta vác chiếc bè lên vai mà đi. Đức Phật hỏi: “Vác chiếc bè lên vai mà đi như thế có phải là một hành động thông minh hay không?” Như Lai đã dùng bài học về chiếc bè này rất nhiều lần để nhắc nhở rằng chánh pháp mà còn phải buông bỏ, huống hồ là tà pháp.
Hồi ký của cô Neumann đã ghi lại không dè dặt những vui buồn trong cuộc sống hằng ngày của mình. Sách cũng đã ghi lại khả năng tìm lại bình an khi đối diện sự già và chết của tác giả. Rất nhiều người sợ già. Có người sợ già hơn sợ chết. Nhưng tôi cho rằng tuổi già là tuổi an nhàn. Về già chúng ta trầm tĩnh hơn, đi đứng khoan thai hơn, vui sống hơn. Chúng ta không hấp tấp, chúng ta thong thả thì giờ, thưởng thức từng giây phút của cuộc sống. Tuổi già cũng là tuổi mà chúng ta thực tập đối diện cái chết một cách can đảm. Khi thực tập nhận diện nỗi sợ chết, ta ý thức là ta đang còn sống, ta còn có nhiều điều để trân quý, nhiều cơ hội để vui hưởng. Và ta sẽ biết cách làm cho kẻ khác được hạnh phúc. Ta sẽ có khả năng thưởng thức chiều tà, sương mai, trăng thanh, gió mát. Đức Khổng Tử dạy rằng: “Không biết lo cho sự sống thì làm sao biết lo cho sự chết”. Nếu quán chiếu sâu sắc cái chết, ta sẽ chứng nghiệm lý bất sanh bất diệt của ta, của mọi người, mọi loài, và từ đó ta sống một cuộc đời thực sự đáng sống.
Chính trong giây phút này, biết bao tế bào đã chết trong tôi và trong bạn. Chúng ta không có thì giờ để làm đám ma cho chúng. Đồng thời cũng có biết bao tế bào đang sinh ra và chúng ta không có thì giờ chúc mừng sinh nhật của chúng. Sự chết gắn liền với sự sống. Có sinh đồng thời có tử. Cuốn sách này cống hiến một tuệ giác để sống cho trọn vẹn cuộc sống. Giữa vô vàn bận rộn đảo điên, chúng ta vẫn còn có biết bao cơ hội để vui hưởng giây phút hiện tại.”
MỤC LỤC
PHẦN I: CÓ MẶT
1.Thực tập chánh niệm với tâm hoài nghi
2. Giả bộ cho đến khi thành thật
3. “Một nhà sư đáng kinh sợ”
4. Mẹ có rảnh không?
5. Lắng nghe sâu
6. Ngồi yên và dừng lại
7. Đây là lý do vì sao mình có mặt ở đây
8. Tuổi già
9. Đỉnh cao của nếp sống dấn thân
10. Ngày mai không phải là câu trả lời
PHẦN II: DẤN THÂN
11. Chèo thẳng tới
12. Đau nhức và thực tập
13. Được phép khóc
14. Tại sao mẹ biết?
15. Lo và thở
16. Qua cầu
17. Đi tắm biển
18. Bị kẹt trên xe buýt số 9
19. Ai sắp chết thì giơ tay lên
20. Tiếp cận người chết
21. Năm phép quán tưởng
22. Ý nghĩa đích thực của nghiệp
23. Nuôi con để con lớn lên hạnh phúc
PHẦN III: NỐI KẾT
24. Tôi, bản ngã của tôi và tiếp hiện
25. Những kén tằm nhiều màu
26. Đừng có làm phiền tôi
27. Một chút tâm từ
28. Chỗ đứng trong thế giới
29. Nói chuyện để hòa giải
30. Người ngoài cuộc
31. Cuộc sống sẽ tuyệt vời nếu không bao giờ lầm lỡ
32. Giảm bớt người xa lạ
33. Gọi là kẹo dẻo hay là gì cũng được
34. Muốn được tất cả
35. Thay đổi chút ít vào giờ chót
Lời cuối: Một triệu khoảnh khắc hiện tại
Thực tập
…
TRÍCH ĐOẠN SÁCH
Ngồi yên và dừng lại
Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thực tập tỉnh giác dễ và không mất công, cũng như ngâm đậu vào nước. “Không cần đẩy nước vào hạt đậu,” Thầy nói với tôi như vậy. “Chỉ cần bỏ đậu vào nước và nước sẽ từ từ ngấm vào đậu. Qua đêm hạt đậu sẽ nở và mềm ra. Ta cũng như hạt đậu và tỉnh giác giống như nước. Phép thực tập là nhẹ nhàng đem tâm về với thân. Mọi căng thẳng sẽ từ từ tan biến, tỉnh giác sẽ tăng trưởng và sự vật sẽ rõ ràng.” Khó mà cảm nhận được mình như một hạt đậu trong nước khi đang bận việc! Mặc dù tôi không ưa phải chậm lại, dù chỉ trong chốc lát, nhưng tôi đã khám phá ra rằng dừng lại giúp ích rất nhiều. Tôi không nói dừng lại trong một trạng thái siêu hình xa xăm mà chỉ là để cho cơ thể dừng lại. Nếu đang đi thì dừng lại có nghĩa là ngừng bước, đứng yên hay ngồi xuống. Nếu đang nói thì dừng lại có nghĩa là ngừng nói. Nếu đang làm việc thì dừng lại có nghĩa là ngừng tay và không tỏ ra là đang bận rộn. Nếu dọn dẹp, nấu nướng thì ngồi xuống mà không có sách báo, bài vở hay tranh ảnh trên tay.
Tôi nhớ lúc còn nhỏ tôi theo mẹ đến thăm một người bạn của mẹ tôi bên Berkeley. Đến nơi chúng tôi gõ cửa nhưng không ai trả lời. Thấy cánh cửa hé mở, chúng tôi bước vào. Người bạn của mẹ tôi đang ngồi xếp bằng và nhắm mắt. Chúng tôi chờ một lát thì người ấy mở mắt chào và mỉm cười: “Tôi đang ngồi thiền”. Tôi thắc mắc suốt cả buổi hôm đó. Trên xe về nhà, tôi hỏi mẹ tôi: “Ngồi thiền là sao ạ? Có phải vì đang ngồi thiền mà bác ấy không nghe chúng ta gõ cửa không?” “Bác ấy có nghe nhưng tiếng gõ cửa lúc đó là ở đâu rất xa.” Câu trả lời này của mẹ tôi càng làm cho tôi băn khoăn. Bác ấy có mặt đó trong khi ngồi thiền hay là tâm trí bác ấy đang ở một nơi nào khác? Tại sao bác ấy ngồi như thế? Nếu có con ruồi đậu trên mũi, liệu bác ấy có biết không? Liệu bác ấy có quơ tay đuổi nó đi hay không? Dù gì đi nữa, việc bác ấy ngồi như thế đối với tôi là khó hiểu, kỳ quặc và tôi không muốn dính dáng tới chuyện ngồi thiền.
Tôi vẫn nghĩ như thế cho đến khi tôi làm việc cho Thầy. Tôi được cho biết tại sở làm, theo quy lệ, mỗi buổi sáng chúng tôi ngồi thiền 15 phút. Ngồi yên mà không có gì để đọc là một khoảng thời gian dài bất tận. Tuy nhiên, tôi cũng cố gắng ngồi thử, vả chăng tôi đang mang thai mệt nhọc, ngồi và nhắm mắt thẳng lưng như thế cũng được vài phút nghỉ ngơi.
Cả mười năm nay tôi bắt đầu buổi sáng làm việc như sau. Tôi và các đồng nghiệp ngồi thành vòng tròn và nhắm mắt. Một người sẽ thỉnh lên một tiếng chuông. Thỉnh chuông nghĩa là mời chuông. Không ai nói “đánh” chuông mà chỉ nói “thỉnh” chuông.
Chúng tôi ngồi nhắm mắt. Chúng tôi chỉ ngồi. Thỉnh thoảng có tiếng chuông điện thoại, tiếng ho, hay tiếng sột soạt. Tôi nghe những tiếng động ấy không phải từ đâu xa, mà chỉ là tiếng động đơn thuần của tiếng ho, tiếng sột soạt. Tôi muốn coi những buổi ngồi thiền này như được chợp mắt trong chốc lát bởi vì tôi hay bị mệt vào buổi sáng. Tuy nhiên tôi phải ngồi thẳng lưng. Trước kia tôi đã không mấy thích cách ngồi thiền như thế này và tự hỏi tại sao mình không nằm xuống cho khỏe. Nhưng ngồi thiền đã giúp tôi tinh tấn thực tập. Mỗi khi có một ý nghĩ dấy lên trong tôi thì ngồi thiền nhắc tôi để cho ý nghĩ đi qua như một cành khô trôi sông.
[…]
Tôi không thể ngồi yên 15 phút mỗi buổi sáng nếu đó không phải là một phần công việc của tôi trong sở. Các con tôi không ngồi yên được vài phút trước bữa ăn nếu đó không là một phần sinh hoạt của gia đình. Tất cả các hoạt động hằng ngày như đánh răng hay tập thể dục là do thói quen năm này sang năm khác mà không cần mỗi lúc phải quyết định cho từng việc.
Bây giờ mỗi khi mở cửa xe, tôi trở về với hơi thở có ý thức không phải là vì tôi có chuyện gì bực mình hay tôi muốn thực sự có chánh niệm mà chỉ vì sau đó tôi lái xe thoải mái hơn. Về nhà khi mở cửa tôi cũng thở hơi thở có ý thức. Thực tập trong những trường hợp bình thường như thế giúp tôi nhớ để trở về với phút giây hiện tại trong những trường hợp khẩn trương hơn như khi con tôi giật tay áo tôi hay hét vào mặt tôi. Trong siêu thị hay đi ngoài đường, thỉnh thoảng tôi ngừng lại, thở và tưởng tượng có một em bé vỗ vai tôi và hỏi: “Mẹ có đó hay không?”
Không cần phải là một Phật tử hay là tín đồ của bất cứ đạo nào để ngồi thiền. Có rất nhiều Phật tử khắp thế giới không bao giờ ngồi thiền. Nhưng phải tìm cách chấm dứt hành động loay hoay và nói năng lảm nhảm. Dừng lại sẽ mang lại kết quả nhưng điều kiện cần thiết là dừng lại. Dẫu cho đang ngồi, đang đứng hay đang nằm, khi dừng lại là tạo điều kiện cho thân ta ghi nhận phút giây hiện tại. Có nhiều cách để tăng cường chú tâm khi dừng lại: đếm hơi thở, rà soát cơ thể hay đọc thầm một bài thi kệ ngắn. Tuy nhiên, thường thì dừng lại mà có ý thức là đủ. Dừng lại còn tạo cơ hội cho trí não bớt lăng xăng vì bị tràn ngập bởi chữ nghĩa. Trong trường hợp ấy tôi dùng bài thi kệ đơn giản của Thầy.
Thở vào, tôi biết tôi thở vào
Thở ra, tôi biết tôi thở ra.
Thân và tâm tôi hợp nhất một cách dễ dàng chỉ với hai dòng chữ đơn giản ấy. Giây phút hiện tại trước hết là hơi thở. Ý thức toàn thể vũ trụ được thể hiện chỉ qua một hơi thở vào ra.
Sakurako Và Bộ Xương Dưới Gốc Anh Đào - Tập 5
Sakurako và bộ xương được chôn dưới gốc anh đào (tên gốc: Sakurako-san no ashimoto ni wa shitai ga Umatteiru) là series light novel trinh thám của tác giả Ota shiori, minh họa bìa Tetsuo. Đến nay series đã đạt được con số ấn tượng 1,5 triệu bản in. Tác phẩm cũng được chuyển thể sang rất nhiều phiên bản như TV series anime, drama live-action, manga.
Hokkaido, Hakodate. Tôi, Shoutarou cùng với cô tiểu thư yêu xương và bí ẩn Sakurako cùng du hành đến thành phố ấy. Nhưng chúng tôi chẳng phải đi chơi. Là để điều tra một vụ án mà người chú kính yêu của Sakurako từng theo đuổi. Vụ án ấy có một điểm chung với vụ án mà chúng tôi từng giải quyết, đó là những mẩu xương cánh bướm. Chúng tôi đã thách thức vụ án đã trôi vào quá khứ ấy… Cuốn sách này còn bao gồm cả một câu chuyện ngắn cho thấy sự quyến rũ của Sakurako, người con gái vừa kiêu hãnh cao quý vừa ngây thơ.
Đây là truyện dài đầu tiên trong series trinh thám rất được yêu thích này!
Mục lục:
Mở đầu
Chương một: Ký ức mùa đông và bản đồ thời gian
Chương đặc biệt: Bàn tay dịu dàng
Thông tin tác giả:
Shiori Ota: sinh ra ở Sapporo, Hokkaido. Cô sống ở thành phố Asahikawa đến năm 2012 . Khi ra mắt tác phẩm trên trang web E*Every Star, cô được đánh giá cao về bút lực và trở nên nổi tiếng. Cùng năm đó, bộ truyện Sakurako và Bộ xương dưới gốc anh đào đạt giải thưởng xuất sắc (Với bút danh Eleanor.S) trong Hạng mục Giải thưởng truyện E-book của E*Every Star (Kadokawa Shoten). Ngoài ra, cô còn đoạt một số giải xuất sắc như Giải thưởng Kaito Royale Novel, Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết tổ chức bởi E*Every Star và Quartet, trong mọi cuộc thi khả năng viết lách của cô đều được đánh giá cao.
Tetsuo
Trích đoạn sách:
Bộ môn Pháp y của Đại học Y Sapporo được mở ra nhờ bộ phim truyền hình của đài địa phương gặt hái rất nhiều giải thưởng trong Liên hoan nghệ thuật của Cục Văn hóa.
Trong văn hóa Nhật, khái niệm cái chết gắn liền với sự ô uế[1] ăn sâu vào gốc rễ, nên người Nhật có khuynh hướng né tránh “cái chết” trong vô thức. Cho đến khi xem bộ phim về chủ đề pháp y ở Hokkaido này, rất nhiều người dân không biết đến vấn đề trong chế độ xác minh nguyên nhân tử vong ở Hokkaido.
Hokkaido có dân số gần bằng Phần Lan. Tuy nhiên, ở Phần Lan tỷ lệ giải phẫu tử thi trong những ca tử vong không rõ ràng (toàn bộ những cái chết ngoại trừ chết bệnh trên giường, có bác sĩ chứng thực) là 80%. Tỷ lệ này ở Hokkaido chỉ có 5 – 6%. Tỷ lệ của Hokkaido như vậy không hẳn là quá thấp. Nếu tính trung bình cả nước, ở Nhật Bản tỷ lệ này là dưới 10%.
Tuy nhiên, người Hokkaido đã nhận ra sự tôn nghiêm sau cái chết của mình không được bảo vệ, nên nhiều nơi đã nêu lên sự bất mãn. Tiếp theo bộ phim truyền hình nọ, Tivi và các tòa soạn đều đồng loạt đưa tin về vấn đề này, nên cuối cùng chính quyền buộc phải tìm cách giải quyết.
Vì vậy, bộ môn Pháp y trước giờ chỉ được mở ở ba trường: Đại học Hokkaido, Đại học Y, đại học Asahikawa được mở thêm ở một trường nữa. Tôi được chọn làm giáo viên cho bộ môn mới mẻ này.
Lý do rất đơn giản, người cố vấn kiến thức y khoa cho bộ phim truyền hình đó là tôi. Chắc ai đó đã bí mật bàn bạc lúc tôi không hay biết gì chăng.Tôi nghĩ đây là hành động biểu dương cần thiết để chấn chính quá trình xác định nguyên nhân tử vong ở Hokkaido.
Tuy nhiên số nhân viên giám định pháp y vốn ít, cũng không tăng bao nhiêu sau khi lập bộ môn mới. Rốt cuộc nếu pháp luật Nhật Bản không thay đổi, tỷ lệ giải phẫu sẽ vẫn không tăng lên.
Dù sao, tôi cũng được chào đón rất nhiệt liệt, có phòng nghiên cứu mới... Không chỉ vậy, tôi có cả phòng giải phẫu tối tân nhất, có trang bị máy chụp cắt lớp chuyên dụng. Tôi có thể vung dao mổ tùy thích. Trong thời điểm hiện tại, không có ai bảo tôi hạn chế việc giải phẫu ở trường vì vấn đề chi phí.
“Giáo sư Shitara, cô bé đến tìm thầy đấy ạ.”
Tôi đang nghỉ ngơi ở thư viện (vừa là văn phòng bộ môn vừa là phòng tiếp khách), thì cậu nhân viên giải phẫu tên Aoba cất tiếng gọi. Cậu ta được kéo về cùng tôi từ trường cũ, là người có thể lấy nội tạng ra giỏi nhất mà tôi từng biết.
Cậu ta đang cười tươi, đẩy lưng một cô bé có thân hình nhỏ nhắn, mặc váy liền trắng lóa. Đôi mắt cô bé đen láy, hoàn toàn tương phản với làn da trắng ngần không bị ảnh hưởng bởi nắng hè gay gắt. Đôi mắt ấy đang tỏa sáng lấp lánh, đầy kỳ vọng lặng lẽ. Cô bé này rất thích công việc của tôi. Cô tiểu thư nhà tôi – Nói đúng ra thì không phải con gái, mà là cháu gái tôi, tên Sakurako.
Hôm ấy, bộ môn chúng tôi hết sức bình yên. Nếu có chuyện không hay xảy ra, vô luận là ban ngày hay nửa đêm, chúng tôi sẽ nhận được liên lạc từ cảnh sát. Trong một năm, số lượng tử thi có điều kì quái mà cảnh sát Hokkaido tiếp nhận là khoảng 700. Trong số đó, bốn bộ môn pháp y chia nhau giải phẫu chưa đến 500 tử thi. Làm phép tính đơn giản 500 chia 4 thì có thể thấy không phải ngày nào chúng tôi cũng khám nghiệm tử thi.
Dù có nhiều công việc văn phòng cần giải quyết, nhưng rất may bộ môn chúng tôi có viên thư ký cực kỳ giỏi giang. Nên vào những ngày nhàn rỗi không có họp hành gì, đến khoảng 7 giờ tối là có thể rời khỏi trường dại học rồi.
Thật may mắn, hôm nay là một ngày như vậy. Bởi vậy, tôi dự định lát nữa sẽ cùng cháu gái ăn tối. Cháu gái của tôi ít nói, cũng không hay biểu lộ cảm xúc, nhưng không hiểu sao từ xưa đã luôn yêu quý tôi.
Sakurako sống ở Asahikawa, nhưng hiện giờ anh thứ tôi và chị dâu đang tranh cãi về việc ly hôn. Bà giúp việc đảm đang Sawa được giao cho nhiệm vụ chăm sóc Sakurako. Cô bé chỉ đến ở với tôi trong mùa hè.
Đây là mùa hè cuối cấp ba của Sakurako, là thời điểm nhiều người không thể thảnh thơi. Nhưng thật đáng tiếc, anh tôi không cho cô bé học tiếp. Trong thời đại bây giờ thì quả là chuyện ngớ ngẩn.
Thực sự vô cùng đáng tiếc. Sakurako rất thông minh. Đặc biệt, cô bé quan tâm sâu sắc đến môn pháp y. Đồng thời lại rất điềm tĩnh. Chắc hẳn cô bé có thể trở thành một bác sĩ pháp y giỏi giang. Nếu được, tôi thậm chí muốn Sakurako thành học trò mình nữa.
Tuy nhiên, tôi chỉ là chú của Sakurako, nên không thể mở miệng nói gì.
Trái với gia đình Shitara có truyền thống nhiều đời làm bác sĩ, anh thứ tôi ở rể nhà Kujou, là một gia tộc đại địa chủ, tham gia vào quá trình khai phá thành phố. Một gia đình lâu đời, cao quý. Chắc họ có rất nhiều lý do – nhưng thực sự vô lý. Tôi cảm thấy rất đáng tiếc khi Sakurako bị trói buộc bởi những thứ đó.
Tuy vậy, ngoài Sakurako thì không còn ai kế tục gia tộc ấy. Cô bé hiểu rõ điều này hơn bất cứ ai, nên đã chấp nhận không học lên rồi.
Tôi không thể để Sakurako thấy xác chết thực sự. Nhưng trong một tiếng định kỳ, tôi sẽ giải thích cho Sakurako về những gì mình tìm ra từ tử thi vừa giải phẫu hôm qua. Lúc ấy, viên thư ký chợt đến, lúng búng nói với tôi, vẻ mặt khó xử.
“Giáo sư… Cảnh sát đến tìm ạ.”
“Cảnh sát ư?”
Hôm nay tôi có hẹn với họ sao? Có lẽ nhận ra nghi vấn này của tôi, viên thư ký lắc đầu. Tóm lại đây là cuộc viếng thăm không hẹn trước. Cô thư ký có vẻ đánh hơi được việc gì đáng ngờ, nên mặt rất tăm tối.
Chẳng có cách nào khác, tôi để lại Sakurako trong phòng nghiên cứu không đẹp đẽ gì lắm của mình, ló đầu ra thư viện.
“Xin lỗi…”
Đứng đó là một thanh niên mặc vét mà tôi quen mặt.
“A, cậu là…”
“Yamaji ạ. Yamaji Youichi ạ.”
“À đúng rồi.”
Hình như cậu ta thuộc sở cảnh sát Hakodate. Một viên cảnh sát mới vào nghề vài năm, rất nhiệt tình, đã gặp tôi vài lần.
Cá nhân tôi không phải là người ghét cảnh sát. Những viên cảnh sát Hokkaido thường giúp tôi dọn rửa các thiết bị sau khi giải phẫu, dù đó chẳng phải công việc của họ. Tôi có ấn tượng với viên cảnh sát trẻ này vì lúc giải phẫu cậu ta rất nhiệt tình, nhìn chăm chú không để lọt dù là một manh mối rất nhỏ. Khi thu dọn, cậu ta cũng rất cẩn thận nghiêm túc
Dĩ nhiên phần nhiều cảnh sát không quen với việc giải phẫu tử thi. Những người đó lại dễ thăng tiến. Để thăng tiến thì đâu cần mắc mứu gì với xác chết. Nói thẳng ra, cậu ta chắc sẽ không thăng quan tiến chức được. Là loại người ưa hành động hơn lo nghĩ.
“Thưa giáo sư, tôi có điều muốn hỏi ạ.”
Yamaji không ngồi xuống chiếc ghế tôi mời, bắt đầu nói với giọng điệu căng thẳng. Những lời đầy nhiệt tình này khiến tôi có cảm giác chuyến viếng thăm này không phải vì công vụ.
“Thật xin lỗi, hôm nay tôi có hẹn rồi.”
“Sẽ không tốn thời gian nhiều đâu ạ.”
Khóe miệng mím lại cùng đôi mày rậm cho thấy quyết ý không thể xoay chuyển. Không hiểu sao tôi nhớ đến con chó Akita[2] mình nuôi lúc bé. Toranosuke khi đã quyết chuyện gì thì cũng không chịu nhượng bộ, thật hết cách. Tôi vốn dễ yếu lòng trước ánh mắt như thế.
“Sakurako, hôm nay Shouko đi cùng cháu đúng không? Cháu hãy đến cửa tiệm bằng taxi trước nhé. Cháu biết chỗ đón taxi tầng dưới đúng không?”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành về phòng nghiên cứu bên cạnh, cất tiếng gọi Sakurako. Lúc này cô bé đang mê say xem ghi chép về giải phẫu. Thật may, hôm nay không chỉ có hai chúng tôi cùng đi ăn. Tôi đến trễ đôi chút thì cũng không có vấn đề gì– Tuy nhiên Sakurako nhăn mặt với vẻ khó chịu rõ ràng, lắc đầu. Cô bé rất ghét taxi. Từ ngày đó trở đi, Sakurako rất ác cảm và sợ hãi những chiếc xe màu trắng.
Thật không may, chẳng hiểu sao taxi ở Sapporo phần lớn là màu trắng.
“Dùng chỗ đón xe taxi của trường đại học cũng được đấy ạ.” Cậu Aoba vốn đang tựa người vào cửa bỗng đứng dậy.“Tôi sẽ dẫn cô bé xuống dưới, để cô bé lên một chiếc xe không phải màu trắng.”
Aoba nói thêm rằng nếu không mau chóng tìm được xe thì cậu ta sẽ gọi đến công ty taxi nhờ gửi xe tới. Nói rồi cậu ta dắt Sakurako đi. Sakurako rất khó gần, nhưng may là có vẻ thân thiện với cậu Aoba.
Tôi vỗ vai Aoba thay cho lời cảm ơn, cậu ta liền cười khổ đáp lại. Trong thâm tâm, cậu ta chắc cũng muốn trốn tránh chuyện tiếp đãi Yamaji. Dù vậy, chắc cậu ta cũng ngần ngại, sợ thất lễ với Yamaji đã tới tận đây để gặp tôi.
“… Thế thì, có chuyện gì vậy.”
Tôi trở về thư viện, lại mời cậu Yamaji ngồi xuống. Nãy giờ cậu ta vẫn đứng nghiêm trang. Tôi nhờ cô thư ký pha cà phê, cậu ta liền nói xen ngang.
“Tôi có mấy bức ảnh muốn nhờ giáo sư xem qua ạ.”
“Ảnh ư?”
“Vâng. Là ảnh một thi thể được phát hiện hôm qua.”
Nói rồi Yamaji lấy vài tấm ảnh ra từ chiếc cặp màu kaki. Tôi không cầm lên, mà chỉ nhìn xuống những tấm ảnh đang được trải rộng trên mặt bàn. Có lẽ đây là ảnh của thi thể vừa được phát hiện cùng với hiện trường nơi đó.
“Phát hiện cả di thư, nên bộ phân khám nghiệm khẳng định đây là tự sát ạ… Tuy nhiên tôi lại nghĩ có khi đây là một vụ án mạng?”
“Căn cứ vào đâu mà cậu nghĩ vậy.”
“… Do déjà-vu[3] đấy ạ. Khi nhìn thấy hiện trường, tôi chợt có cảm giác rất quen mắt.”
“… Chỉ có thế thôi sao?”
Tôi bất giác nhíu mày. Sự khác biệt trong sai số áp đảo giữa tỷ lệ giải phẫu tử thi của Nhật và Phần Lan chính là ở đây.
Đối với người Phần Lan, giải phẫu thi thể là một lẽ tất nhiên như tuân theo tín hiệu đèn giao thông vậy. Tuy nhiên ở Nhật, khi phát hiện những thi thể chết dị thường, những viên cảnh sát hay bác sĩ học qua pháp y độ ba tháng sẽ chỉ khám nghiệm sơ sài rồi đưa ra kết luận..
Một bác sĩ pháp y ở Phần Lan có thể giải phẫu hàng trăm tử thi trong một năm. Có tới 5% trường hợp nếu không giải phẫu thì không xác định được có phải là án mạng hay không. Ngay cả những chuyên viên pháp y lão luyện cũng không thể phán đoán chính xác nếu chỉ xem xét bề ngoài.
Nhưng ở Nhật, ngay cả những người không phải chuyên viên pháp y cũng có thể chỉ nhìn bề ngoài mà kết luận liệu đây có phải án mạng hay không. Thế rồi, khi bộ phận giám định của cảnh sát đã nói rằng không có dấu hiệu phạm tội, thì trường hợp đó sẽ không coi là vụ án. Thi thể sẽ không được chuyển đến chỗ tôi. Đây chính là hiện trạng của việc xác định nguyên nhân cái chết ở Nhật.
Tuy nhiên đây không phải là lỗi của cảnh sát. Thậm chí dù có đi nữa, những người ở hiện trường cũng không có tội. Tôi nghĩ bọn họ ít nhiều cũng bực bội vì quá trình này rất vô lý. Vốn dĩ sai lầm nằm trong luật pháp của đất nước này.
Và trước mặt tôi bây giờ là một viên cảnh sát trẻ đang nhìn tôi chằm chằm, biểu cảm nghiêm túc, có vẻ không thể chấp nhận kết quả đó.
“Tôi hiểu ạ. Dù sao cũng không thể kết luận đó là một vụ án do linh tính của mình được. Tuy nhiên tôi đã lập tức nhận ra lý do tôi thấy deja-vu. Đó là vì tôi đã... nhìn thấy một hiện trường hoàn toàn giống thế này cách đây mấy năm rồi ạ.”
Sự nhiệt huyết trong giọng nói của cậu ta càng lên cao.
“Không phải chuyện tâm linh mê tín đâu ạ. Không phải là ở Hakodate, nhiệm sở của tôi hiện giờ, mà lúc còn ở thành phố Chitose cơ. Tôi chắc chắn đã nhìn thấy một thi thể giống hệt thế này ở hồ Okotanpe.”
“Hồ Okotanpe ư?”
“Thi thể lần này được phát hiện ở đầm Junsai... Okotanpe và đầm Junsai đều gần hồ nước lớn. Tôi có cảm giác phong cảnh rất giống nhau.”
“Hồ Shikotsu và hồ Oonuma?”
Hồ Shikotsu rất gần Sapporo, là hồ không đông nằm ở cực Bắc của Nhật. Nó cũng là hồ tạo ra bởi núi lửa sâu thứ hai Nhật Bản, xung quanh là rừng cây yên tĩnh. Còn Oonuma là một hồ nước cách Hakodate khoảng một giờ đi xe, xung quanh cũng rất thanh tĩnh nên quang cảnh hẳn giống nhau.
“Nhưng cũng có khả năng đơn thuần vì họ chọn nơi vắng người lắm chứ. Chỉ có vậy mà cậu đã cho rằng hai vụ án liên quan, có vội vàng quá không?”
“Vì thời tiết nóng nực, tử thi ở đầm Junsai đã bị phân hủy rất tồi tệ, có nhiều phần đã bị thú rừng ăn hay tha đi lung tung. Nhưng vị trí cái đầu bị rơi và tình trạng hiện trường quả là rất tương đồng. Cái đầu của cả hai thi thể đều ở trong nước. Nhìn như thể có ai đó đã đặt chúng ở vị trí tương tự nhau đấy ạ.”
“Ở trong nước ư?”
“Vâng. Tử thi ở hồ Okotanpe đã hoàn toàn hóa thành xương trắng, hộp sọ đã vỡ ra, xương ở bên trong bị tổn hại khuyến thiếu. Nên cũng có điểm khác nhau, nhưng nhìn chung rất tương đồng.”
Yamaji mạnh mẽ nói.
“Tôi đã tận mắt thấy hiện trường cả hai bên, có thể khẳng định như vậy. Quang cảnh hiện trường của hai tử thi giống hệt, cứ như mô phỏng. Tôi không thể nghĩ đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên!”
Như để biểu lộ nhiệt tâm, Yamaji đặt hai tay lên bàn, nhoài người về phía trước.
“Á…”
Cô thư ký đúng lúc đó mang cà phê tới, bèn khe khẽ kêu lên.
“A, tôi xin lỗi…”
“Tôi sẽ rót lại đây ạ.”
Cô ta đưa mắt nhìn chỗ cà phê vương vãi trên mặt bàn và Yamaji, giọng điệu không giấu được bực bội. Yamaji có vẻ hơi mất tinh thần. Không ai bị bỏng là tốt rồi. Tôi lại nghĩ, thay vì cà phê, bây giờ mình chỉ muốn ngưng cuộc trò chuyện để đi uống gin và tonic lạnh.
Cô thư ký để lại bánh Yamaoyaji của tiệm bánh Senshuuan[4] trên đĩa rồi biến mất vào căn bếp đơn giản. Yamaji nhìn xuống mấy cái bánh gạo vị bơ một lúc lâu, rồi lại mở miệng rụt rè.
“… Xác chết rơi đầu cũng không hiếm lạ gì lắm. Việc thiếu vài mảnh xương có thể là do thú rừng tấn công, tôi biết cũng là chuyện hay gặp. Nhưng… tôi không thể phớt lờ trực giác của mình được. Tôi nghĩ chắc chắn là có gì đó liên quan.”
Nhưng cậu ta đến tìm tôi rốt cuộc để làm gì vậy?
“Giáo sư trước đây từng dạy bảo tôi rằng trực giác rất quan trọng. Dù mong manh đến đâu, khi đã có cảm giác kỳ lạ thì phải điều tra đến tận cùng.”
“Đúng là tôi nghĩ con người nên trân trọng trực giác của mình hơn. Bởi có nhiều trường hợp đó là điều sinh ra từ kinh nghiệm quá khứ trở lại trong vô thức.”
“Giáo sư, vì vậy nên…” Yamaji nhìn tôi với vẻ van cầu.
“Dù tôi nói vậy đi nữa, rốt cuộc cậu muốn tìm gì ở tôi? Không lẽ cậu muốn tôi điều tra xác chết trong khi chưa được cho phép? Đây có phải phim truyền hình trên Tivi đâu? Tôi chưa từng nghe đến một vị giáo sư pháp y nào lại đi trực tiếp điều tra một vụ việc mà cảnh sát đã kết luận là không có dấu hiệu phạm tội.”
“Tôi biết ạ! Tuy nhiên dù thế nào thì tôi cũng muốn điều tra! Giáo sư cũng biết là phán xét của bộ phận giám định không hoàn hảo mà! Tôi sẽ nhận hết trách nhiệm! Nếu quả thực đó không phải tự sát, thì ngoài chúng ta ai sẽ đeo đuổi vụ án này?”
Giọng Yamaji hối hả, đầy ắp sự nhiệt tình. Căn phòng trở nên yên lặng như tờ.
“Ngoài ra cậu còn biết gì khác không? Ví dụ cậu có biết phần xương nào bị thiếu trong hộp sọ ở Okotanpe không?”
“A, đó chắc là… bướm… hình cánh bướm…”
“Xương bướm ư?”
“A, đúng rồi đấy ạ.”
“…”
Tôi thầm rên rỉ.
“A, giáo sư biết gì đó chăng?”
“Làm sao được! Từ mỗi thông tin này mà biết cái gì, tôi là phù thủy chắc – Chỉ là, xương bướm khiến tôi lưu ý. Đây là một mẩu xương rất đặc thù.”
“Một mẩu xương đặc thù… Ý giáo sư là sao ạ?”
“Đây là mẩu xương phía sau mắt chúng ta, có hình dạng như cánh bướm, thật sự rất đẹp. Điểm thú vị là dù nhìn từ chính diện hay từ phía trên, nó đều có hình dạng như cánh bướm. Thật là đẹp phi thường, đồng thời cũng rất mỏng và giòn – Vậy còn thi thể ở Hakodate thì sao?”
“Đã bị hỏa thiêu rồi.”
“Vậy à… Hakodate ư… Hộp sọ của thi thể ở đó không bị tổn hại gì chứ?”
“Vâng, chỉ bị phân hủy thôi.”
Yamaji gật đầu.
Ở Hakodate, thường tử thi được hỏa thiêu rất nhanh. Ngay cả ở Hokkaido đây cũng là một phong tục đặc biệt, xác chết được hỏa thiêu trước đêm viếng. Có nhiều giả thuyết về lý do cho
phong tục này, nhưng có lẽ là do dù ở Hokkaido, Hakodate có nhiệt độ tương đối ấm áp. Cũng có thể do tinh thần phóng khoáng đặc trưng của người dân. Mỗi khi có thiên tai hay lúc có người chết nhiều, để tránh xác chết thối rữa, người ta thường hỏa thiêu cái xác rất sớm.
“Nếu vậy, cậu bảo tôi phải làm gì bây giờ?”
Thi thể để giải phẫu không còn nữa, cậu ta tìm kiếm gì ở tôi đây?
“Từ những tấm ảnh này giáo sư có tìm ra điều gì không ạ? Điều gì cũng được? Có điều gì khiến giáo sư nghi ngờ rằng đây là một vụ sát nhân không?”
“Cậu đang giỡn hả? Đừng yêu cầu tôi những chuyện vô lý chứ?”
Từ miệng tôi bật ra tiếng cười không hợp hoàn cảnh. Những tấm ảnh này vốn do bộ phận giám định chụp. Dù bộ phận giám định đã kết luận rằng vụ này không có dấu hiệu hình sự, họ đã làm việc rất cẩn thận, lưu lại ảnh chụp thế này. Nhưng dù có cẩn thận đến đâu đi nữa, rất khó đoán định gì về thi thể từ những tấm ảnh này.
“Xin giáo sư đấy.”
Dù vậy quả thực không còn phương pháp gì nữa. Yamaji yên lặng cúi đầu, tôi đành lần lượt cầm lấy những bức ảnh trải ra trên bàn.
Thi thể có vẻ là phụ nữ. Mùa hè năm nay rất nóng nực, Sapporo cũng đang trong chuỗi ngày oi bức giữa hè. Xác chết đã phân hủy rất tồi tệ rồi.
Có vẻ bộ phận giám định đã khẳng định nguyên nhân cái chết là ngạt thở do treo cổ. Ngay cả từ mấy tấm ảnh tôi nhìn qua, cũng không thấy dấu hiệu phạm tội đâu cả.
“Có một chuyện rất đơn giản. Nếu có thể xem trong bàn tay thi thể có sợi xơ của dây thừng không thì tốt rồi, nhưng…”
“Dây thừng ư?”
“Những người định treo cổ thường sẽ lướt tay qua sợi dây thừng trước khi tự sát. Có lẽ là để xác nhận độ bền chắc của sợi dây, cũng có thể là hành vi vô thức sinh ra từ sợ hãi. Vì thế, dù hiếm gặp nhưng cũng có trường hợp sợi dây thừng sẽ lưu lại vụn da của nạn nhân.”
“Chuyện đó chưa được kiểm tra, sợi dây thừng… có lẽ được coi là di vật, được trả về cho gia đình nạn nhân rồi.”Yamaji nói.
Tôi bất giác nhăn mũi. Đúng là sợi dây thừng có thể coi là di vật của người chết. Nhưng trên thế giới này, làm gì có gia đình nào sẽ vui mừng nhận lấy sợi dây thừng mà người thân của họ đã dùng để tự sát chứ?
Tuy nhiên đây là chuyện thường gặp. Thế rồi, dĩ nhiên gia đình nạn nhân không muốn lưu lại vật này trong tay, họ thường bỏ vào quan tài hỏa thiêu luôn.
Dù vậy, cân nhắc tâm tình gia quyến không phải công việc của cảnh sát, cũng chẳng phải công việc của tôi. Chỉ trích cảnh sát thì thật sai lầm. Có lẽ đây là vấn đề trong hệ thống chính quyền, thậm chí không có cơ quan chuyên môn hỗ trợ cho thân nhân người đã mất. Đất nước này thật lạnh bạc với những gia đình như vậy.
Xác chết có tư thế treo cổ khác thường – nói cách khác, thi thể có một phần tiếp đất. Nạn nhân đã treo cổ bằng sợi dây vòng qua cành cây khá thấp. Chết trong tư thế hông chạm đất. Một bộ phận cơ thể... nửa người dưới bên trái chìm trong đầm. Hai cánh tay đã rơi xuống gần đùi phải, nằm giữa chúng là cái đầu lăn lông lốc, cũng chìm trong nước.
“… Nạn nhân là một nữ y tá… Trước khi cô ta tự sát ít lâu, một bệnh nhân cô ta phụ trách đã đột tử.”
“Dù cũng tùy vào khoa, không phải y tá cũng hay gặp trường hợp như vậy sao.”
Tôi làm nghề xử lý xác chết, nhưng không đa sầu đa cảm trước tử thi. Nếu đa sầu đa cảm thì làm sao cắt xác ra được. Trong phần đông trường hợp, vì đó là công việc nên càng quyết đoán.
“Đúng vậy, không phải chuyện hiếm lạ gì. Tôi nghĩ cũng chẳng đến nỗi phải tự sát. Tuy nhiên di thư lại ám chỉ rằng đó chính là nguyên nhân… Cũng có khi chỉ là cái cớ. Có thể là có vấn đề gì khác, như phạm sai lầm trong trị liệu chẳng hạn.”
Yamaji nói với vẻ khổ sở. Cậu ta có vẻ đến cùng cũng không tin đây là một vụ tự sát.
“Vậy ý cậu muốn nói là… có khi cô ta bị giết để lấp liếm một vụ tai tiếng nào đó?”
“Không phải rất có khả năng sao?”
“Cậu đang nói nhân viên y tế nào đó vì muốn che giấu sai lầm quá lớn trong điều trị nên giết cô ta?”
Mặc dù biết là Yamaji đang nghiêm túc, tôi cũng bất giác bật cười.
“Giáo sư!”
“Xin lỗi nhé. Tôi chỉ đang nghĩ, sai lầm đó rốt cuộc là cái gì mà người ta phải liều mình phạm tội để che giấu chứ. Ngay cả khi đó rõ ràng là sơ suất trong trị liệu của bệnh viện, họ vẫn có thể hòa giải mà không cần đến tòa án. Thậm chí khi không thể hỏa giải, tỷ lệ bệnh nhân thắng kiện bệnh viện vì sai lầm điều trị chỉ chiếm 20%. Nên về phía bệnh viện, sát hại nhân viên để bịt miệng họ thì liệu có đáng không?”
“Cái đó… có thể là vì danh tiếng của bệnh viện… hay không?”
“Người ta nói quá 75 ngày là tin đồn đã bay sạch[5]. Sóng yên bể lặng thì thiên hạ cũng quên mất thôi.”
Tôi bất giác tuôn ra những lời khó nghe. Nhưng đó là vì những gì Yamaji nói khiến tôi thấy rất khôi hài. Yamaji chắc đang nghiến răng vì giận dữ. Đối mặt với sự chính nghĩa thẳng thắn ấy, tôi chợt xấu hổ với những lời chẳng tử tế gì của mình, bèn nhìn đi nơi khác.
“… Cậu nói là có di thư ư?”Tôi hít hơi thật sâu, hỏi cậu ta.
“Vâng.”
Yamaji đáp với giọng điệu như một thiếu niên giận dỗi vì bị thầy giáo mắng mỏ. Tình cảm chân thành tựa trẻ con ấy không hiểu sao làm tôi thấy đáng yêu đến lạ. Tuy nhiên, đồng thời tôi cũng bất an trước sự thẳng thắn đến nguy hiểm này. “Theo đuổi chính nghĩa” và “làm điều đúng” không luôn luôn tương đồng với nhau.
“Vì có di thư nên người ta khẳng định đây chắc chắn là tự sát.”Yamaji nói với giọng điệu cay đắng.
“Vậy à… Nhật Bản rất coi trọng di thư. Nhưng ở nước khác, có di thư thì lại càng đáng ngờ.”
“Trường hợp di thư không viết tay, mà đánh máy thì sao?”
Ý cậu ta chắc là làm giả bao nhiêu cũng được. Nói cũng có lý. Ngoài ra, trong những vụ chết do treo cổ với tư thế bất thường, không phải không có những vụ để lấp liếm hành vi sát nhân.
Không còn cách nào khác, tôi dằn lòng nhìn lại những bức ảnh vụ án. Không làm thế thì Yamaji sẽ không hài lòng quay về, sẽ phiền lắm. Dù nói vậy nhưng tôi cũng không ghét cậu ấy.
Tôi rút kính lúp từ túi áo, bắt đầu nhìn ngắm các bức ảnh, tìm xem liệu có gì chỉ ra dấu hiệu tội phạm không – Khi đó, đột ngột tôi có cảm giác kì dị mơ hồ ở phần cổ của cái đầu bị rơi ra.
“Vậy à… Nếu thế thì, cái đốt sống cổ này…”
“Tức là phần cổ phải không ạ? Phần cổ có gì thế ạ?”
“À à, theo tôi quan sát thì cổ bị gãy ở giữa đốt sống cổ thứ nhất và đốt sống cổ thứ hai. Có khi đó chỉ là ngẫu nhiên, tuy nhiên nhìn như bị cố ý bẻ gãy bởi một người có kiến thức về giải phẫu.”
“Cố ý sao!?”
Yamaji nhoài người về phía trước. Lúc ấy cô thư ký mang khay trở lại. Cô ta lùi người về sau, tặc lưỡi.
“Chờ đã, tôi không nói chắc được. Cùng lắm chỉ coi như ý kiến tham khảo thôi... Đương nhiên, tôi không thể phủ nhận khả năng phần này tự gãy.”
Tôi hoảng hốt xua hai tay. Yamaji ngồi xuống ghế với vẻ thất vọng, đưa hai tay ôm mặt. Từ miệng cậu ta bật ra tiếng thở dài. Cậu ta quả thực là người giàu tình cảm.
Tôi đứng lên, kéo cái ghế cậu Aoba đang ngồi lại gần để giải thích. Aoba đã về từ lúc nào, đang ngồi giả vờ làm việc trên máy tính.
“Được rồi. Trong những trường hợp xác chết bị rơi đầu, phần lớn sẽ bị gãy ở đốt sống cổ thứ năm hoặc thứ sáu – tức là phần cục lồi thanh quản đấy. Cả chém đầu cũng vậy. Vì việc đó tốn rất nhiều sức lực. Ngoài ra, ở thời Edo người ta lại hay chém ở phần xương sụn nằm giữa đốt sống cổ thứ nhất và hộp sọ. Nếu đưa lưỡi đao trơn tru vào thì có thể một nhát bay đầu dễ dàng.”
Aoba đành đưa tay nới lỏng cổ áo, để lộ phần cổ trần trụi ra cho tôi dễ thuyết minh. Tôi đưa ngón tay chỉ cho Yamaji thấy phần lồi thanh quản của Aoba, rồi chỉ phần dưới hộp sọ một chút.
“Nhưng lần này… Thực sự không dễ gãy như trong ảnh đâu.”
Tôi bắt Aoba cúi đầu xuống, để Yamaji thấy rõ ràng xương chẩm sau đầu Aoba.
“Như tôi đã giải thích, cái cổ của xác chết này bị gãy ở phần giữa đốt sống cổ thứ nhất và thứ hai. Phần liên kết giữa hai đốt xương này… có một phần xương lồi gọi là “răng”. Nếu cổ bị cố ý bẻ gãy bằng các phương pháp thông thường thì phần xương này sẽ bị tổn hại. Nhân viên khám nghiệm hẳn đã xem qua bộ phận này rồi. Nếu phần xương này bị tổn hại thì không thể kết luận rằng không có dấu hiệu phạm tội. Bởi vậy, có thể suy ra phần “răng” của tử thi này không bị tổn hại.”
Yamaji vội vàng lôi giấy bút ra ghi chú với vẻ mặt nghiêm túc. Như thể đang dạy học trò, tôi cẩn thận đưa ngón tay chỉ bảo tận tình.
“Nếu phần “răng” của đốt sống không bị tổn hại nhưng cổ vẫn đứt lìa… Thì có thể khi xác chết phân hủy, ai đó đã ấn đầu xác chết xuống, đưa thứ gì vào từ sau đầu, một cái gì không quá sắc nhọn... Ví dụ như dao bay bằng kim loại chẳng hạn. Rồi hắn cẩn thận tách rời hai phần xương này ra.... Dĩ nhiên cố tình làm đứt cổ người ta thế này là hành vi phạm tội của kẻ rất am hiểu về cơ thể người. Tuy nhiên đây là cắt đầu tử thi đã thối rữa. Hết sức hôi thối. Mùi não bộ thối rữa khó chịu lắm. Nên tôi nghĩ cậu nên xem xét khả năng cái đầu này rơi xuống ngẫu nhiên đi."”
Tôi cảm ơn Aoba, rồi quay sang Yamaji.
“Những điều tôi có thể nói chỉ có nhiêu đó thôi… Tôi xin lỗi có vẻ không trợ giúp gì được cho cậu."
Khi tôi xin lỗi, Yamaji ngẩng mặt lên. Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt đó là do hưng phấn ư.
“…Giáo sư, vậy tôi có thể nhờ giáo sư thêm một chuyện được không?”
Từ đôi mắt của cậu ta, tôi lập tức nhận thức được tiếp theo là chuyện gì.
“Yamaji. Tôi chỉ là một giảng viên đại học thôi. Thực sự tôi không thể trợ giúp cậu thêm gì đâu.”
“Không, vẫn còn đấy ạ. Nếu giáo sư trực tiếp kiểm tra tro cốt còn lại, có khi sẽ biết gì đấy chăng!"
“Cậu đừng nói vớ vẩn nữa!”Lần này tôi lỡ miệng lớn giọng.
“Tôi biết là mình đang yêu cầu vô lý! Nhưng ngoài giáo sư ra sẽ chẳng ai có thể giúp đỡ tôi! Tôi van xin giáo sư.”
Sự yên lặng buông xuống.
Có lẽ cô thư ký không còn muốn mang cà phê cho Yamaji nữa. Cô ta vừa cầm khay vừa liếc nhìn tôi trách móc, như đổ trách nhiệm cho tôi vì Yamaji không sớm quay về. Aoba cũng nhìn vào mắt tôi, yên lặng lắc đầu.
“Yamaji… Tôi rất hiểu nhiệt tình của cậu, rất muốn khen ngợi cậu. Với tư cách một thị dân, tôi rất an lòng khi biết có một viên cảnh sát trẻ trung như cậu mang trong lòng nhiệt huyết như thế, muốn điều tra tới nơi tới chốn. Tuy nhiên… Tôi nghĩ cậu nên đối mặt với thực tế. Trên đời này có những việc ta làm được, và có những việc ta không thể làm được…”
”... Chuyện đó tôi đã biết rõ rồi.”
Thật lòng tôi chẳng muốn dội một gáo nước lạnh lên nhiệt tình của Yamaji, cũng không muốn tỏ ra xem thường cậu ta. Không, có lẽ tôi thực sự không muốn quay lưng trước sự kỳ vọng và tin tưởng ấy nữa. Tóm lại tôi không cự tuyệt quá thẳng thừng.
Nhưng dù tôi cố gắng chọn từ ngữ, cuối cùng lại nghe như thầy giáo quở trách học sinh. Có lẽ với cậu ta những lời của tôi là cự tuyệt thẳng thừng. Gương mặt Yamaji hiện lên thất vọng rõ ràng, lòng tôi cũng trào dâng áy náy.
“Thực sự… tôi rất xin lỗi không giúp gì được cho cậu… Nhưng nếu cậu biết được gì đó, lần tới có thể đến nhờ tôi tư vấn.”
Yamaji không đáp lại lời xin lỗi của tôi. Cậu ta vẫn cúi đầu như thể vô cùng thất vọng, chỉ cúi người chào một cái, rồi rời khỏi thư viện mà không ngoảnh lại nhìn tôi lấy một lần.
“Lần tới anh ta đến, giáo sư có cần báo trước không ạ.”
Viên thư ký cầm chỗ cà phê bỏ không của Yamaji, vừa tự mình uống vừa nói với vẻ khó chịu.
“Không…”
Tôi đáp lại mơ hồ. Trong lòng chia ra hai nửa, một phần không muốn để mặc Yamaji, phần khác không muốn dính líu hơn nữa. Nhưng dù ít dù nhiều, đây vốn không phải công việc của tôi, cũng vượt quá phận sự của cậu ấy.
“Tuy nhiên cậu ấy cũng không phải người xấu. Chỉ là đến nhờ tư vấn khi giáo sư có thời gian thôi mà.”
Cậu Aoba vừa cười khổ vừa nói. Tôi đứng ở cửa, nhìn theo bóng lưng Yamaji đang đi xa dần. Chẳng mấy chốc cậu ta rẽ ở khúc quanh hành lang để đi đến thang máy. Nhìn thấy biểu cảm đầy ưu tư đó, trong thoáng chốc tôi không thể giữ bình tĩnh nữa.
Tôi lao xuống cầu thang cách thư viện không xa. Do hơi thở trở nên gấp gáp, tôi thấy rõ mình rất thiếu vận động. Tôi chạy đến cửa thang máy dưới tầng một, vừa kịp thấy bóng dáng Yamaji ở cửa ra vào. Tôi vội vã chạy đến, nắm lấy tay cậu ấy. Yamaji tròn mắt ngạc nhiên.
“Chờ đã! Lúc nãy có một việc tôi quên nói.”
“… Việc gì đấy ạ?”
“Là về cái xương bướm ấy… về xác chết không có xương bướm.”
Yamaji lập tức nghiêm mặt.
“Xương bướm…”
“Thực sự trước đây tôi từng điều tra một thi thể tương tự. Lúc đó thi thể nọ hoàn toàn đã hóa thành xương trắng, rốt cuộc không thể biết là tự sát hay án mạng. Nhưng khi mở hộp sọ, tôi phát hiện thiếu mất xương bướm. Hoàn toàn không có. Con bướm trắng xinh đẹp sống trong đầu người ấy.”
Tôi vừa thở hổn hển vừa báo vậy với Yamaji. Cậu ta có vẻ vẫn không hiểu tôi thật sự đang nói gì.
“Rốt cuộc, không thể làm rõ danh tính của thi thể đó, thời gian đã trôi qua mất rồi. Chắc cứ thế này, sự tồn tại của thi thể đó sẽ bị quên mất. Bởi vậy – chỉ một ngày thôi.”
“Giáo sư?”
“Chỉ một ngày, tôi sẽ giúp cậu. Nhưng chỉ lần này thôi. Hy vọng cậu hiểu rằng lần tới tôi sẽ không trợ lực cho cậu với những việc thế này nữa. Đây là ngoại lệ duy nhất.”
Biểu cảm của Yamaji tràn đầy hy vọng. Còn tôi, khi đã thực sự hiểu ra mình đang nói gì thì trở nên bất an. Dù vậy, tôi vẫn tin vào trực cảm của chính mình, rằng để cậu ấy ra về thế này thì không được.
[1] Nguyên văn: Kegare, khái niệm “ô uế” trong Thần đạo. Được cho là bắt nguồn từ cái chết.
[2] Một giống chó Nhật.
[3] Hiện tượng cảm thấy quen thuộc một người, một sự việc như đã gặp hay trải qua rồi, dù rất có thể chưa từng thấy.
[4] Senshuuan là một cửa hiệu chuyên làm bánh ngọt truyền thống nổi tiếng ở Hakodate, bánh Yamaoyaji là một trong những mặt hàng đặc sắc của tiệm.
[5] Thành ngữ Nhật
Sakurako Và Bộ Xương Dưới Gốc Anh Đào - Tập 6
Sakurako và bộ xương được chôn dưới gốc anh đào (tên gốc: Sakurako-san no ashimoto ni wa shitai ga Umatteiru) là series light novel trinh thám của tác giả Ota shiori, minh họa bìa Tetsuo. Đến nay series đã đạt được con số ấn tượng 1,5 triệu bản in. Tác phẩm cũng được chuyển thể sang rất nhiều phiên bản như TV series anime, drama live-action, manga.
Asahikawa, Hokkaido. Mùa hè năm ấy, tôi – Shoutarou đã gặp gỡ Sakurako. Một cô tiểu thư xinh đẹp sống gần trong dinh thự màu trắng. Đó là ấn tượng đầu tiên. Tôi ngấm ngầm mong đợi cơ hội được gặp lại cô, nhưng lại lỡ nhìn thấy cô đang bê một thứ gì máu me ngay trước cổng dinh thự. Chưa kể, bà lão hàng xóm lại đang mất tích… “Người đàn bà đào đát” là vụ án thử thách đầu tay đối với Sakurako và Shoutarou. Kỷ niệm đó cũng đồng thời gợi Shoutarou nhớ về những điều quan trọng.
Bộ truyện bí ẩn được bạn đọc nhiệt liệt đón nhận!
Mục lục:
Mở đầu
Xương thứ nhất: Người đàn bà đào đất
Quãng nghỉ
Chương thứ hai: Tin nhắn oan hồn
Tài liệu tham khảo
Thông tin tác giả:
Shiori Ota: sinh ra ở Sapporo, Hokkaido. Cô sống ở thành phố Asahikawa đến năm 2012 . Khi ra mắt tác phẩm trên trang web E*Every Star, cô được đánh giá cao về bút lực và trở nên nổi tiếng. Cùng năm đó, bộ truyện Sakurako và Bộ xương dưới gốc anh đào đạt giải thưởng xuất sắc (Với bút danh Eleanor.S) trong Hạng mục Giải thưởng truyện E-book của E*Every Star (Kadokawa Shoten). Ngoài ra, cô còn đoạt một số giải xuất sắc như Giải thưởng Kaito Royale Novel, Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết tổ chức bởi E*Every Star và Quartet, trong mọi cuộc thi khả năng viết lách của cô đều được đánh giá cao.
Tetsuo
Trích đoạn sách:
“Tuyệt vời. Nó đã hoàn toàn lóc sạch ra, đẹp lắm rồi này.”
Sakurako nói vậy, rồi mừng rỡ cầm một khúc xương lên cho tôi coi.
“A-Ặc... ”
Không phải chuyện đùa, đó cũng chẳng phải đồ giả. Đây là hàng thật, là xương người thật! Không phải là xương hươu ninh trong thùng phi!
Tôi kinh hồn bạt vía không thể nhịn xuống nỗi sợ hãi và cảm giác tởm lợm kia, liền bỏ ra chỗ bụi rậm bên ngoài.
“Quá đáng ghê, xương của người ta đẹp đẽ đến thế này.”
Hơ? Sao cơ chứ? Xương gì cơ, đây là “thi thể” người đấy. Sao lại có thể nói ra không chút dao động như vậy được chứ?
“Hừm. Chắc là nam giới.”
Liếc xéo sang phía tôi, Sakurako lại nhìn chăm chú xuống bộ xương rồi khẳng định vậy.
“Sao-sao lại? Làm thế nào chị biết được hay vậy?”
Nước mắt đã trào lên khóe, tôi tự ý rút một chai nước khoáng trong ba lô ra rồi xúc miệng, sau đó hỏi Sakurako bằng giọng gần như tuyệt vọng.
“Hộp sọ nói lên nhiều thứ lắm. Dựa vào đó, ta có thể hiểu ra khá nhiều chuyện. Nhất là xương trán và xương hàm dưới, còn cả khung xương chậu nữa. Chỉ cần nghiên cứu hai phần xương này là có thể đoán định đại khái giới tính của người đó – tiếp theo là tuổi tác.”
Hừm, cô ấy khoanh tay lại, rồi lại lần mò trong hố để tìm xương. Nhìn thấy thân xác còng queo bị đám giun rết to tổ bố bò lổm ngổm, tôi càng thấy buồn nôn hơn nhưng vẫn cố lắng tai nghe lời cô ấy nói.
“Em quan sát vòm miệng đi. Dựa vào đường khớp giữa răng cửa hàm dưới, ta có thể phân định khá đúng tuổi tác. Đường khớp này sẽ mất dần khi vào khoảng hai mươi tuổi, và biến mất hoàn toàn khi qua độ tuổi năm mươi. Riêng bộ xương này đã mòn cả nhưng vẫn chưa mất đi hoàn toàn. Nhưng mà phía bên trong cũng đã biến mất gần hết rồi, chắc cũng phải ngoài ba mươi.”
Tức là một người ngoài ba mươi tuổi nhưng chưa tới năm mươi.
“Ngoài ra còn có thể dựa vào tình trạng răng cửa hàm dưới đã bị mòn lộ ngà, vậy nên ta có thể phỏng đoán đây là bộ xương của nam giới vào độ ba mươi tới bốn mươi tuổi.”
Sakurako giải thích cặn kẽ cho tôi hay. Thành thật mà nói, tôi cũng chẳng quan tâm tới chuyện đó. Nhưng khi nhận thấy gương mặt đó không mang vẻ khoan khoái của lũ tội phạm biến thái mà mang nét nghiêm nghị của một bác sĩ hay một nhà nghiên cứu, tôi liền để tâm hơn tới lời cô ấy nói.
“Xương là cơ quan có sự thay đổi theo tuổi tác. Mặt rãnh này của hộp sọ giúp việc phán đoán tuổi tác dễ dàng hơn rất nhiều, nhưng ở mỗi cá thể lại mỗi khác, thế nên phải tổng hợp cả các bộ phận khác mới có thể phán đoán chuẩn xác.”
Cái gọi là “mặt rãnh hộp sọ” chẳng hề nảy số trong đầu tôi. Nhưng nếu nói đến rãnh thì, xương cũng có những đường rãnh như vậy sao?
“Thêm nữa... người này chắc thuận tay phải, nghề nghiệp chắc là... thợ mộc.”
“Dạ?”
Chỉ nhìn vào bộ xương mà có thể biết được cả những chuyện như vậy sao!? Tôi ngỡ ngàng hỏi cô ấy, “Thật sao ạ!?”
“Những chỗ cơ bắp nhiều thì khung xương cũng sẽ dày hơn ấy. Dựa vào sự khác biệt giữa hai bên phải trái, có thể xác định được phía tay phải của người này nhiều cơ bắp hơn. Hơn nữa, chị còn thấy khớp khuỷu bên phải của người này đã bị biến dạng. Có lẽ người này mắc Hội chứng đau khuỷu tay tennis, là chứng tê liệt do dây thần kinh bên trong khớp khuỷu tay bị căng nén quá mức, thường xảy ra với người làm nghề thợ mộc hay thợ làm chiếu vì họ dùng nhiều tới khuỷu tay đó.”
“Bệnh nghề nghiệp của thợ mộc ư... ”
Tôi càng thêm bất ngờ về cô gái trước mắt, đồng thời cảm giác ngưỡng mộ cũng dấy lên từ đáy tim.
Cô ấy có trí nhớ hiếm thấy và những kiến thức nền uyên bác. Chỉ cần nghe tên họ của một người liền đọc được cả xuất thân của họ; và ngay cả thi thể đã hóa thành bộ xương trắng trước mặt hiện tại, cô ấy không chỉ xác định được giới tính và tuổi tác, mà biết được người này thuận tay nào và cả nghề nghiệp của người đó.
“Sụn giáp đã gãy, hộp sọ cũng có vài vết lõm vào... Chị nghĩ đây không phải cái chết tự nhiên đâu. Dù chưa thể xác định được nguyên nhân trực tiếp của cái chết, nhưng chắc hẳn cổ người này đã bị thít chặt và bị đánh bằng vật sắc nhọn.”
“Vậy... chẳng lẽ, người đó chính là... ”
Một người đàn ông trưởng thành vào khoảng độ ba mươi cho tới trên dưới bốn mươi tuổi, làm nghề thợ mộc – Khi nghe tới đây, tôi đã thầm ngộ ra câu trả lời rồi. Chưa kể còn có dấu vết của một vụ giết người... !?
“Có lẽ bà Yachi Hatsue đang tìm kiếm thứ này.”
Sakurako dùng cách nói “thứ này” như thể đang đề cập đến một món đồ.
Đáng lẽ phải nói là “người này” mới đúng. Bà Yachi dù móng tay đã tứa máu vẫn bất chấp tìm kiếm thi thể này.
“Không cần phải báo cảnh sát hả? Nếu không thì chị mang về nhà đấy nhé?”
Sakurako cười hinh hích trước vẻ ngơ ngẩn của tôi, rồi nói với tôi bằng giọng điệu tinh quái như vừa nhặt được một món đồ chơi.
“Tôi thích bị khổ đau.”
Hẳn chúng ta đều nghĩ, trên thế gian làm gì có ai kỳ quặc như vậy. Mỗi người chúng ta, trên khía cạnh chủ quan, luôn tự nhủ: “Làm gì có chuyện muốn bị khổ đau, dù ít hay nhiều.”
Tuy nhiên, vượt ra ngoài phạm vi có thể tưởng tượng, thế giới này tồn tại bóng dáng khổ sở vì tức giận dù việc ta phải đối mặt chẳng đáng để tức giận, khổ sở vì lo lắng dù việc ta phải đối mặt chẳng đáng để lo lắng, khổ sở vì hối hận dù việc ta đã làm chẳng đáng phải hối hận. Những bóng dáng ấy chính là sinh vật sống mang tên con người, chính là chúng ta. Có lẽ bạn thấy khó tin, nhưng ở một tầng ý nghĩa nào đó, tâm lý ẩn sâu bên trong con người có xu hướng hoạt động theo chiều hướng “muốn khổ sở”.
Khi xuất hiện cảm giác “khổ sở”, bộ não sẽ tạo kích thích mãnh liệt. Lúc đó, con người sẽ cảm thấy “khó chịu, chán ghét”. Tuy nhiên, nếu đánh giá từ khía cạnh cơ chế trái tim con người, thì trái tim sẽ chào đón những khổ sở đó bởi trái tim “thích tiếp nhận nhiều kích thích”.
Ví dụ, khi công việc trục trặc, ta bị sốc vì ánh mắt lạnh toát từ chung quanh. Dĩ nhiên, khi ấy ai cũng thấy khó chịu đúng không? Lúc này, dù là ai đi nữa thì cũng muốn “không bị cuốn theo cảm xúc khó chịu, thay đổi tâm trạng bức bối lúc này”. Tuy nhiên, trên thực tế là cả nửa ngày trôi qua, ta vẫn bận tâm, bị cuốn theo sự việc khiến bản thân khó chịu, cảm thấy vô cùng khổ sở. Thậm chí, ta nghĩ: “Trời! Thất bại tới mức như thế, thật không tài nào tha thứ. Nếu đánh mất niềm tin của mọi người thì sao…”
Cứ như vậy, mỗi lần cảm thấy “khổ sở”, ta tiếp tục lặp lại vài lần. Thực ra, nguyên nhân của vòng xoáy lặp lại là vì trái tim chào đón cảm giác khổ sở mà chúng ta phải chịu đựng. Tôi nhận ra rằng, với tư cách là một sinh vật sống, việc chịu đựng cảm giác khó chịu có liên quan tới bản năng sinh tồn của con người. Để dễ dàng sống sót, ta có xu hướng chạy trốn khỏi sự việc tiềm tàng nguy cơ ảnh hưởng xấu đến sự sinh tồn của bản thân. Nếu con người bị đặt trong tình trạng không thoải mái, bộ não sẽ phát ra tín hiệu khó chịu: “Nguy hiểm đấy. Phải chạy thôi”. Có thể nói, quá trình truyền đi hệ thống tín hiệu khó chịu đó chính là một cơ chế của sinh vật sống. Tín hiệu này hữu ích trong quá trình sinh tồn của con người nên bộ não bộ được cấu tạo để cảm nhận rằng: “Phát ra tín hiệu không thoải mái là việc làm có ích”.
Như vậy, tạm thời có thể nhận định, sự thực là, tín hiệu “khổ sở” giúp chúng ta né tránh sự nguy hiểm, là yếu tố hữu ích trong quá trình sinh tồn của con người. Tuy nhiên, trải qua mỗi lần như vậy, chúng ta lại ghi nhớ các thông tin tiêu cực quá đỗi mãnh liệt, lặp lại nó nhiều lần và khiến bản thân khắc ghi nó, từ đó biến chất thành khổ đau. Hẳn là bạn ngờ ngợ có chút kì quặc đúng không?
Nếu xét từ phương diện giúp tránh né mối nguy, việc kích thích nhiều lần mạch thần kinh khổ đau để ghi nhớ thông tin tiêu cực vẫn là hành động tốt. Tuy nhiên, nếu bắt đầu thấy khổ sở vì thất bại, thì dần dần trong công việc sẽ nảy sinh ý thức sợ hãi, cuộn trào cảm giác kém cỏi, muốn chạy trốn. Nếu bạn thấy khổ sở trong mối quan hệ với mọi người chỉ vì bị bạn thân nói lời tổn thương, bạn sẽ gặp rắc rối vì sợ hãi mối quan hệ giữa bản thân và mọi người xung quanh.
Khi thử nghĩ như vậy, bạn có thể hiểu, mạch thần kinh khổ sở vốn dĩ có ích cho việc chạy trốn khỏi nguy hiểm lại sẽ mang nguy hiểm đến bên bạn, chẳng hạn như bạn sẽ cứ mãi khắc ghi câu chuyện khó chịu, bám chặt lấy ý thức sợ hãi, hay có thói quen muốn chạy trốn.
Nếu để mạch thần kinh khổ sở hoạt động mạnh mẽ và biến thành thói quen, tâm hồn sẽ trở nên dễ phấn khích, dễ nóng giận, dễ hoang mang, dễ bực tức, phá vỡ sự yên tĩnh và ôn hòa vốn có.
Vì thứ thuốc mê gây ra sự khó chịu bên trong não bộ, khiến tâm hồn rơi vào trạng thái không thoải mái, giống như liều thuốc gây nghiện, nên dù tuyệt đối chẳng hay ho, chúng ta lại dễ dàng nhào nặn thành thói quen của bản thân. Và chỉ cần bị phê bình một chút, chỉ cần tin nhắn trả lời của người khác chậm một chút thôi, bạn sẽ tức giận ngay lập tức. Lúc này, “khổ đau” biến chuyển thành thói quen.
Thói quen “khổ đau” càng nhuốm màu đen đặc vào tâm hồn, trái tim càng dễ hưng phấn, đồng thời vô tình khiến thái độ dành cho người khác không còn khe hở để bình tĩnh. Đương nhiên, việc này gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ với mọi người.
“Nỗi khổ đau” được tạo thành để bạn sống tiếp cuộc đời sẽ dần gặm nhấm thần kinh bạn như ma túy. Khi phó mặc cho khổ đau, con người sẽ cuồng loạn. Để chặn đứng cơn cuồng loạn ấy, hãy cùng tôi luyện tập bài “Đừng khổ đau vô nghĩa”. Đó là chủ đề cốt lõi của cuốn sách bạn đang cầm trên tay.
Để loại bỏ khổ đau nơi tâm hồn, hãy cùng tôi tìm kiếm trí huệ mà Đức Phật, bậc vĩ nhân xuất chúng, để lại cho nhân gian, giúp những con người hiện đại sống trong an yên, không còn khổ sở. Lời răn Đức Phật dạy cho đệ tử được tổng hợp trong Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Nếu muốn tóm lại chỉ bằng một câu nói thì là: “Hãy tìm kiếm nguyên nhân gây ra căn bệnh khổ đau và chữa trị nó”. Khi dân chúng ở thôn làng Kesaputta thỉnh cầu Đức Phật: “Xin Người hãy giáo hóa cho chúng con làm thế nào để biết ai nói lời chính trực, ai nói điều ngang trái”, Người đáp lại hết sức đơn giản và rõ ràng: “Nếu khiến nguồn cơn khổ đau gia tăng, đó là sai trái. Nếu khiến khổ đau tiêu biến, đó là chính trực”.
Nói tóm lại, khi đánh giá sự vật sự việc, thước đo thật sự quan trọng vốn dĩ vô cùng đơn giản. Đó là chỉ cần cả tâm hồn và thể xác khẳng định chắc chắn rằng vật hay việc đang chồng chất hay gạt bỏ khổ đau. Nếu có thể lựa chọn khiến bản thân không còn buồn khổ, thì điều ước thỉnh cầu một tâm hồn an yên, sống hết mình trong hạnh phúc, sẽ trở thành hiện thực.
Dẫu thế, chúng ta thường không kiểm tra kỹ lưỡng tín hiệu của khổ đau hay cân nhắc kỹ tâm hồn và thể xác như đã đề cập, mà thay vào đó, chúng ta thường có xu hướng hành động tùy tiện, nói chuyện tùy tiện, suy nghĩ tùy tiện. Nói cách khác, chúng ta thực hiện hành động, phát ngôn, tư duy trong khi không ý thức, không tự giác nhận thức.
Bởi hành động khi không ý thức, chúng ta có xu hướng suy nghĩ tiêu cực làm gia tăng khổ sở cho bản thân, kèm theo đó là phát ngôn và hành động cũng khiến nỗi khổ nghiêm trọng hơn.
Chẳng hạn, bạn bừng bừng khí thế, thao thao bất tuyệt trước đám đông, nhưng rồi sau đó hối hận: “Chắc người ta nghĩ mình là kẻ khoác lác mất thôi”, kết cục là tâm trạng trùng xuống. Suy nghĩ tiêu cực như vậy chỉ khiến nỗi day dứt của bạn tăng lên mà thôi. Hoặc là, để từ chối lời nhờ cậy, bạn nói dối: “Em cũng muốn lắm, nhưng mà bây giờ công việc của em bận quá nên em không giúp được”, từ đó sinh ra mâu thuẫn với suy nghĩ thật tâm, nỗi day dứt tăng lên.
Một ví dụ khác, khi ngồi trên ghế làm việc, tư thế dần gục xuống, cong lưng. Khi cong lưng, áp lực tạo lên lưng lớn. Nếu không thả lỏng đúng cách và kịp thời, dần dà bạn sẽ trói chặt cơ thể trong tư thế mỏi mệt. Ảo giác “cong lưng chắc chắn thoải mái hơn” khiến ta không nhìn thấy hiện thực mỏi mệt.
Trong ba ví dụ trên, suy nghĩ chất chứa trong bạn lần lượt là: “Nếu hối hận, lần sau chắc chắn sẽ không lặp lại”, “Nếu mình thêu dệt lời nói dối, chắc chắn sẽ không làm đối phương tức giận”, “Nếu cong lưng, sẽ đỡ căng thẳng”.
Tuy nhiên, trên thực tế, cả ba trường hợp đều khiến bạn hao mòn suy kiệt. Suy nghĩ “trở nên thoải mái” dần dần biến thành thờ ơ với tâm hồn và thể xác ở hiện thực. Nếu thử kiểm tra tâm hồn và thể xác khi tồn tại ảo giác: “Chắc chắn sẽ thoải mái”, “Kiểu gì cũng vui vẻ”, bạn sẽ hiểu, thực ra tất cả đều đớn đau.
Bạn sẽ dần nhận ra rằng, những suy nghĩ, phát ngôn, hành động theo sở thích thực ra không khiến bản thân thoải mái, mà ngược lại là khổ đau. Hãy kiểm tra cảm giác của cơ thể, chứ không phải trong suy nghĩ. Khi bừng tỉnh: “À, thực ra cái này làm mình khổ”, suy nghĩ, ngôn từ, hành động khó chịu sẽ bị khai trừ, cả tâm hồn và thể xác sẽ cùng nhẹ nhõm. Có thể nói, phương pháp “Trui rèn để tiêu biến khổ đau” là hành trình sử dụng ý chí để điều khiển mạch thần kinh sinh ra cảm giác khó chịu.
Nếu bạn đọc thấy tâm trí như bừng sáng: “Thầy à, đúng là em không ngờ được, thì ra ngay cả việc này cũng khiến em đau đầu”, coi đó là cơ hội để xoay bánh lái suy nghĩ về khổ đau, thì mục đích của cuốn sách này đã đạt được một nửa.
Cuốn sách này không nói về tôn giáo, cũng không phải về Phật giáo. Đây là cuốn sách giúp bạn lắng tai nghe Đức Phật, người thầy thời cổ đại, để từ đó, học hỏi, rút ra công cụ giúp ích cho cuộc sống nhân sinh. Bởi trên tất cả, lời răn của Đức Phật là chiếc bè, là công cụ giúp ta băng qua con sông mang tên khổ đau.
Vậy thì hãy cùng tôi vượt qua con sông này nhé. Trong quá trình ấy, ở mỗi mục có bốn ô truyện tranh dí dỏm được chị Suzuki Tomoko phác hoạ. Tôi nghĩ, khi xem chúng, bạn sẽ bật cười trong thoải mái đấy.
Mục lục:
Nhào nặn quan hệ nhân sinh
Vững tâm trước chỉ trích
Trở thành người lớn
Thước đo khoảng cách với gia đình
Tỏ bày lòng hiếu thuận 40
Để bạn đồng hành bình yên nơi tâm khảm
Phân biệt rõ ràng người bạn thật sự
Song hành cùng người tốt
Chống chọi với chia ly
Bảo vệ bản thân khỏi ác ma
Tĩnh lại tâm hồn nóng giận
Chỉnh đốn bản ngã
Chiến thắng bản thân
Không nói dối
Tích thiện nghiệp
Nếm trải cô độcNăng nổ
Chấp nhận không tự do
Sống trọn vẹn khoảnh khắc này
Thấu hiểu cái tôi nguyên thủy
Không mỹ hóa
Nhìn thấu cơ thể
Vứt bỏ bận tâm về vẻ ngoài
Hô hấp tĩnh
Nhìn thấu ảo giác của não bộ
Rời xa ý kiến
Vứt bỏ tự hào
Chuẩn bị cho cái chết
Trích đoạn sách:
Vững tâm trước chỉ trích
Khi con bị người đời nói xấu, chỉ cần tin tưởng rằng: “Nói xấu là đương nhiên thôi, nó vẫn không ngừng tiếp diễn từ thuở nguyên sơ rồi”.
Loài người chỉ trích người trầm mặc là “kẻ buồn tẻ”, chỉ trích người nói nhiều là “kẻ ồn ào”, thậm chí người nói chuyện nhẹ nhàng và vừa đủ sẽ vẫn bị khiển trách: “Chắc chắn có uẩn khúc bên trong”.
Dẫu ra sao đi nữa, con người sẽ nói xấu, kể cả phải cưỡng ép để tìm lý do. Nhân gian ít nhiều chính là thế.
Trong lịch sử, chưa từng tồn tại người không bị ai khác chỉ trích, dù chỉ một người, kể cả hiện tại và tương lai, chắc chắn sẽ không xuất hiện.
Khi bị người khác chỉ trích, tôi thường nhớ lại lời dạy này của Đức Phật.
Giả như nói chuyện với mười người, có thể mười người sẽ tán thành câu chuyện của tôi, nhưng nếu đối tượng trò chuyện tăng lên gấp đôi, 20 người, chắc chắn tỷ lệ người thấy khó chịu sẽ tăng.
Đặc biệt, khi trở thành bậc vĩ nhân giống như Đức Phật, vì danh xưng truyền tai đến nhiều người, sẽ có một bộ phận trong đó tán thưởng, nhưng một bộ phận khác thì phê bình thậm tệ. Những ví dụ về việc này được ghi chép rất nhiều trong kinh điển Phật giáo. Chắc chắn càng được nhiều người biết đến, thì càng nhiều người phản bác suy nghĩ của bạn.
Quá khứ, hiện tại hay tương lai, bất cứ nơi đâu trên thế gian này, tuyệt đối không tồn tại người không bị chỉ trích hay nói xấu sau lưng. Thời hiện đại, thông qua vô vàn công cụ trên Internet, có nhiều trường hợp, phát ngôn của bản thân hướng tới số lượng lớn con người không cụ thể đối tượng và vấp phải chỉ trích, đúng không?
Khi nhận lấy bình luận phản đối trên mạng, bị châm chọc về cách nghĩ mà bản thân luôn tin tưởng, bạn cảm thấy một cơn đau chạy dọc khắp cơ thể, bạn tức giận vì bị tổn thương, từ đó mất một khoảng thời gian chẳng thể tập trung vào việc khác.
Bởi vì, ở đâu đó trong trái tim chúng ta tồn tại ảo tưởng: “Người vĩ đại như mình mà lại bị phủ nhận thì đúng là kỳ quặc, nếu mọi người không công nhận thì mình sẽ không tha thứ”.
Có thể, nhiều con người hiện đại chủ trương dung hoà rằng: “Thực ra, mỗi người có một ý kiến riêng mà”, nhưng tận sâu trong trái tim, tư duy ấu trĩ “Biết là thế, nhưng cách nghĩ của mình là đúng nhất và chân thành nhất” sẽ mạnh hơn. Dẫu muốn hiểu theo tư duy đẹp đẽ “Mỗi người mỗi khác”, nhưng thực tế, sâu thẳm trong tâm hồn lại nghĩ điều hoàn toàn ngược lại. Việc này, đến bản thân người đó cũng không biết.
Ngoài thực tiễn, người không tán đồng với cách nhìn nhận của bản thân chắc chắn sẽ xuất hiện, từ đó chúng ta sẽ hứng chịu sự xung đột làm phá vỡ ảo tưởng thoải mái trong não bộ.
Nếu khó chịu thì bạn chỉ cần dứt khoát vứt bỏ sự phục tùng dành cho suy nghĩ ấy. Tuy nhiên, ở đâu đó trong tâm khảm bạn lại bập bùng ngọn lửa kỳ vọng: “Giá như không bị chỉ trích, giá như được tán dương thì tốt biết mấy”, từ đó khiến bản thân chẳng thể từ bỏ.
Nếu bận tâm, trọng lực sẽ dồn vào vai, khiến chúng ta căng thẳng.
Nếu không bận tâm, trọng lực sẽ được giải toả, chúng ta quay về một bản thân tự do tự tại như vốn dĩ.
Nếu bận tâm, những “người”, “vật”, và “hiện tượng” không đáp ứng được bận tâm ấy, tất thảy đều trở thành “kẻ địch”. Mỗi khi chạm trán kẻ địch, căng thẳng nảy sinh.
Nếu không bận tâm, “kẻ địch” trên nhân gian tiêu biến. Tâm hồn trong trẻo và an yên.
Nếu bận tâm, chúng ta sẽ bị bó buộc bởi suy nghĩ phục tùng, cả sở thích và tư duy đều bị đồng nhất hóa, đóng lại cánh cửa phát kiến khả năng mới.
Nếu không bận tâm, chúng ta không còn bị bó buộc, song hành cùng cảm giác tự do nhẹ bẫng nơi tâm khảm, mở ra cánh cửa tâm hồn hướng đến đổi thay chói lòa. Được rồi. Vậy thì, cho đến bây giờ, các bạn đã bước đi trên con đường nào trong hai con đường trên? Sau khi đọc xong cuốn sách này, liệu rằng các bạn sẽ muốn tiến bước trên con đường nào?
Khi tranh cãi, có lúc bạn khăng khăng ý kiến của bản thân, chỉ bận tâm đến điều mình đang khẳng định, để rồi sau đó nhìn lại, bạn hối hận mình đã phá hỏng một mối quan hệ thân hữu chỉ vì sự việc vặt vãnh ấy.
Dù là hành động gì đi nữa, tất cả đều chỉ là suy nghĩ ở hiện tại, sau này, khi thay đổi sở thích hay suy nghĩ, lúc đó bạn sẽ tự nhủ: “Tại sao mình lại thích cái đó nữa không biết?”
Nếu bạn phục tùng theo một chủ trương nào đó thì liệu rằng điều gì sẽ xảy ra? Đúng vậy, bạn sẽ “vui vẻ” khi tiếp xúc với người hay vật phù hợp với mối bận tâm của bản thân, và “khó chịu” khi tiếp xúc với người hay vật không phù hợp với mối bận tâm của mình. Cứ như thế, tâm hồn bị bóp méo.
Chẳng hạn, nếu bạn phục tùng phong cách sinh hoạt “thuận tự nhiên”, theo đuổi kiệt cùng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hay tái sử dụng, từ đó tâm hồn bạn cảm thấy “kỳ cục”, “sai trái” khi nhìn thấy phong cách sinh hoạt coi tính tiện lợi và giá thành rẻ là trên hết của người hiện đại, thì kết cục, bạn sẽ chỉ muốn nói lời càm ràm chỉ trích.
Tình trạng này xuất phát từ lý do rất đơn giản. Nếu tiếp xúc với hiện tượng đi ngược lại mối bận tâm, cả cơ thể sẽ cảm nhận sự khó chịu, rồi bị nó chi phối, từ đó nảy sinh ra suy nghĩ phủ định hay hành động và ngôn từ phê phán.
Việc coi tư tưởng nguyện cầu hòa bình và yêu thương động vật là “thiện” cũng tương tự. Mỗi khi đối đầu với hiện thực vẫn còn chiến tranh và nghèo đói, bạn sinh ra cảm giác khó chịu nơi cơ thể vì nó đi ngược lại mối bận tâm hướng đến “hòa bình” của bản thân. Chính vì sự khó chịu đó, bạn tức giận, gào thét, chỉ trích, công kích. Nói tóm lại, bạn biến hóa thành tư duy mang tính bạo lực, không còn hòa bình.
Quả thực, nếu nhìn, nghe, tiếp xúc với sự việc đồng nhất với mối bận tâm của bản thân, bạn sẽ cảm thấy “vui vẻ”, “thoải mái”. Nhưng thật đáng buồn, khoảng 90% hiện tượng trên thế gian này đều được tạo thành từ những sự việc đi ngược lại mối bận tâm của chúng ta.
Khi bận tâm ngày càng mạnh, mỗi khi tiếp xúc với mọi người xung quanh hay sự việc trên nhân gian, số lần và cường độ nếm trải cảm giác “khó chịu” nơi cơ thể càng có xu hướng khuếch đại.
Vậy mà, cho đến tận bây giờ, thế gian vẫn tồn tại lời khuyên: “Hãy bận tâm hơn nữa.”
Tuy nhiên, thử nghĩ sâu xa hơn, khi ai đó bắt đầu nỗ lực giải thích về những mối bận tâm của người đó, chúng ta thường chán ghét, điều này chẳng phải vốn dĩ do ta ngờ ngợ hiểu rằng bận tâm thực chất chỉ là vị kỷ một cách phiền phức hay sao?
Tôi thấy rằng, trong xã hội hiện đại, tính lưu động ngày càng cao, cá nhân này có thể dễ dàng thay đổi bằng cá nhân khác. Chính vì thế việc chứng tỏ mình khác biệt bằng cách bận tâm đến một vấn đề đặc thù nào đó, gào thét: “Tôi không dễ dàng bị thay thế”, đang là trào lưu.
Con đường mang tên Phật đạo lại hoàn toàn đi ngược lại trào lưu này. Phật đạo chỉ ra, càng khi buông lơi và vứt bỏ “bận tậm” thì con người mới càng hạnh phúc và đủ đầy.
Vậy thì rốt cuộc, bận tâm nghĩa là gì? Thực ra, bất kỳ mối bận tâm nào cũng vậy, việc lưu lại trong ký ức tâm trạng “thoải mái” sau khi cảm nhận “vui vẻ, hạnh phúc”, từ đó bị cuốn theo ước vọng muốn lặp lại “vui vẻ, hạnh phúc” kia, làm sinh ra bận tâm.
Nếu thấy “vui vẻ, hạnh phúc”, ước muốn lặp lại cảm giác đó sẽ sinh sôi, từ đó lựa chọn lối suy nghĩ, ý kiến, phong cách sinh hoạt để hiện thực hóa ước vọng của bản thân.
Nếu nhìn từ tâm thế Phật giáo, bận tâm đòi hỏi quá nhiều “thích thú”, giới hạn mạch suy nghĩ cảm nhận “thích thú”, khiến con người tiếp nhận những việc khác là “không hạnh phúc”, thậm chí là nguồn cơn của cảm giác “khó chịu.
Điều nhân loại chúng ta bận tâm nhất, thứ ta muốn tóm lấy bên trong “thích thú”, chính là: “Muốn trở thành bản thân lý tưởng, cảm giác trọn vẹn”. Nói cách khác là bận tâm đến bản ngã. Thế là, mỗi khi xảy ra sự việc khiến ta không thể là một bản thân đúng như lý tưởng, chúng ta có cảm giác “khó chịu” và khổ sở.
Tôi nguyện cầu cuốn sách này có thể trở thành sợi dây dẫn đường, giúp bạn thoát khỏi con ngõ cụt, để tận thưởng tâm hồn an nhiên không còn bận tâm trước sự đời biến hóa.
Để bạn nhẹ nhàng và thư thái: “Việc đó sao cũng được”.
Mục lục:
Không bận tâm có bạn hay không
Không bận tâm về việc khiến ta hạnh phúc
Không bận tậm về trẻ trung
Không bận tâm về cảm ơn
Không bận tâm về nơi ở
Không bận tâm bởi kỳ vọng của người khác
Không bận tâm về nơi bản thân trực thuộc
Không bận tâm về bình đẳng
Không bận tâm đến quy tắc
Không bận tâm đến ăn uống
Không bận tâm đến tang lễ
Không bận tâm về hân hoan hay khó chịu
Không bận tâm về bản sắc
Không bận tâm về tâm linh
Không bận tâm về xóa nhòa tự ngã
Không bận tâm về “nên làm”
[…]
Trích đoạn sách:
Không bận tâm về việc khiến ta hạnh phúc
Có nhiều sợi dây ràng buộc và cưỡng ép tâm hồn của chúng ta, cướp đi tự do của chúng ta, trong đó, một đại diện tiêu biểu chính là “việc khiến ta hạnh phúc”.
Tại sao lại là “việc khiến ta hạnh phúc”? Nếu tôi thay đổi cách nói thành “vinh quang của quá khứ”, có lẽ bạn sẽ cảm nhận rõ hơn.
Chẳng hạn, tháng trước, công việc quá thuận buồm xuôi gió. Hoặc là, bản thân từng rất nổi tiếng với người khác giới. Thành tích học tập của con rất tốt cho đến năm ngoái. Hay khoảng một năm đầu tiên khi hẹn hò với người yêu, người yêu coi bạn là sự tồn tại đáng để thương yêu nhất thế gian, được trân trọng hết mực. Bạn hạnh phúc vì những điều như vậy.
Những niềm hạnh phúc đa dạng như thế sinh sôi khi bản thân bị kích thích: “Mình được yêu thương đến nhường này, mình đúng là một sự tồn tại đẹp đẽ”.
Đức Phật đã giáo hóa, có lẽ tất cả sinh vật sống trên thế gian đều yêu thích bản thân nhất, không có ngoại lệ. Vì thế, chính khi cảm giác được cái tôi tài năng hay hấp dẫn thì mình sẽ thấm đẫm niềm vui sướng cấp cao nhất.
Bên trong trí óc lúc ấy, vật chất khoái cảm khiến tế bào thần kinh hưng phấn quá độ đang được bài tiết. Nhờ hiệu quả của vật chất ấy, chúng ta hạnh phúc trong nhất thời. Nhưng không may, hiệu quả của vật chất khoái cảm chẳng thể vượt quá một giờ, cuối cùng, niềm hạnh phúc dần tiêu biến, chỉ đơn giản là biến chuyển thành ký ức.
Tuy nhiên, bằng cách này, niềm vui được cất giữ bằng “ký ức” ràng buộc tâm hồn dưới tên gọi “vinh quang của quá khứ”.
Xu hướng chung là chúng ta thường dịu dàng hết mức có thể với đối tượng yêu đương khi mới hẹn hò, phải không nhỉ?
Một lý do là, khi chưa biết rõ, đối phương vẫn là một sự tồn tại chưa minh tường, ta có thể soi chiếu lý tưởng của bản thân lên đối phương, từ đó dễ ôm lấy ảo tưởng tuyệt vời, dễ đắm chìm vào cảm xúc “Yêu lắm!”, đúng không? Thứ hai, vì chưa thể cảm giác an tâm trọn vẹn rằng “Đã trở thành người của mình” nên muốn hành xử khéo léo để không bị ghét. Xu hướng này dễ phát triển theo hướng ngày càng mạnh lên.
Thế là, nếu thử nhìn từ một bản thân nguyên sơ vốn có, ta có thể biểu đạt tình cảm và sự dịu dàng vượt quá khung giới hạn của bản thân.
Khi có cuộc gọi bày tỏ tâm tình: “Em muốn gặp anh”, dẫu phải hủy dự định cá nhân, bạn vẫn đến gặp dù mất ba tiếng đồng hồ. Nếu là vì người bạn trai mình yêu thương, dẫu phải bận rộn chuẩn bị từ ngày hôm trước, bạn cũng dành ra khoảng thời gian tỉ mỉ để làm cơm hộp.
Bạn mỉm cười: “Em chừa lịch trống vào cuối tuần vì anh đấy”, để nếu bạn trai mời thì có thể hẹn hò ngay lập tức. Hoặc là bạn mang suy nghĩ: “Mình phải tiếp nhận người con gái này”, từ đó đón nhận những lời tâm sự không có điểm dừng, gắng gồng dốc toàn tâm ý lắng nghe cô ấy.
Bạn hoàn thành được trong bình thản những việc bình thường vốn không làm được. Về điểm này, có thể nói mối quan hệ yêu đương thực sự đã mở rộng khả năng của con người.
Tuy nhiên, nếu thử phân tích một cách khách quan nguồn năng lượng khi mới yêu, thì ta thấy năng lượng này bắt nguồn từ hai nguồn gốc: một là ảo tưởng dành cho đối phương chưa biết rõ và hai là muốn sở hữu trọn vẹn đối phương dù hiện tại chưa thể nắm bắt hoàn toàn.
Thế là, dần dà, thật không may, khi đã thấu hiểu lẫn nhau bằng cả tâm hồn và cơ thể, hoặc khi mối quan hệ giữa hai người đã ổn định trong tình trạng thuận lợi, hai yếu tố này buộc phải dần tiêu biến.
Kết quả là, rõ ràng trước đó có thể phát huy năng lượng tình yêu cuồng nhiệt đến mức bản thân còn không ngờ tới, nhưng khi ngày một quen thuộc và gần gũi hơn, năng lượng ấy suy tàn. Việc này ít nhiều sẽ xảy ra.
[...]
Với công việc kinh doanh, nếu bị chi phối bởi niềm hạnh phúc khi đạt thành tích tăng doanh thu đỉnh điểm của năm ngoái, bạn sẽ không thể tìm thấy hạnh phúc tăng doanh thu mức bình thường của năm nay, từ đó ngập ngụa trong bực tức. Kết cục, có lẽ bạn muốn nghỉ việc.
Hoặc là, trong quá trình nuôi dạy con cái, bạn bị chi phối bởi cảm giác mãn nguyện khi trước đó con của mình thực là một đứa trẻ ngoan, để rồi lúc con đột ngột bước vào thời kỳ khủng hoảng nổi loạn, bạn đánh mất sự bao dung nơi tâm hồn vốn luôn dõi theo và cư xử dịu dàng với đứa trẻ, bạn muốn xung đột với con bằng cơn tức giận: “Vì nó mà giá trị của mình bị hạ thấp”.
Nếu có thể hiểu rõ đạo lý này, bạn sẽ hiểu, khi sinh ra cảm giác hạnh phúc, hãy trân trọng chỉ khoảnh khắc đó thôi. Quan trọng là tuyệt đối không để nhuốm màu lên tâm hồn, hãy tiếp nhận với tư thế sau khi đã tận hưởng thì tương lai sẽ quên đi.
Nếu có cách nhìn như vậy thì bạn sẽ thấy hành động ghi vào nhật ký những ký ức vui vẻ để trân trọng đến suốt cuộc đời, đọc đi đọc lại, hay chụp ảnh, dán vào album, đăng tải lên website, sẽ chỉ khiến tâm hồn đeo bám hạnh phúc của quá khứ. Có thể nói đây là bóng ma độc địa khiến ta nhọc lòng về cuộc đời.
Nếu nhìn xa hơn, hành vi tự luyến bản ngã khi chìm vào tự mãn của “cái tôi từng cao cao tại thượng trong quá khứ” chính là đang chuẩn bị trói buộc chính mình. Nếu nói về con đường đi theo phương cách Phật đạo dành cho sự trói buộc này thì tất thảy nằm gọn trong một câu nói: “Chư hành vô thường”.
Nói cách khác là: “Phải, bây giờ, mình đang rất hạnh phúc. Nhưng mà tác dụng thần kinh khoái lạc này tuyệt nhiên sẽ ngay lập tức biến mất, sẽ nhanh chóng chìm vào quá khứ. Mình không nên bận lòng, cũng không muốn nhuốm sắc màu ấy lên tâm hồn”.
Toàn bộ năng lượng nơi tâm hồn đều “vô thường”, tức là không cố định mà liên tục thay đổi. Hãy luôn khắc ghi thành kim chỉ nam rằng dẫu cơn sóng hạnh phúc xô vào bến bờ tâm hồn mạnh bao nhiêu đi nữa thì cứ để cho niềm vui ấy trôi qua trong khi vừa thì thầm trong tâm khảm: “À, cái này rồi cũng sẽ qua thôi, chư hành vô thường mà”.
Không phải ta cự tuyệt hay phủ định niềm vui ấy, chỉ là ta tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc đó, không phục tùng. Để nhắc nhở mình, bạn có thể thì thầm những câu nói sau:
“Hạnh phúc này rồi cũng sẽ trôi về quá khứ”, “Cái này rồi cũng sẽ biến mất thôi”, “Cái này, cũng chỉ có ở hiện tại”, v.v. Hoặc chỉ đơn giản tâm niệm “Chư hành vô thường, chư hành vô thường” ngay chính khoảnh khắc tận hưởng niềm vui.
Bằng cách này, bạn có thể ngăn chặn cảm giác hạnh phúc nhuốm màu trái tim, tránh việc hạ độc tâm hồn để rồi lại ao ước được tận hưởng hết lần này đến lần khác hạnh phúc trong hiện thực. Trên đây là lời gợi ý về cách gắn kết khéo léo giúp bạn cân bằng cảm giác hạnh phúc nơi tâm hồn.
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là một ca đặc biệt trong Đế chế Pháp. Việt Nam tiền thuộc địa đã có sẵn một hệ thống đào tạo quan bảng, khoa cử lấy khuôn mẫu từ chế độ khoa bảng Nho giáo. Cuối thế kỷ 19, chế độ khoa bảng này mất dần vị trí độc tôn vì khả năng kém thích nghi trước thời cuộc. Chỉ còn tinh thần hiếu học vốn là bản sắc văn hóa Việt vẫn được coi trọng, vì học hành là con đường tiến thân để thành đạt. Người Pháp đã biết cách đặt thuộc tính văn hóa Việt này vào hệ thống giáo dục thuộc địa tại Đông Dương, vốn được coi là một hệ thống đầy đủ và kiện toàn nhất trong tất cả các xứ thuộc địa của Pháp.
Ở những thập niên đầu của thế kỷ 20, tầng lớp tinh hoa Đông Dương kiểu mới được đào tạo trong nhà trường Pháp, tha thiết với quá trình hiện đại hóa, đã bắt đầu tìm cách tận dụng những lợi ích của “sứ mạng khai hóa”. Họ đòi hỏi cho con cái họ được học lên bậc trung và đại học, thậm chí trong những ngôi trường trung học danh giá vốn chỉ dành cho học sinh Pháp. Trường Pháp có tiếp nhận con cái họ nhưng học phí đắt đỏ và đầu ra thì hiếm hoi và bạc bẽo. Hễ khi tình hình chính trị căng thẳng, chính quyền lập tức thít chặt đầu vào ở các trường bên Pháp, chẳng hạn như hạn chế đưa sinh viên Đông Dương sang Pháp trong những năm 1930. Những ai du học ở Pháp trở về đều chung một suy nghĩ rằng, những giá trị đang thịnh hành ở chính quốc đều bị mất giá trên chính xứ sở của họ. Vì không còn đủ kiên nhẫn về một cuộc cải tổ thuộc địa giản đơn nên trong cuộc đấu tranh, họ huy động và vận dụng những kỹ năng và kiến thúc tiếp thu được từ nhà trường Pháp. Tuy nhiên, cùng lúc đó, giáo dục Pháp vẫn “chinh phục” được giới tinh hoa người Việt, Lào và Campuchia. Ngay cả khi ảnh hưởng chính trị và quân sự của Pháp suy yếu từ những năm 1940 trở đi thì tầng lớp này vẫn tiếp tục
gửi con em họ đến học ở những trường trung học Pháp.
Trích dẫn:
“Nước Pháp đang khó nhọc thiết lập một hệ thống giáo dục tại Đông Dương. Quá trình này có những điểm tích cực sau. Duy trì trường dạy chữ Hán tránh được xung đột tư tưởng với giới tinh hoa Hán học. Trường Pháp-bản xứ phổ cập chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Chương trình học được hiện đại hóa và được quần chúng tiếp nhận tích cực, khiến cho Henri Russier, Thanh tra giáo dục tại Nam kỳ, kỳ vọng ‘nó giống như sự chuyển mình tỉnh giấc sau giấc ngủ ngàn năm.’”
“Hai mô hình chủ đạo của nền giáo dục thuộc địa, hợp tác và đồng hóa, đối đầu nhau ở Đông Dương ngay từ cuối thế kỷ 19. Cuộc tranh luận này bắt đầu nổ ra với thuộc địa Algéria, nhưng Việt Nam tiền thuộc địa đã gây dựng và phát triển nền giáo dục khoa bảng trong ngàn năm mà nhà cầm quyền Pháp không thể lờ đi. Hai mô hình này không tiệt trừ nhau vì những tư tưởng thuộc địa và các chính sách áp dụng lên Đông Dương đều viện dẫn lúc thì mô hình này lúc lại mô hình kia, và nhất là chúng được thích nghi tùy vào thời cuộc và thực tế.”
Về tác giả:
Tiến sỹ Giáo dục học (Đại học Paris Descartes, 2013) chuyên về lịch sử giải thực dân văn hóa, giáo dục thuộc địa và hậu thuộc địa.
Phó Giám đốc Mạng lưới Giáo dục (EduNet), Trưởng BTC Vietnam Education Symposium, thuộc Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam Toàn cầu (AVSE Global).
Chuyên gia tư vấn, thẩm định và hợp tác các dự án trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Pháp (Cnesco, AgroParisTech, France Education International...).
Trẻ em có sự tự do chân thực. Các em vui tươi, thích nô đùa và sáng tạo một cách tự nhiên. Nhưng khi lớn lên, hầu hết các em đều hiến mình cho những vị thánh mang tên “năng suất” và “hành vi đúng mực” chỉ để rồi phải luyến tiếc những tháng ngày thơ ấu. Osho nói: “Trải nghiệm thời thơ ấu ám ảnh những người thông minh suốt cả cuộc đời. Họ muốn có nó một lần nữa - sự ngây thơ đó, điều kỳ diệu đó, vẻ đẹp đó”. Và dù cho thế hệ người lớn nào cũng thề thốt, với những ý định tốt đẹp nhất, rằng sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm của quá khứ, họ lại luôn áp đặt lên thế hệ kế cận những hạn chế mà chính mình đã thừa hưởng.
Cuốn sách “Ươm mầm” phát động một “phong trào giải phóng trẻ em” nhằm phá vỡ những khuôn mẫu cũ kỹ và tạo cơ hội cho một phương thức liên kết loài người hoàn toàn mới. Nó sẽ hướng dẫn người lớn nhận thức tình trạng bị áp đặt của chính mình khi liên hệ với trẻ em. Và với nhận thức ấy, họ sẽ biết được khi nào cần nuôi nấng và bảo vệ, khi nào cần đứng tránh sang một bên để trẻ em có thể bộc lộ những tiềm năng lớn nhất và đạt được hạnh phúc cao nhất.
------------------------
Thế kỷ XX đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ làm nền tảng thúc đẩy sự phát triển của nhân loại trên nhiều phương diện. Đây cũng là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế đã phát triển như một “thế giới phẳng” mà ở đó, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có thể tồn tại và phát triển khi tách rời hệ thống.
Cùng với sự phát triển trên phương diện vật chất, nhân loại cũng chứng kiến sự nở rộ của hệ các tư tưởng, giá trị mang tính hiện sinh, hướng đến phát triển con người mới, xã hội mới trên cơ sở khai thác những giá trị cốt lõi, bản chất tự thân bên trong mỗi con người. Đại diện cho dòng tư tưởng này có thể kế đến như: Osho, Gurdjieff, J. Krishnamurti... Trong đó, Osho – nhà triết học, bậc thầy tâm linh người Ấn Độ là nhân vật có nhiều tư tưởng gây nên những tranh luận, ý kiến khác nhau tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã đến nhiều quốc gia, thuyết giảng nhiều vấn đề lớn. Trong các bài thuyết giảng, ông đặt ra trọng tâm vấn đề phát triển tâm thức của từng người ngay trong thực tế cuộc sống đời thường; hướng đến sống có ý thức trong mọi suy nghĩ, hành động, tư tưởng, tình cảm mà không bị lệ thuộc, ràng buộc bởi những nguyên tắc, định kiến xã hội... Ở Osho, chúng ta nhận thấy tư tưởng của ông có phần cực đoan khi quá đề cao cái tôi tự thân, mà phê phán các nguyên tắc, lễ giáo, phong tục – vốn vẫn là một trong những yếu tố góp phần ổn định trật tự xã hội từ bao đời nay. Tuy nhiên, hiện nay con người đang có tầm mức trí tuệ ngày càng hiện đại, lại quá tập trung vào những vấn đề cuộc sống vật chất mà gần như lãng quên việc phải tìm hiểu tâm thức bên trong, thì việc mỗi người quay lại “thức tỉnh thân tâm” để có cái nhìn toàn diện, thấu hiểu quy luật phát triển và hành động theo quy luật đó mà không bị chi phối bởi những ham muốn, những thúc giục của thói ích kỉ cá nhân là điều rất cần thiết. Và để đạt được điều đó, theo Osho không còn con đường nào hơn là mỗi người phải tự quan sát, tỉnh táo chứng kiến và suy ngẫm tất cả mọi việc từ nhiều phía để có cách ứng xử phù hợp.
Tuy nhiên, những bài thuyết giảng của Osho trong một thời gian dài đã hứng chịu nhiều chỉ trích, lên án, thậm chí bản thân ông bị ngăn cấm, trục xuất, bởi lẽ những tư tưởng của ông không phải ai cũng có thể hiểu và đồng tình, chấp nhận trong một sớm một chiều. Vì vậy, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi vẫn còn đâu đó những đánh giá, chê bai, công kích Osho dưới những góc nhìn khác nhau. Song ở đây, chúng tôi mong rằng khi tiếp cận với tư tưởng của ông, mỗi chúng ta cần có một cái nhìn khách quan trên tinh thần học thuật vô tư, trong sáng, có sự phân tích, suy ngẫm, tự đúc rút và chắt lọc cho mình những ý nghĩa giá trị phù hợp với bản thân, văn hóa, xã hội nơi mình đang sống.
Trên tinh thần đó, Công ty Cổ phần sách Thái Hà phối hợp với Nhà xuất bản Hà Nội gửi đến độc giả một số ấn phẩm của Osho có tựa đề: Đạo, Thiền, Tantra, Đức Phật, Upanishad, Đàn ông, Phụ nữ, Ươm mầm... Các ấn phẩm là tập hợp những bài thuyết giảng, đối thoại của Osho được tập hợp, sắp xếp dịch theo các chủ đề khác nhau. Chúng tôi hy vọng, thông qua những ấn phẩm này, độc giả hiểu hơn về Osho, về tư tưởng của ông và tìm thấy cho mình những suy ngẫm và cách ứng xử phù hợp, để nâng cao giá trị bản thân và góp phần làm nên những điều tốt đẹp cho xã hội mình đang sống.
Mục lục:
Lời ngỏ............................................................. 7
Tóm lược ........................................................ 11
Những phẩm chất của trẻ em ..........................13
Thích vui đùa ..........................................................14
Thông minh .............................................................16
Ngây thơ.................................................................20
Mang thai, sinh nở, thơ ấu ............................. 33
Áp đặt ............................................................ 63
Nuôi nấng một đứa trẻ mới ............................ 85
Những chu kỳ bảy năm của cuộc đời ................. 100
Lời khuyên cho các bậc cha mẹ ..................... 127
Thanh thiếu niên ..........................................167
Giáo dục ...................................................... 201
Học là gì? ............................................................. 201
Giáo dục năm chiều ............................................. 222
Hòa giải với bố mẹ ........................................261
Thiền ........................................................... 285
Các kiểu thiền .............................................. 299
Thiền lảm nhảm .................................................. 299
Thiền dành cho trẻ em từ 12 tuổi trở xuống .......302
Thiền dành cho trẻ em trên 12 tuổi .....................303
Quay trở lại tử cung ............................................ 303
Cảm nhận sự tĩnh lặng của tử cung ...................304
Đi từ tiêu cực đến tích cực ................................... 305
Thiền cười ............................................................ 307
Giải tỏa căng thẳng trên khuôn mặt ..................308
Chuyển từ khối óc sang trái tim .........................309
Thư giãn ............................................................... 310
Tìm lại thiên đường ......................................313
Trích đoạn sách:
NUÔI NẤNG MỘT ĐỨA TRẺ MỚI
Nếu bạn nhìn khuôn mặt của những em bé vừa chào đời, tràn đầy tươi mới, sự tươi mới đến từ chính khởi nguồn sự sống, bạn sẽ thấy sự hiện diện nhất định của một điều gì đó không thể gọi tên, không thể định nghĩa.
Đứa bé tràn đầy sức sống. Bạn không thể định nghĩa sức sống này nhưng nó ở đó, bạn có thể cảm thấy nó. Nó dồi dào đến nỗi dù mù lòa đến đâu, bạn cũng không thể không thấy nó được. Nó thật tươi mới. Bạn có thể ngửi thấy sự tươi mới quanh một đứa trẻ. Mùi hương ấy dần dần, từ từ biến mất. Đứa bé đã đến thế giới này với một mùi hương ngào ngạt, không thể đong đếm được, không thể định nghĩa được, không thể gọi tên được. Hãy nhìn vào đôi mắt trẻ thơ – không ai có thể thấy thứ gì sâu hơn thế. Đôi mắt trẻ thơ là một vực sâu thăm thẳm. Khi trẻ dần dần lớn lên, đôi mắt ấy sẽ bị các lớp màng che phủ, đó là tầng tầng lớp lớp áp đặt, sự sâu sắc ấy, sự sâu sắc đến vô cùng ấy hẳn đã biến mất từ lâu. Và đó là khuôn mặt nguyên bản của trẻ.
Đứa trẻ không có suy nghĩ. Trẻ có thể nghĩ về cái gì được đây? Việc suy nghĩ đòi hỏi phải có một quá khứ, việc suy nghĩ đòi hỏi phải có những vấn đề. Trẻ không có quá khứ, trẻ chỉ có tương lai. Trẻ chưa gặp phải vấn đề gì cả, trẻ đang không có vấn đề gì hết. Trẻ không thể suy nghĩ vào lúc này.
Trẻ có thể nghĩ về cái gì được chứ? Trẻ có nhận thức nhưng không có suy nghĩ. Đó là khuôn mặt nguyên bản của trẻ.
Đó cũng là khuôn mặt của bạn và mặc dù bạn đã quên mất nó, nó vẫn ở đó, bên trong bạn, chờ đợi đến một ngày nào đó bạn sẽ tái khám phá nó. Tôi nói là tái khám phá vì bạn từng khám phá nó rất nhiều lần trong những kiếp trước và hết lần này đến lần khác, bạn cứ quên mất nó.
Thậm chí trong kiếp này, có những khoảnh khắc mà bạn đã đến rất gần, sắp nhận ra được nó, cảm nhận được nó, trở thành nó. Nhưng thế giới này có quá nhiều điều tác động lên chúng ta. Lực kéo của nó thật đáng sợ và thế giới đang kéo bạn đi một nghìn lẻ một hướng khác nhau. Nó đang kéo bạn đi nhiều hướng đến nỗi bạn đang vỡ tan thành từng mảnh. Việc người ta xoay xở để giữ cho bản thân mình toàn vẹn đúng là một phép màu. Nếu không, bàn tay này sẽ đi về phía Bắc, bàn tay kia đi về phía Nam, cái đầu hẳn là hướng lên thiên đường, tất cả những mảnh cơ thể sẽ bay đi khắp chốn. Chắc chắn phải có phép màu thì bạn mới có thể tiếp tục giữ cho bản thân mình toàn vẹn. Có lẽ áp lực từ mọi phía là quá lớn nên bàn tay, bàn chân và đầu óc bạn không thể bay đi nổi. Bạn đang bị ép từ mọi phía.
Thậm chí, nếu có cơ hội gặp được khuôn mặt nguyên bản của mình, bạn sẽ không thể nhận ra nó, nó sẽ như một người xa lạ. Có lẽ bạn đã từng đi ngang qua nó một lần nào đó, hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng bạn thậm chí không cất được tiếng chào! Đó là một người lạ và có thể, nơi sâu thẳm trong lòng bạn luôn có một nỗi sợ hãi nhất định dành cho một người xa lạ.
Bạn đang hỏi làm thế nào chúng ta có thể giữ lại được khuôn mặt nguyên bản của con cái mình. Bạn không phải làm gì trực tiếp cả; bất cứ việc gì làm một cách trực tiếp cũng sẽ trở thành sự quấy rầy. Bạn phải học nghệ thuật không làm gì cả.
Đó là một nghệ thuật rất khó. Không phải là để bảo vệ hay giữ gìn khuôn mặt nguyên bản của trẻ mà bạn phải làm gì đó. Bất cứ việc gì bạn làm cũng sẽ gây xáo trộn khuôn mặt nguyên bản. Bạn phải học cách không làm gì cả; bạn phải học cách đứng sang một bên, không can thiệp vào trẻ. Bạn phải rất can đảm vì việc để trẻ một mình ẩn chứa nhiều rủi ro.
Trong suốt hàng nghìn năm, người ta đã bảo chúng ta rằng nếu để trẻ em một mình, chúng sẽ trở thành người rừng. Hoàn toàn không phải vậy. Tôi đang ngồi trước mặt bạn – bạn có nghĩ tôi là người rừng không? Và trước giờ, tôi đã sống mà không bị bố mẹ can thiệp. Đúng, có rất nhiều rắc rối đến với bố mẹ tôi và cũng sẽ có nhiều rắc rối đến với bạn, nhưng nó xứng đáng. Khuôn mặt nguyên bản của đứa trẻ giá trị đến mức bất cứ rắc rối nào cũng là xứng đáng. Nó đáng giá đến mức vì nó, dù bạn có phải trả giá nào đi nữa thì vẫn rẻ; bạn đang chẳng mất gì mà vẫn có được nó. Và niềm vui vào cái ngày mà bạn thấy con vẫn còn khuôn mặt nguyên bản, vẫn còn vẻ đẹp mà con đã mang tới thế giới này, vẫn còn sự ngây thơ, vẫn còn sự trong trẻo, vẫn còn sự vui nhộn, hào hứng, vẫn sức sống tràn trề… Bạn còn hy vọng điều gì hơn thế nữa?
Bạn không thể cho con gì cả, bạn chỉ có thể lấy đi mà thôi. Nếu bạn thật sự muốn trao cho con một món quà, món quà duy nhất có thể trao chính là: Đừng can thiệp. Hãy chấp nhận rủi ro và để cho con đi tới mảnh đất chưa ai biết tới, chưa ai đặt chân tới.
Đó là một việc khó khăn. Một nỗi sợ hãi lớn lao bao trùm lên các bậc cha mẹ: Ai mà biết được điều gì sẽ xảy ra với trẻ? Từ nỗi sợ hãi ấy, họ bắt đầu nhào nặn một mô hình cuộc đời nhất định cho đứa trẻ. Từ nỗi sợ hãi ấy, họ bắt đầu hướng trẻ đến một con đường cụ thể, tới một mục tiêu cụ thể nhưng họ không biết rằng vì nỗi sợ hãi ấy, họ đang làm ảnh hưởng đến trẻ.
Sigmund Freud có một quan điểm rất sâu sắc về vấn đề này. Ông nói: “Nền văn hóa nào cũng tôn kính người cha. Không có nền văn hóa nào đang tồn tại, hoặc từng tồn tại, mà không ca ngợi, tuyên truyền ý tưởng phải kính trọng người cha. Sự tôn trọng dành cho người cha phát sinh vì khi ngược dòng thời gian về thời tiền sử, chắc hẳn người cha từng bị chính những đứa con của mình giết hại chỉ để thoát khỏi sự kìm kẹp.”
Một ý tưởng kỳ lạ nhưng rất quan trọng. Ông ta nói rằng sự tôn trọng được dành cho người cha là xuất phát từ cảm giác tội lỗi và mặc cảm tội lỗi ấy đã được truyền qua hàng nghìn năm. Ở nơi nào đó… đây không phải là một sự thật lịch sử mà là một bí ẩn rất ý nghĩa, những người trẻ hẳn đã phải giết cha mình rồi cảm thấy hối hận – đương nhiên rồi, vì đó là cha họ. Nhưng ông ấy đã khiến họ đi theo con đường sống mà họ không hạnh phúc. Họ giết cha nhưng rồi họ hối hận. Rồi họ bắt đầu thờ phụng linh hồn của các bậc tổ tiên, các bậc ông cha vì sợ hãi rằng những con ma của các bậc tiền bối ấy có thể sẽ trả thù. Và rồi dần dần, từ từ, việc thể hiện lòng tôn kính với các bậc lão thành trở thành một tục lệ. Nhưng tại sao?
Tôi muốn bạn hãy tôn trọng con trẻ. Trẻ em xứng đáng hưởng tất cả sự tôn trọng mà bạn có vì chúng thật tươi mới, thật ngây thơ, thật thánh thiện. Đã đến lúc thể hiện sự tôn trọng trẻ em thay vì buộc chúng phải tôn kính những người không xứng đáng chỉ vì họ lớn tuổi hơn. Tôi muốn đảo ngược mọi thứ lại: tôn trọng trẻ em vì chúng gần với nguồn cội; bạn thì đang ở rất xa. Chúng vẫn còn là nguyên bản còn bạn thì đã là một bản sao. Và bạn có hiểu việc bạn tôn trọng trẻ em ấy có tác dụng gì không? Nhờ tình yêu và lòng kính trọng, bạn có thể cứu chúng khỏi việc đi lầm đường lạc hướng, không phải vì sợ hãi mà vì bạn tôn trọng và yêu thương chúng.
“Khenchen Thrangu Rinpoche công nhận những giáo lý này cứu sống cuộc đời Ngài. Những giáo lý này cũng có thể giúp đỡ cuộc đời bạn - mang lại cho bạn những công cụ để ổn định tâm ngay trong những hoàn cảnh thách thức và đáng sợ nhất.” − Pema Chodron.
ĐÂY LÀ BẢN CHẤT của sự sống mà chúng ta gặp phải trong nhiều tình huống khác nhau. Đôi khi, mọi thứ diễn ra tốt đẹp trong một thời gian. Đôi khi không, và chúng ta cảm thấy không thỏa mãn, đau khổ hay thậm chí là cùng quẫn. Đôi khi, mọi thứ có vẻ tốt đẹp bên ngoài, nhưng chúng ta vẫn không thể tìm thấy hạnh phúc và sự thoải mái lâu dài từ bên trong. Đó chính là bản chất của samsara (sinh tử luân hồi), và việc ta muốn tìm giải thoát là chuyện tự nhiên.
Đây là lý do tại sao Đức Phật dạy Pháp nói chung, và cụ thể tại sao Ngài dạy những chỉ dẫn về tâm - những chỉ dẫn làm thế nào để ngừng chú ý ra bên ngoài, tới tất cả những điều đã khiến ta xao lãng, khơi gợi những phản ứng tiêu cực, và thay vào đó ta nhìn vào tính giác sống động và sáng tỏ bên trong, đây là bản tính của tâm chúng ta. Những chỉ dẫn này được truyền từ thầy xuống đệ tử trong nhiều truyền thống Phật giáo, bao gồm cả Đại Ấn và Đại Toàn Thiện, và đôi lúc, có một vị thầy sẽ chỉnh sửa những chỉ dẫn phù hợp với thời điểm và hoàn cảnh của riêng mình. Một bậc thầy như là Khenpo Gangshar Wangpo, người sinh vào giữa những năm 1950 đã thấy trước những khó khăn sẽ đến với Tây Tạng và biết rằng Người phải truyền dạy những chỉ dẫn này nhằm giúp đỡ những người sẽ sớm ngập chìm trong biến loạn. Một trong những người đó là Khenchen Thrangu Rinpoche.
Thrangu Rinpoche đã gặp Khenpo Gangshar vào mùa hè năm 1957 khi Khenpo Gangshar tới Tu viện Thrangu ở miền đông Tây Tạng. Trong thời gian ở đó, Khenpo Gangshar đã truyền dạy những chỉ dẫn này. Đây là tinh túy của những điểm cốt lõi trong những thực hành của cả Đại Ấn và Đại Toàn Thiện. Sau này, chúng được viết ra, đầu tiên là dưới dạng văn bản ngắn, sau đó thì dài hơn, với tên gọi là: “Giải Thoát Một Cách Tự Nhiên Bất Cứ Điều Gì Con Gặp”. Điều khiến chúng có ích trong thời đại của chúng ta là Khenpo Gangshar đã trình bày theo một cách dễ hiểu với bất kỳ ai và họ có thể đưa vào thực hành. Mặc dù những bậc thầy vĩ đại, bao gồm cả Chogyam Trungpa Rinpoche và Tulku Urgyen Rinpoche, đều là học trò của Khenpo Gangshar, chỉ còn lại một số ít những vị thầy còn sống, những người đã được nghe Khenpo Gangshar trao truyền trực tiếp những chỉ dẫn này bằng giọng của chính Ngài. Điều đó khiến cho những lời dạy của Thangru Rinpoche trở nên đặc biệt quý báu: chúng là mối liên kết trực tiếp và sống động giữa chúng ta với một vị thầy năng động, mạnh mẽ, mà những lời dạy của Ngài đã làm lợi ích vô số người trong những thời gian khó khăn ở Tây Tạng và hơn thế nữa.
Vào năm 2007, Khenchen Thrangu Rinpoche đã dạy những chỉ dẫn về tâm của Khenpo Gangshar trong bốn dịp khác nhau. Mặc dù trước đây, Ngài không thường xuyên giảng dạy về chúng và nói rằng đây là những giáo lý quan trọng nhất mà Ngài đã thọ nhận trong cuộc đờimình. Chúng là những gì hữu ích nhất cho Ngài trong nhiều giai đoạn phải đối mặt với những khó khăn lớn nhất, và Rinpoche đã trình bày cách để chúng có thể giúp ích cho bất kỳ ai trong cả những thời điểm tốt hay xấu. Điều toả sáng xuyên suốt tất cả những giáo lý này là lòng tin sâu sắc của Rinpoche vào hiệu quả của những chỉ dẫn này cũng như lòng sùng mộ của Ngài đối với Khenpo Gangshar.
Mỗi lần Rinpoche truyền dạy, Ngài nhấn mạnh những điểm khác nhau và trích dẫn từ nhiều nguồn, không chỉ để giảng giải về những chỉ dẫn mà còn để cho thấy chúng có liên hệ như thế nào tới các lĩnh vực khác trong những quan điểm và phương pháp thực hành Phật giáo.
Cuốn sách “Tính giác sống động” kết hợp tất cả những lời dạy của Ngài thành một bài trình bày kỹ lưỡng và đầy đủ. Nó bắt đầu bằng mô tả của Rinpoche về lịch sử và những hoàn cảnh mà Khenpo Gangshar đã truyền giảng, và sau đó, đi qua tất cả các điểm mà Khenpo đã chỉ dẫn, bao gồm những bước thực hành sơ bộ chung mà chúng ta làm theo để chuẩn bị bản thân, những thực hành sơ bộ cụ thể để điều tra xem tâm là gì, những thực hành chính - an nghỉ trong bản tính của tâm, và những chỉ dẫn xuyên suốt trong việc đưa tất cả những hoàn cảnh khác nhau mà chúng ta gặp trong đời sống của mình vào con đường để có thể trưởng dưỡng cái thấy về bản tính của tâm và không bị choáng ngợp với những hoàn cảnh nhất thời trong đời sống cũng như cái chết của chúng ta. Dựa vào những lĩnh vực khác nhau của triết học Phật giáo, những trích dẫn từ trí nhớ và từ những bậc thầy vĩ đại và các văn bản (điều này có thể dẫn đến những khó khăn trong việc tìm lại nguồn cho từng trích dẫn), Rinpoche giải thích mọi thứ một cách rõ ràng và giản dị để những chỉ dẫn này đem lại lợi lạc cho cả những học trò cũ và mới.
Mục lục:
Giới thiệu sách............................................................................. 7
Lời nói đầu .................................................................................. 9
Giới thiệu của dịch giả.............................................................. 13
Dẫn nhập................................................................................... 19
PHẦN MỘT: Những lời khuyên hữu dụng trong những thời điểm tốt và xấu
1. Những lời sấm truyền của miền đất bí mật ..................... 25
2. Biết rõ may mắn của bản thân ........................................... 53
3. Những thực hành sơ bộ chung .......................................... 71
PHẦN HAI: Thiền phân tích của một học giả (Pandita)
4. Nền tảng nghiệp, nguyên nhân và kết quả ....................... 97
5. Tầm quan trọng của tâm...................................................127
6. Những hiện tướng và tâm ................................................155
7. Nhìn thẳng vào tâm...........................................................183
8. Tóm tắt thiền phân tích của một học giả........................207
PHẦN BA: Thiền an nghỉ của một Kusulu (kẻ khờ)
9. Lòng sùng mộ và tính ổn định.........................................215
10. Đi thẳng vào thiền định....................................................229
11. Những lợi ích của thiền định của kẻ khờ Kusulu..........249
12. Phân biệt giữa tâm và tính giác........................................285
PHẦN BỐN: Thực thi trong đời sống của chúng ta
13. Lấy những hoàn cảnh trong đời sống của chúng ta làm con đường.......................309
14. Lấy vui và buồn làm con đường.......................................319
15. Lấy đau đớn và bệnh tật làm con đường ........................325
16. Lấy những phiền não và cảm xúc làm con đường.........331
17. Lấy trung ấm (Bardo) làm con đường ............................361
18. Lời kết..................................................................................381
Phụ lục: Những bản văn của Khenpo Gangshar
Những chỉ dẫn tâm ngắn gọn được gọi là giải thoát một cách tự nhiên bất cứ điều gì con gặp..............................................391
“Giải thoát một cách tự nhiên bất cứ điều gì con gặp: Những chỉ dẫn dìu dắt con trên con đường uyên thâm” ........................... 395
Trích đoạn sách:
ĐIỂM QUAN TRỌNG LÀ tâm là chính yếu, nhưng chúng ta có thể dễ dàng kiểm soát nó. Dễ dàng biết rõ bản tính của nó. Và do đó, chúng ta vô cùng may mắn. Đây là lý do tại sao trong những thực hành Kim Cương Thừa (Vajrayana) nói chung, và trong Đại Ấn (Mahamudra) và Đại Toàn Thiện (Dzogchen) nói riêng, chúng ta nhấn mạnh vào tâm và thiền định về nó. Khi Khenpo Gangshar giảng dạy rằng tâm là quan trọng nhất, nguồn gốc cho chỉ dẫn này là Longchen Rabjam, một đạo sư vĩ đại cùng thời với Đức Đại Bảo Pháp Vương Thứ III - Karmapa Rangjung Dorje. Khenpo Gangshar trích hai đoạn từ Longchenpa. Đoạn đầu viết:
Đấng Toàn Tri Vĩ Đại đã nói:
Khi dưới ảnh hưởng của cà độc dược,
Tất cả những kinh nghiệm khác nhau mà con có, bất kể chúng có thể là gì,
Tất cả, trong thực tế, là những ảo hóa, không hiện hữu.
Tương tự như vậy, hãy hiểu rằng dưới tác động của một tâm mê lầm
Tất cả những kinh nghiệm sai lầm của chúng sinh trong sáu cõi, bất kể chúng là gì,
Tất cả đều là những hình ảnh trống không, không tồn tại nhưng biểu hiện.
Đấng Toàn Tri Vĩ Đại là một tên gọi của Longchen Rabjam. Ngài đã viết một số lượng lớn các chuyên luận có ích và mở rộng. Những chuyên luận uyên thâm nhất được gom lại trong bản văn gọi là “Bảy Chuyên Luận Của Longchenpa”. Điều mà Longchenpa mô tả về cách mọi thứ biểu hiện với chúng ta là: nhiều thứ khác nhau biểu hiện với chúng ta, nhưng mặc dù chúng biểu hiện, vốn dĩ chúng không có thật. Đây là điều mà chúng ta gọi là tính Không trong những luận về trí huệ siêu việt và Trung Đạo. Mặc dù mọi thứ không thật sự tồn tại, chúng biểu hiện cứng chắc trong nhận thức tương đối và mê lầm của chúng ta. Lý do chúng là những hiện tướng mê lầm là vì chúng giống như là những ảo giác mà một người nhìn thấy sau khi ăn cà độc dược (một loại cây tạo ảo giác còn được gọi là táo gai). Khi con ăn cà độc dược, con sẽ nhìn thấy nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau, hoặc nghe nhiều âm thanh khác nhau.
Con có thể cảm thấy ngây ngất, hoặc con có thể cảm thấy suy sụp. Nhưng tất cả những kinh nghiệm mà con có trong khi đang phấn khích do bởi chất gây ảo giác này thật ra là những hình ảnh sai lầm. Chúng biểu hiện với con, nhưng chúng không tồn tại theo bất kỳ cách nào. Đây là một ví dụ.
Ý nghĩa của ví dụ này là nó cũng giống như chúng ta bây giờ. Cũng y như thể là chúng ta vừa sử dụng chất gây ảo giác, bất kỳ vui buồn nào mà chúng ta nhìn thấy đều là những hiện tướng sinh tử mê lầm của tâm. Thậm chí khi không bị nhiễm độc, mọi thứ chúng ta nhận thức trong đời sống này đều đến từ sự vô minh. Vô minh sinh khởi từ năng lực của Nghiệp. Bất kể là chúng ta có cái thấy của con người hay thú vật, bất kể là chúng ta nhận thức những hiện tướng của đất, nước, lửa, hay gió, bất kể những hiện tướng chúng ta thấy đến từ năng lực của một tâm mê lầm. Tất cả những hình tướng bên ngoài mà chúng ta thấy hoặc những âm thanh mà chúng ta nghe chỉ là tính Không. Bất kể điều gì xuất hiện bên trong tâm cũng chỉ là tính Không – không có gì thật sự ở đó cả. Do đó, tất cả những kinh nghiệm khác nhau của sáu loại chúng sinh, bất kể là chúng có thể là gì, đều là những hình ảnh trống không, không hiện hữu nhưng biểu hiện. Longchenpa và Khenpo Gangshar đều nói cùng một điều: tâm là gốc rễ của mọi thứ.
Đoạn này chỉ dạy rằng tất cả những hiện tướng là tâm chúng ta - chúng sinh khởi trong tâm và chúng không thể được tạo lập bên ngoài chúng ta. Bởi vậy, chúng ta cần làm theo chỉ dẫn mà Longchenpa đã ban trong trích đoạn thứ hai:
Vì chúng biểu hiện trong tâm con và được tạo dựng bởi tâm con,
Hãy tự nỗ lực trong việc rèn luyện tâm sai lầm này.
Những hiện tướng bên ngoài biểu hiện trong tâm, nhưng chúng chỉ là một tạo dựng của tâm - khi chúng xuất hiện, tâm gắn cho chúng một cái tên. Vì vậy, thậm chí mọi thứ bên ngoài có vẻ tốt, không có gì nhiều để bám nắm cả. Nếu chúng có vẻ xấu, không có gì để có ác cảm cả. Do đó, nếu chúng ta muốn tự do khỏi đau khổ và những lỗi lầm, tìm hạnh phúc và những phẩm chất tốt đẹp, điều quan trọng nhất là rèn luyện tâm và chăm chỉ thực hành như vậy. Đây là lý do tại sao chúng ta thiền định và đây là lý do tại sao có những chỉ dẫn về tâm. Do tâm là gốc rễ của mọi thứ, và mọi thứ đều quy về tâm, không có gì quan trọng hơn là rèn luyện tâm chúng ta, thiền định và an nghỉ trong sự cân bằng.
Đoạn đầu tiên nói rằng: những hiện tướng là tâm; chúng không tách biệt khỏi tâm. Đoạn thứ hai nói rằng chúng ta cần rèn luyện tâm mình một cách triệt để. Đây là những chỉ dẫn của Longchenpa. Tiếp theo, Khenpo Gangshar ban những chỉ dẫn của riêng Ngài:
Nhưng con không nên lấy hiểu biết của mình từ trong sách vở hay những câu chuyện nghe từ người khác. Hãy tự mình nhận biết rằng hiện tướng chính là tâm và thấu hiểu rằng tâm con là gốc rễ của tất cả các hiện tượng.
Chúng ta không nên tiếp nhận tất cả những hiểu biếtcủa mình từ những gì đã đọc. Nếu có hiểu biết từ sách vở,chúng ta sẽ nghĩ sách nói như thế này và như thế này, dođó, nó có khả năng là một thứ gì đó giống như thế. Conđọc một điều gì đó trong một cuốn sách và sau đó, nghĩ: “Ồ! Đây là cách nó có thể là.” Có thể con đã nghiên cứu lý luận của trường phái Duy tâm và nghĩ rằng “Tất cả đều là tâm. Mọi thứ biểu hiện đều là tâm.” Đây chỉ là một sự hiểu lý thuyết, và nó không có ích lợi gì. Con có thể nghe ai đó nói điều gì đó giống như vậy, và nghĩ “như vậy và như vậy đã nói tất cả chúng chỉ là những hiện tướng trong tâm, do đó, nó phải là như thế.” Ở một cấp độ, chúng ta biết nó, thế cũng được. Nhưng nó chưa đủ. Điều chúng ta cần không phải là một hiểu biết đến từ nghiên cứu và lý luận; chúng ta thật sự cần phải có kinh nghiệm về nó.
Du Long Tùy Nguyệt - Tập 3 + Tập 4
TẬP 3
Phủ Khai Phong thật quá bận rộn, bên này âm mưu của người Liêu vừa hạ màn, bên kia lại có đại hội võ lâm sắp cử hành, vì có liên quan đến việc triều đình tuyển chọn võ tướng, mọi người đương nhiên không thể không chú ý, sẵn tiện chia rẽ Nhật Nguyệt Càn Khôn Giáo, không ngờ lại liên kết đến bí mật của Yến Chiến Phổ!?
Sau khi sự kiện Yêu quốc kết thúc, mọi người quyết định lên đường đến Giang Nam, nhưng không ngờ Bao đại nhân và Bàng Thái sư lại bị Hoàng đế khâm điểm cùng gói hành lý Nam du!
Cả đoàn người trùng trùng điệp điệp, điểm đến đầu tiên là đến nhà Bạch Ngọc Đường ở Hãm Không Đảo thăm hỏi, trùng hợp gặp phải chuyện thủy quân Giang Nam Hà Trạch Văn và con trai áp bức ngư dân, tác oai tác quái, thậm chí còn liên can đến đại tội thông đồng với Phù Tang!!
TẬP 4
Ước nguyện của Tiểu Tứ Tử đã thành, Hãm Không Đảo giăng đèn kết hoa, hai người vốn đã tâm ý tương thông cuối cùng cũng hoàn thành hôn sự, cuối cùng Triệu Phổ cũng có thể sung sướng tận hưởng hạnh phúc!
Cứ nghĩ tương lai đang chờ bọn họ là ngày tháng tân hôn ngọt ngào ríu rít, không ngờ Vương gia Tây Hạ Lý Nguyên Hạo cứ bám riết không buông, để “mời” Triệu Phổ đến Tây Hạ tham dự hôn lễ của hắn, thậm chí không tiếc bắt cóc Bát Vương gia mà Triệu Phổ xem như huynh như phụ?
Thế là mọi người đành phải chuyển trận địa, xuất phát đi Tây Hạ!
Tác giả: Nhĩ Nhã
Bút danh: Nhĩ Nhã
Tên thật: Không rõ
Tuổi: Không rõ
Cung: Thiên Bình
Giới tính: Nữ
Quê quán: Hàng Châu - Chiết Giang, hiện đang sống cùng bố mẹ.
Thích sáng tác, chụp ảnh, xem hoạt hình, vẽ tranh, thường hay up hình của các nhân vật trong truyện mình viết lên weibo.
Rất yêu động vật, đặc biệt là mèo.
Có một con mèo giống Chinchilla tên Lulu thích ăn ngọt năm nay 3 tuổi và một con chó giống Pomeranian tên Nono, có vẻ khá béo và khá ngốc.
Andersen luôn tâm niệm cuộc sống chính là câu chuyện cổ tích tuyệt vời nhất. Cuộc sống, bởi thế, tràn trề trong những câu chuyện cổ của ông. Một cuộc sống không chỉ có công chúa xinh đẹp, hoàng tử tuấn tú hay hạnh phúc mãi mãi. Một cuộc sống của những người lính trở về từ chiến trận, dân cày, thợ nạo ống khói, vật nuôi trong sân. Một cuộc sống có thể giản dị nao lòng bên chiếc kim khâu mạng, hơi ấm lò sưởi và những bông tuyết lấp lánh. Một cuộc sống cũng có thể hết mực lộng lẫy với thiên nhiên tráng lệ vẹn nguyên. Một cuộc sống với toàn bộ vẻ đẹp, ánh sáng và bóng tối.
Và tập hợp ở đây, toàn bộ 155 truyện cổ, dù vui tươi hay buồn khổ, thậm chí nhẫn tâm, nhưng vẫn là những điều kỳ diệu và chân thực nhất, được khắc họa bởi một trái tim thành thật, nhạy cảm, cùng một trí tưởng tượng tuyệt vời, biến đổi muôn màu mỗi lần ta đọc lại, từ khi còn là đứa con nít tới lúc trưởng thành và ngày một già đi.
Tác giả
HANS CHRISTIAN ANDERSEN (1805-1875) là tác giả lừng danh người Đan Mạch. Dù sở hữu gia tài sáng tác vô cùng phong phú từ kịch, du ký, tiểu thuyết đến thi ca, Andersen vẫn được nhớ đến nhiều nhất với tư cách người viết truyện cổ tích. Kho tàng truyện cổ đồ sộ của ông vượt mọi ranh giới tuổi tác lẫn quốc gia, được dịch ra hơn 125 thứ tiếng, trong đó có vô số truyện đã thành kinh điển, tạo cảm hứng cho biết bao vở vũ kịch, nhạc kịch, phim ảnh, truyền hình.
Andersen luôn tâm niệm cuộc sống chính là câu chuyện cổ tích tuyệt vời nhất. Cuộc sống, bởi thế, tràn trề trong những câu chuyện cổ của ông. Một cuộc sống không chỉ có công chúa xinh đẹp, hoàng tử tuấn tú hay hạnh phúc mãi mãi. Một cuộc sống của những người lính trở về từ chiến trận, dân cày, thợ nạo ống khói, vật nuôi trong sân. Một cuộc sống có thể giản dị nao lòng bên chiếc kim khâu mạng, hơi ấm lò sưởi và những bông tuyết lấp lánh. Một cuộc sống cũng có thể hết mực lộng lẫy với thiên nhiên tráng lệ vẹn nguyên. Một cuộc sống với toàn bộ vẻ đẹp, ánh sáng và bóng tối.
Và tập hợp ở đây, toàn bộ 155 truyện cổ, dù vui tươi hay buồn khổ, thậm chí nhẫn tâm, nhưng vẫn là những điều kỳ diệu và chân thực nhất, được khắc họa bởi một trái tim thành thật, nhạy cảm, cùng một trí tưởng tượng tuyệt vời, biến đổi muôn màu mỗi lần ta đọc lại, từ khi còn là đứa con nít tới lúc trưởng thành và ngày một già đi.
Tác giả
HANS CHRISTIAN ANDERSEN (1805-1875) là tác giả lừng danh người Đan Mạch. Dù sở hữu gia tài sáng tác vô cùng phong phú từ kịch, du ký, tiểu thuyết đến thi ca, Andersen vẫn được nhớ đến nhiều nhất với tư cách người viết truyện cổ tích. Kho tàng truyện cổ đồ sộ của ông vượt mọi ranh giới tuổi tác lẫn quốc gia, được dịch ra hơn 125 thứ tiếng, trong đó có vô số truyện đã thành kinh điển, tạo cảm hứng cho biết bao vở vũ kịch, nhạc kịch, phim ảnh, truyền hình.
Bức thư mà thái giám Cao Lực Sĩ để lại cho A Bội Trọng Ma Lữ ngay trước khi qua đời chứa đựng một sự thật khủng khiếp liên quan đến xuất thân của Dương quý phi.
Thuận Tông hoàng đế hấp hối trên giường bệnh vì bùa phép và lời nguyền rủa của Bạch Long. Giang sơn Đại Đường như trứng để đầu đẳng...
Để vạch trần chân tướng của lời nguyền và khép lại mọi chuyện, Không Hải dẫn theo Dật Thế, Bạch Lạc Thiên, nhiều nhạc sĩ và đầu bếp, đi đến Hoa Thanh Cung ở Ly Sơn - nơi liên quan tới Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi – và tái hiện lại buổi tiệc năm mươi năm trước...
VỀ TÁC GIẢ:
Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản.
“Một tiểu thuyết đầy cảm xúc, một cuốn sách đưa ta đi từ tiếng cười đến những giọt nước mắt với các nhân vật hài hước và cuốn hút.” – Ban giám khảo giải thưởng Prix des Maisons de la Presse.
GIỚI THIỆU SÁCH:
Violette Toussaint sống mà như chết. Người phụ nữ ấy bị mẹ đẻ bỏ rơi ngay khi vừa lọt lòng, tới lượt cô con gái nhỏ mà cô yêu thương nhất lại bỏ cô mà đi trong một tai nạn thảm khốc, rồi cả đến người chồng một ngày kia cũng không còn ở lại bên cô. Cuộc đời của một nhân viên gác chắn nơi ga xép với những chuyến tàu nhỏ mỗi ngày đến rồi đi hay của một người quản trang tại nghĩa trang tỉnh lẻ chuyên đón nhận người chết và chăm sóc các phần mộ tưởng chừng chỉ gắn chặt với mất mát, buồn đau, rồi úa tàn dần theo năm tháng. Nhưng sự sống là mầu nhiệm, hy vọng vẫn còn đó, hạnh phúc lại có dịp được hồi sinh khi hoa kia được thay nước, khi chính con người vẫn tin vào cuộc đời.
Một câu chuyện sẽ ở lại lâu trong lòng độc giả. Nhẹ nhàng mà thấm thía. Bởi dẫu có lẽ không ít lần lấy đi nước mắt của người đọc, câu chuyện về tình yêu, tổn thương và hy vọng này cuối cùng sẽ để lại trong ta những cảm xúc tích cực, hạnh phúc cùng niềm mãn nguyện êm đềm một khi đã lật giở đến những trang cuối.
VỀ TÁC GIẢ:
Valérie Perrin sinh năm 1967 tại Gueugnon, Pháp. Ngoài viết văn, bà còn là một nhiếp ảnh gia hậu trường và nhà biên kịch, nhưng các tác phẩm văn chương mới chính là thứ đưa tên tuổi của bà đến với đông đảo công chúng. Tiểu thuyết đầu tay của Perrin, tạm dịch Những người bị lãng quên ngày Chủ nhật (Les Oubliés du dimanche) giành được gần mười giải thưởng. Tiểu thuyết thứ hai, Hoa vẫn nở mỗi ngày cũng giành nhiều giải thưởng, nổi bật là Prix des Maisons de la Presse.
Sách Âm thanh "made in Việt Nam" là tuyển tập những câu chuyện kể khai thác chủ đề thân thuộc quanh trẻ. Chuyến khám phá này không chỉ có hình ảnh mà còn có cả âm thanh, qua mắt trẻ thế giới bên ngoài được tái hiện vô cùng chân thực.
- Tác động mạnh mẽ đến thính giác chỉ qua một lần chạm với hệ thống module, chip âm thanh hiện đại, mang lại trải nghiệm âm thanh chân thực, sinh động.
- Chủ đề âm thanh đa dạng: Cuộc sống quanh em, Âm thanh phố phường, Âm thanh của thiên nhiên, Âm thanh của các loài vật. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
- Mỗi cuốn sách là một câu chuyện dài dẫn dắt trẻ chăm chú theo dõi và tăng tương tác giữa cha mẹ & con cái khi đọc cùng nhau.
- Tác động toàn diện tới 4 giác quan quan trọng nhất của trẻ: thính giác (âm thanh), cảm giác (câu chuyện), xúc giác (nút bấm âm thanh, lật mở), thị giác (hình ảnh).
- Hình ảnh minh họa đẹp mắt, các nét vẽ gần gũi với trẻ em Việt Nam.
- Mỗi âm thanh đi kèm một từ vựng Anh - Việt kèm phát âm giúp trẻ đồng thời trau dồi vốn từ vựng hiệu quả.
- Bộ sách sẽ là món quà tuổi thơ đặc biệt và sống động mà trẻ ấn tượng mãi về sau này.
Xứ Bắc Kỳ nhiệt đới luôn có sức hấp dẫn kỳ lạ với tính cách ưa chinh phục khám phá của người Pháp. Và Charles-Édouard Hocquard không phải ngoại lệ. Ông đã tham gia Chiến dịch Bắc Kỳ với tư cách bác sĩ quân y. Bên cạnh đó, ông còn là một nhiếp ảnh gia không chuyên, và trong chiến dịch này đã thực hiện điều mà ngày nay ta gọi là phóng sự ảnh về cuộc phiêu lưu của ông ở Bắc Kỳ.
Sau một thời gian dài tiến hành đàm phán, với một số trục trặc và gián đoạn giữa chừng, cuối cùng Nhã Nam cũng đã mua thành công bản quyền của 44 tấm ảnh gốc do bác sĩ Hocquard chụp, từ Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (ANOM), Aix-en-Provence, Pháp, cho vào phụ lục cuốn sách Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, nhằm cung cấp thêm cho bạn đọc một tư liệu quý giá.
GIỚI THIỆU NỘI DUNG TÁC PHẨM
MỘT CHIẾN DỊCH Ở BẮC KỲ
Tên gốc: Une Campagne au Tonkin
Tác giả: Bác sĩ quân y Charles Édouard Hocquard
Trương Quốc Toàn dịch
Emmanuel Cerise giới thiệu
Một chiến dịch ở Bắc Kỳ là bản tường trình cá nhân về một chiến dịch quân sự được Pháp tiến hành từ 1883 đến 1886 nhằm mục đích thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ. Tác giả, Charles Édouard Hocquard, đã tham gia Chiến dịch Bắc Kỳ với tư cách bác sĩ của quân đội từ 1884 đến 1886. Bên cạnh đó, ông còn là một nhiếp ảnh gia không chuyên và trong chiến dịch này đã thực hiện điều mà ngày nay ta gọi là phóng sự ảnh về cuộc phiêu lưu của ông ở Bắc Kỳ.
Ban đầu, câu chuyện ông viết được in trên tạp chí Le Tour du Monde (Vòng quanh Thế giới) thành năm phần dài dưới nhan đề 30 tháng ở Bắc Kỳ. Tác phẩm được xuất bản dưới dạng sách vào năm 1892 và thuật lại chuyến đi của bác sĩ Hocquard từ lúc ông rời cảng Toulon ngày 11 tháng Một 1884 đến khi ông hồi hương vào ngày 19 tháng Tư 1886. Trong 26 tháng ở Việt Nam, Hocquard trải qua 10 tháng ở Hà Nội, từ đó viết nên một nguồn tư liệu quan trọng về thành phố này vốn không mấy thay đổi ngay cả khi có sự hiện diện của người Pháp. Hocquard dành nhiều thời gian cho việc tường thuật lại các quan sát thực địa của mình, vì vậy, ta có thể đọc được qua tác phẩm này một câu chuyện lịch sử và dân tộc học, miêu tả địa lý tự nhiên và địa lý nhân văn miền Bắc Việt Nam cuối thế kỷ 19. Việc miêu tả chặt chẽ và vô cùng chi tiết ấy cho thấy rõ một Việt Nam còn ít chịu ảnh hưởng phương Tây cả về kiến trúc lẫn lối sống, vẻ bề ngoài và tinh thần của người dân.
Một chiến dịch ở Bắc Kỳ xuất bản lần đầu ở Pháp năm 1892, bao gồm 247 tranh khắc và 2 bản đồ, đã mô tả sắc nét cảnh quan, con người cùng những tập tục của người dân ở vùng đất mà tác giả đã khám phá trong quá trình tham gia một số trận đánh thuộc Chiến dịch Bắc Kỳ của quân đội Pháp (chống lại một số đội quân người Việt, quân Cờ Đen cùng quân Vân Nam và Quảng Tây của nhà Thanh, kéo dài từ tháng Sáu năm 1883 đến tháng Tư năm 1886, với mục tiêu chiếm đóng hoàn toàn Bắc Kỳ và giữ vững chế độ bảo hộ của Pháp).
Chính bởi vậy, ngoài giá trị đem đến góc nhìn chân thực và mới mẻ về vùng đất thuộc địa này cho người Pháp khi ấy, Một chiến dịch ở Bắc Kỳ còn mang tới cho người đọc hôm nay những sử liệu quý báu về đời sống người dân Bắc Kỳ trong giai đoạn chiến tranh Pháp-Thanh cuối thế kỷ 19, đặc biệt ở khía cạnh hình ảnh, với những bức ảnh được chụp bởi chính tác giả Hocquard, con người hội tụ đầy đủ sự chỉn chu, khoa học của một bác sĩ cùng góc nhìn tinh tế của một nhiếp ảnh gia lành nghề.
Nhiệm vụ thứ hai này vốn ít người biết đến và hầu như không được nhắc tới trong nội dung cuốn sách Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, nhưng nó đã góp phần lý giải cho việc Hocquard đã chụp ảnh rất tỉ mỉ những nơi đội quân đi qua, hay những đại cảnh, thậm chí dường như có những ảnh được chụp từ trên cao (có lẽ từ một khinh khí cầu được quân đội viễn chinh đưa sang Bắc Kỳ trong chiến dịch này, như chính tác giả đã hé lộ ở chương bốn rằng “trong một lần nghỉ chân, tôi đã xin phép được leo lên một trong hai quả khí cầu đang được neo giữ”.
Khi chụp những bức ảnh này, Hocquard là quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ. Có lẽ đây là lý do khiến nhà xuất bản Librairie Hachette et Cie đã sử dụng thợ khắc tranh khắc lại các ảnh chụp của Hocquard để làm minh họa khi in cuốn sách Một chiến dịch ở Bắc Kỳ vào năm 1892.
Chúng ta sẽ bắt gặp nhiều điều thú vị khi so sánh các tranh khắc in trên sách với ảnh gốc mà bác sĩ Hocquard chụp. Về nguyên tắc, thợ khắc tranh sẽ khắc trung thành với ảnh gốc, nhưng trên thực tế, sẽ luôn có khác biệt giữa tranh khắc và ảnh gốc: để phù hợp với khổ giấy in, vì muốn nhấn vào chủ điểm chính trên ảnh, hay là do cá tính của người thợ khắc vì mỗi người nghệ sĩ đều muốn để lại chút dấu ấn cá nhân trên tác phẩm. Hãy lấy ví dụ là bức ảnh chụp “Trục phố chính của Bắc Ninh” (lấy từ ấn bản của nhà xuất bản H. Cremnitz, Paris, 1885, tr.17) mà chúng tôi chọn làm ảnh bìa ấn bản tiếng Việt, tranh khắc nằm ở trang 102: so với ảnh gốc, tranh khắc bị thu hẹp hơn, toàn bộ phần ảnh phía dưới (bao gồm chân cột đền, gốc cây, chõng che…) bị cắt bỏ, nhưng lại thêm hai “nhân vật” ở trung tâm tranh khắc.
Những tấm ảnh in trong phụ lục này được chúng tôi chọn lựa trong số hơn 200 bức ảnh đang được lưu giữ và quản lý bởi Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại Pháp ở Aix-en-Provence để độc giả có thể hình dung ra sự khác biệt nói trên, và có một cái nhìn rõ nét hơn về cuộc sống, phong cảnh và con người Bắc Bộ những năm cuối thế kỷ mười chín.
Charles-Édouard Hocquard sinh năm 1853 tại Nancy, là bác sĩ quân y, nhiếp ảnh gia và nhà khám phá người Pháp. Ở Việt Nam, tên tuổi ông đã được biết đến từ lâu với tư cách tác giả những bức ảnh nổi tiếng chụp xứ Đông Dương cuối thế kỷ 19.
Là bác sĩ quân y, ông tình nguyện đăng ký gia nhập quân đội viễn chinh Pháp và lên đường sang Bắc Kỳ vào đầu năm 1884, và ông đã có dịp khám phá hầu khắp xứ Đông Dương, từ vùng biên giới phía Bắc tới vùng châu thổ phương Nam. Ngoài nhiệm vụ chính là chăm sóc sức khỏe cho thương bệnh binh quân viễn chinh và lính tập, Hocquard còn được phân công chụp ảnh địa hình hỗ trợ công tác trắc địa, và suốt hơn hai năm ở đây, ông đã tận dụng triệt để chiếc máy ảnh mang theo để chụp lại hầu như toàn cảnh xã hội Việt Nam khi ấy: từ phong cảnh thiên nhiên, làng mạc, phố phường đến những chân dung cụ thể của nhà vua, quan lại, nho sĩ, nhà buôn, binh lính, nông dân… Một phần những bức ảnh ấy đã đem về cho Hocquard chiếc huy chương vàng ở Triển lãm thế giới năm 1885 tổ chức ở Anvers, khi ông gửi tới đây trưng bày 117 bản sao các ảnh chụp tại Đông Dương.
Ông mất năm 1911 tại Lyon, vì bệnh cúm.
Gustave Dumoutier là nhà Việt Nam học người Pháp thuộc thế hệ đầu tiên, là một học giả có tài, một con người gắn bó và yêu mến lịch sử văn hóa Việt Nam, là nhà Đông phương học đầy nhiệt huyết có chủ trương hợp tác với giới nho sĩ Việt Nam, trân trọng và bảo tồn nền văn hóa Việt Nam truyền thống, duy trì chữ nho và khuyến khích chữ Quốc ngữ.
Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử, văn hóa Việt nói chung và Hà Nội nói riêng. Và “Nghi thức tang lễ của người An Nam là một cuốn sách như vậy.
Đối với người Việt Nam, nghi thức tang lễ có một tầm quan trọng lớn lao, biểu hiện sự tôn trọng của người sống dành cho người chết và ý niệm của người sống về sự an nghỉ của người vừa qua đời.
Các nghi thức tang lễ thay đổi tùy theo thứ bậc của người qua đời, trong gia đình và ngoài xã hội; tài sản họ có lúc sống cũng như tài lực của người thân. Tang lễ là nghi thức tôn giáo, vừa thể hiện sự hiếu đạo, nghĩa tử của người sống với người chết nhưng cũng là mối quan tâm lo lắng về sự bình an, thịnh vượng hoặc hiểm họa sau này của con cháu…
Với tư duy khoa học và thói quen quan sát ghi chép của người phương Tây, Dumoutier và các cộng sự đã không bỏ lỡ cơ hội khi được tận mắt quan sát những nghi thức khác nhau của nghi lễ tang ma mà từ lâu họ đã quan tâm nghiên cứu tại Bắc kỳ. Không những thế, ông còn phân tích, so sánh, để tìm ra nét khác biệt trong một số nghi lễ ở các vùng miền, giữa các tôn giáo khác nhau…
Từ các quan sát liên quan tới tang lễ, việc để tang và lòng kính trọng mồ mả của người Bắc kỳ… Dumoutier đã viết cuốn sách này thật sát với quan điểm nghiên cứu dân tộc học tôn giáo, qua đó cung hiến cho các nhà nghiên cứu và độc giả ngày nay những tài liệu có giá trị tham khảo cần thiết.
Những cuốn sách của Gustave Dumoutier do Omega+ xuất bản:
Tiểu luận về dân Bắc Kỳ
Nghiên cứu bản đồ các Cửa Sông, Hải Cảng Việt Nam thế kỷ XV
Nghi thức tang lễ của người An Nam
Trích đoạn hay:
“Về việc tang ma, người ta tuân theo các qui định của sách Tam giáo. Chúng tôi không có ý nói rằng cuốn Gia lễ bị bỏ quên, nhà nào cũng có một bản, sách được mọi người thừa nhận như khuôn phép nghi lễ dùng trong gia đình, vị cố vấn sáng suốt của dân chúng; nhưng vì việc biên soạn Gia lễ chủ yếu có tính cách triết lý thuần túy, và không đề cập gì tới Phật, Thần, quỉ, rồng, nên khi sử dụng, người dẫn dù tuân theo đúng các qui định trong sách, vẫn cố làm sao để chúng phù hợp với chỉ dẫn của sách Tam giáo, bằng cách thêm thắt vào đó tất cả những gì, nằm trong tập quán Lão giáo, và kinh kệ Phật giáo, có thể làm an ổn lương tâm, trấn an tinh thần của người dân An Nam.
Khi nghiên cứu văn hóa, phong tục, tập quán dân gian ở Bắc kỳ, có hai điều cần nghiên cứu về mặt dân tộc học: trước hết là luật thành văn, rất tốt đẹp, với một thứ luân lý không thể chê vào đâu được, dù rằng còn đôi chút non nớt, đó là tinh hoa có chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm của các bậc hiền triết Trung Hoa thời cổ, được duy trì lâu dài qua nhiều thế kỷ, và nhà trường dùng kinh sách đó làm phương tiện đào tạo trí thức cũng như tâm thuật cho con người; thứ đến là phong tục, hoàn toàn bất thành văn, mà ở bất cứ đâu người ta cũng buộc phải theo, và trong nhiều trường hợp “phép vua thua lệ làng”.
Gia lễ là lề luật, Tam giáo là phong tục.”
“VIẾNG TANG
Ai tới viếng người quá cố lần cuối phải mặc quần áo trắng; vái hai lần trước quan tài, trong lúc thốt ra ba tiếng than:
“Hô! Hô! Hô!” - Gia chủ nếu là con trai người quá cố phải vái lạy đáp lễ, nếu là thân thích bàng hệ hoặc các họ hàng khác thì chỉ phải nghiêng mình.
Có tục gia đình trả lễ cho những người phúng bằng cách gửi một vài chiếc bánh vào ngày mai táng. Bạn bè người chết được phép đóng góp vào tiền làm ma chay.
Ai đi viếng hoặc mang lễ vật tới điếu tang, thì ngày hôm ấy phải kiêng cữ mọi thú vui. Có ba loại người chết, không được phép phúng điếu: người tự tử, người chết đuối vì tai nạn, và người chết vì nhà sập.
Phụ nữ chỉ có quyền đưa đồ phúng trong phạm vi thành phố bà ta sống.”
“ĐƯA MA
Ngày và giờ an táng đã được nhà sư định trước, về việc này, ông tra cứu những tấm bảng đặc biệt ghi ngày giờ tốt xấu. Chi tiết đám táng được qui định tỉ mỉ, và ký giao kèo với nhà đòn. Có những đám ma tốn hàng nghìn đồng Đông Dương, trong khi những đám khác chỉ tốn vài quan tiền ta. Hạng thấp nhất giá sáu quan, tức khoảng 2,50 phật lăng.
Có thể có những đám ma tươm tất với 30 quan, tức là 15 phật lăng. Ở Hà Nội có bốn nhà thầu địa phương chuyên lo đám ma (nhà đòn), họ chịu trách nhiệm cung cấp đủ thứ cần thiết, trừ phu khiêng gọi là đô tùy, và phường nhạc (bát âm), hai việc này phải ký hợp đồng đặc biệt với nhà thầu khác.”
Về tác giả:
Gustave Dumoutier
Sinh năm 1850 tại Courpalay (Pháp), nhà nghiên cứu nhân học, dân tộc học và khoa học tôn giáo…
Dumoutier đến Hà Nội năm 1886 theo đề nghị của Tổng Trú sứ Trung – Bắc kỳ Paul Bert, được giao nhiệm vụ “người tổ chức thanh tra các trường Pháp – Việt” và sau đó trở thành Giám đốc Học chính Trung – Bắc kỳ.
Ông có niềm đam mê lớn với việc nghiên cứu khảo cổ, dân tộc học, tôn giáo, văn hóa, lịch sử Việt Nam và để lại nhiều công trình có giá trị. Ông qua đời tháng 8 năm 1904 tại Việt Nam.
Sống Bản Lĩnh Theo Cách Một Quý Cô - All The Rules
Lồng ngực trái của người đàn ông không phải là nơi an toàn nhất, mà là nơi dễ thay đổi nhất. Cho nên, phụ nữ chỉ có thể dựa vào chính mình.
Ngay từ khi còn nhỏ, những bé gái thường được nuôi dạy theo một khuôn mẫu nếu không Công, Dung, Ngôn, Hạnh; thì cũng đến tuổi phải nghĩ đến chuyện lập gia đình với hàng tá những hệ quả của việc “ổn định” kéo theo. Đến tuổi trưởng thành, không ít cô gái mơ mộng về những anh chàng Mr Right sẽ mang lại cho mình một cuộc sống vừa đủ đầy, vừa lãng mạn.
Hãy ngưng ảo tưởng!!!
Bạn không thể có được hạnh phúc nếu chính bản thân mình còn phụ thuộc hạnh phúc vào người người khác.
Bạn không thể tìm được Mr Right nếu bạn không tự hoàn thiện bản thân.
All the Rules – Bộ sách nổi đình đám trên toàn thế giới với số lượng phát hành lên tới HÀNG TRIỆU bản đã giúp các cô nàng tìm được hướng đi của cuộc đời mình. Các nàng sẽ nhận ra rằng:
Tự lập và biết phớt lờ những mối quan hệ khiến bạn mất thời gian để rồi không đi đến đâu cả.
Tự trọng và tự tôn chính là chìa khóa hấp dẫn đấng mày râu, cũng là một cách sống đầy khí chất.
Luôn luôn có những cách để bạn cân bằng với những mối quan hệ xung quanh, ở tất cả mọi trường hợp. Nếu bạn chưa biết, đó là do bạn chưa đọc All the Rules – Sống bản lĩnh theo cách một quý cô mà thôi.
Chẳng có bất kỳ một cô gái nào muốn mình tự ti, luôn vướng vào những mối quan hệ khiến mình phải day dứt, đau khổ cả. Vậy thì hãy đứng dậy và ngẩng cao đầu. Chỉ cần phía trên còn ánh mặt trời, bạn vẫn còn có cơ hội tỏa sáng.
Ẩn Tàng Thư Dantalian - Tập 6
Thế gian luôn tồn tại những tri thức không được phép biết đến. Chúng được ghi chép trong ảo thư, những cuốn sách nguy hiểm có khả năng làm xáo trộn luật nhân quả và những quy tắc của thế giới này. Thế nhưng, vẫn có những người chẳng thể nào kháng cự lại được sự hấp dẫn của chúng , và không rõ tự bao giờ, họ đã vượt qua ranh giới, bị những cuốn ảo thư chi phối và lạc lối. Chính vì vậy, thư viện mê cung - Ẩn tàng thư Dantalian – mới tồn tại nhằm phong ấn những cuốn ảo thư đầy quyền lực ấy…
Nhận lời mời từ người thầy cũ trong quân đội, Huey và Dalian đã đi đến quần đảo Latham – một khu du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng. Thầy của Huey, Mcguigan, đã giới thiệu cô cháu gái Lycia của mình với Dalian, rất mong hai cô bé có thể trở nên thân thiết. Tuy nhiên, Dalian lại tuyên bố rằng mình ghét chó với trẻ con, và đáp lại cô, Lycia cũng viết vào tấm bảng đen đeo trên ngực “cậu mới là đứa nhóc bé xíu” ….
Mặt khác, trên hòn đảo lại đang lưu truyền một lời đồn đại khủng khiếp: quỷ biển trong truyền thuyết là hung thủ đứng đằng sau vụ giết người hàng loạt gần đây. Không chỉ vậy, ở nơi này còn xuất hiện bóng dáng của một cặp đôi kiện thủ - độc cơ khác…
Mối quan hệ giữa các độc cơ như nước với lửa. Huey và Dalian đều đã từng xảy ra mâu thuân với Hal và Flam cũng như giáo sư và Rasiel. Liệu có một cuộc đụng độ nảy lửa nào sẽ diễn ra trên hòn đảo biệt lập đang hoang mang vì những vụ án mạng ghê rợn bí ẩn?
Tập thứ sáu trong chuyến phiêu lưu của thiếu nữ và những cuốn sách thuộc về ma quỷ.
Thaihabooks trân trọng giới thiệu!
Mục lục:
Chương một: Cuốn sách mô hình mẫu
Chương đặc biệt 1: Người đàn ông say sưa làm việc
Chương hai: Cuốn sách Quan Tài
Chương đặc biệt 2: Con người thực sự của mình
Chương ba: Cuốn sách hoá người
Chương bốn: Thiên đường
Lời tác giả
Thông tin tác giả:
Mikumo Gakuto
Sinh ra ở tỉnh Oita, sinh sống tại thành phố Yokohama. Chủ yếu viết tiểu thuyết. Về tác phẩm gần đây có thể nhắc đến Asura Crying tiểu thuyết dài kỳ thuộc Dengeki bunko.
G-Yuusuke
Trích đoạn sách:
Thiếu nữ tóc bạc được gọi là Lycia có vẻ bẽn lẽn e lệ ló đầu ra từ sau lưng McGuigan, lén liếc nhìn Huey và Dalian. Có vẻ cô khá sợ người lạ, trông cô lúc này giống hệt một con thú nhỏ đang tỏ ra cực kỳ cảnh giác và thận trọng.
Dalian cũng đang trốn đằng sau lưng Huey trong tư thế y hệt như cô bé kia, chợt lên tiếng.
“Đến chào hỏi cho tử tế mà cũng không làm được sao, đúng là một cô nhóc không hiểu lễ nghĩa gì cả.”
Cô buồn bực thì thầm bằng giọng nhỏ xíu, âm lượng chỉ vừa đủ để lọt vào tai Huey mà thôi.
Huey bó tay cười khổ, nghĩ thầm trong đầu “cô thế này mà cũng nói được người ta sao”. Sau đó anh chợt nhìn về phía trong lồng ngực Lycia như thể vừa nhận ra được điều gì.
“Cô bé này… chẳng lẽ là không nói chuyện được sao…”
“Ừ, tôi nghĩ chắc là bị ảnh hưởng từ sau khi bố mẹ con bé qua đời. Tuy đọc và viết rất giỏi nhưng Lycia lại không nói được.”
McGuigan nói, buông một tiếng thở dài đầy phiền muộn.
Lycia đeo một chiếc bảng đen nhỏ trên cổ như một mặt dây chuyền. Có lẽ cô dùng nó để truyền đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu, thay cho việc lên tiếng.
“Chắc là vì thế nên Lycia mới thích đọc sách đến thế.”
Nói rồi, McGuigan tùy ý đưa tay khẽ vuốt tóc thiếu nữ tóc bạc. Thiếu nữ càng ôm chặt lấy cuốn sách trong lòng mình hơn, như thể để giấu đi sự thẹn thùng xấu hổ. Huey mỉm cười, tỏ ý đã hiểu được đầu đuôi câu chuyện.
“Chính vì thế nên ông mới gọi Dalian đến sao?”
“Ừ, nếu có thể thì tôi mong hai đứa có thể trở thành bạn của nhau.”
McGuigan nói rồi quay về phía Dalian nở một nụ cười có hơi cứng ngắc ngượng nghịu.
“Với cả nếu sống cùng với ngài Tử tước thì chắc hẳn cô bé cũng là một người đam mê đọc sách nhỉ? Tại tôi cũng chẳng biết tí gì về mấy thứ như truyện cổ tích hay truyền thuyết cả. Liệu cô bé có thể giới thiệu cho mấy cuốn sách mà Lycia… mà con gái lứa tuổi đó thường thích đọc được không?”
“Ông đã nhờ, tôi thì cũng không có vấn đề gì cả nhưng…”
Huey vuốt ngược tóc về phía sau, vẻ hơi băn khoăn khó xử.
Dalian quay phắt mặt đi, bộ dáng như một đứa trẻ đang giận dỗi.
“Ta từ chối, thứ ta ghét nhất trên đời là chó và đám trẻ con. Ta cũng chẳng biết cái gì về mấy cuốn sách tranh cho trẻ em phù hợp với sở thích của đứa nhóc bé xíu đằng kia đâu.”
“…”
Biểu cảm trên khuôn mặt Lycia chẳng thay đổi gì cả, cô chỉ yên lặng nhìn chằm chằm Dalian. Như thể bị cái nhìn ấy áp đảo, đôi vai Dalian chợt run lên một cái.
Lycia lấy một viên phấn ra, xoẹt xoẹt viết mấy chữ gì đó trên bảng đen, rồi giơ bảng ra cho Dalian xem.
“Mình không phải… trẻ con đâu.”
“Hử?”
Trước lời phủ nhận đầy bất ngờ của Lycia, Dalian hoàn toàn im lặng. Hơn thế nữa, thiếu nữ tóc bạc còn viết rằng:
“Cậu mới là đứa nhóc bé xíu.”
Sword Art Online 17
Dù có phải hi sinh toàn bộ quân đoàn Bóng tối, cũng phải chiếm cho bằng được Vu nữ Ánh sáng Alice.
Ngày thứ hai của thực nghiệm phụ tải cuối...
Yếu thế trước tinh thần chiến đấu liều mạng của Hiệp sĩ Chỉnh hợp, quân Dark Territory bắt đầu phản kháng bằng kế sách hèn hạ. Từ bên ngoài, Critter đã đưa nhiều người từ thế giới thực vào trận quyết chiến sau cùng. Số lượng tester cho một "game VRMMO chính thống” như lời bọn họ quảng bá, đã vượt hơn 50.000 người.
Quân đoàn Bóng tối được tăng viện khiến quân Nhân giới lâm vào đường cùng.
Một mình Asuna không thể đập tan hết bọn chúng. Bất ngờ, các vị thần sáng thế trong truyền thuyết giáng xuống Underworld, gồm thần mặt trời Solus rạng ngời sắc trắng và thần mặt đất Terraria hiền từ ấm áp. Hai vị thần ấy mang hình dáng Sinon và Leafa...
Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới. Mỗi người trong chúng ta đều có thể học được cách nuôi dưỡng và phát triển sự an lạc; đây là món quà và cũng là lời mời gọi từ chánh niệm. Chúng ta không cần có nhiều thời gian trong ngày hơn để sống chánh niệm. Ta chỉ cần đơn giản là làm những điều vẫn thường làm, nhưng với sự chú tâm sâu sắc, với sự thư giãn và niềm vui. Chúng ta không thể truyền đi chánh niệm nếu nếu trước hết chúng ta chưa phải là hiện thân của chánh niệm.
Điều quan trọng nhất mà ta có thể mang tới cho người khác là sự an lạc và bình yên của chính mình. Chúng ta có thể làm được điều này, trước hết bằng việc mang chánh niệm và buông thư vào đời sống hàng ngày của mình, rồi sau đó chia sẻ những điều quý giá này với học sinh và đồng nghiệp. Cuốn sách được viết bởi một giáo viên giàu kinh nghiệm này sẽ chỉ dẫn chúng ta cách làm thế nào để thực hiện được điều đó.
Lớp học hạnh phúc là một chỉ dẫn thực hành giúp các nhà giáo dục có thể tìm ra con đường của riêng họ để đạt được sự hiệu quả và trọn vẹn sâu sắc hơn trong cuộc sống và công việc. Meena là một đại sứ của chánh niệm, sẽ chỉ dẫn cho chúng ta một cách cụ thể về việc làm thế nào để đưa chánh niệm thành nhiệm vụ ưu tiên trong lớp học, trong phòng nghỉ của giáo viên, và bất cứ nơi đâu mà ta tới trong suốt một ngày.
Tri thức trong cuốn sách này có nền tảng là những trải nghiệm cá nhân của Meena trong việc sử dụng chánh niệm và thấu hiểu thay vì phản ứng với hoàn cảnh, từ đó nuôi dưỡng những gì tốt nhất trong bản thân chúng ta và trong học sinh, và có thể khéo léo chăm sóc cho những giây phút khó khăn.
Những bài giảng này phản ánh những phẩm chất căn bản của chánh niệm và từ bi, không mang tính tôn giáo. Những bài thực hành và chương trình dạy học trong cuốn sách chứa đựng những nền tảng cho việc tạo dựng bình an đích thực trên thế giới. Đó là sự giáo dục bình an mà học sinh, những nhà giáo dục, các gia đình và cả xã hội đều thực sự cần có.
Tôi vô cùng mãn nguyện khi giờ đây đã có một nguồn tài liệu quý báu dành cho những nhà giáo dục và những người chăm sóc.” Lời đề tặng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành cho cuốn sách, được viết tại Làng Mai năm 2014.
Mục lục:
Những lời khen tặng
Lời giới thiệu
Phần i: Thực hành chánh niệm
Chương 1: Chánh niệm là gì?
Chương 2: Giá trị của từng hơi thở
Chương 3: Bước chân chánh niệm
Chương 4: Thư giãn sâu
Chương 5: Ăn trong chánh niệm
Chương 6: Chánh niệm trong hoạt động hàng ngày
Chương 7: Tưới tẩm hạt giống tốt lành
Phần ii: Chia sẻ chánh niệm
Chương 8: Dẫn dắt với tình yêu thương
Chương 9: Người khác cũng giống như ta
Chương 10: Những chiến lược bạn sẵn có
Chương 11: Biết ơn và tương tức
Chương 12: Tạo lập một nhóm thực hành chánh niệm
Phần iii: Chánh niệm là kĩ năng có thể rèn luyện:
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY
Chương 13: Những bài dạy về chánh niệm
Chương 14: Bài một: Hiện diện qua hơi thở chánh niệm
Chương 15: Bài hai: Hiện diện qua ý thức về cơ thể
Chương 16: Bài ba: Tương tức, lòng tốt và sự biết ơn
Chương 17: Bài bốn: Điều phục cảm xúc và tưới tẩm hạt giống tốt lành
Chương 18: Bài năm: Nói lời chánh niệm và đưa ra quyết định đúng đắn
Chương 19: Bài sáu: Sử dụng công nghệ trong chánh niệm.
Chương 20: Bài bảy: Hoà bình
Chương 21: Bài tám: Những tự ngẫm cuối cùng
Lời bạt
Phụ lục: phiếu học tập và bài về nhà
Trích đoạn sách:
GIÁ TRỊ CỦA TỪNG HƠI THỞ
“Hơi thở là người bạn tốt nhất của ta.” – Giáo sư Ramchandra Gandhi
Giáo sư Ramchandra Gandhi là một trong những nhà triết học đương đại và nhà tư tưởng khai phá sáng giá nhất Ấn Độ. Điều này không chỉ bởi ông là cháu trai của Mahatma Gandhi, mà còn vì ông là nhà triết học được đào tạo tại Oxford, đã giảng dạy tại nhiều học viện giáo dục danh tiếng, trong đó có trường Shantikiketan – ngôi trường nổi tiếng mà Rabindranath Tagore từng theo học. Tôi gặp ông trong những ngày ở New Delhi, và với tôi, sự gặp gỡ này cứ như được định sẵn một cách thần kì. Khoảng thời gian ngắn tôi học tập dưới sự hướng dẫn của ông là sự hòa trộn đẹp đẽ giữa tinh thần và sự tham gia vào những ý tưởng quan trọng, và tôi cảm thấy thật may mắn khi đã có một sự kết nối thân tình với ông. Đáng buồn là ông qua đời chín tháng sau cuộc gặp gỡ đó, nhưng sau khi ông mất, tôi còn cảm thấy có sự kết nối mạnh mẽ với ông hơn nữa. “Hơi thở là người bạn tốt nhất của ta” là một trong rất nhiều bài học hàm súc mà giáo sư Gandhi đã truyền tải; và chỉ đến khi được tiếp xúc với những bài giảng của thầy Thích Nhất Hạnh, tôi mới thực sự hiểu điều giáo sư muốn nói là gì.
Hơi thở luôn ở đây với chúng ta. Quan sát hơi thở là một trong những cách dễ dàng nhất, đơn giản nhất để bắt đầu thực hành chánh niệm. Hít thở trong chánh niệm có thể được thực hiện ở bất kì nơi đâu, vào bất kì lúc nào. Bằng việc mang ý thức vào từng hơi thở, bạn có thể nhẹ nhàng đưa tâm trí đang đi lang thang trở về với giây phút hiện tại. Trong khi thiền niệm hơi thở để làm an thân tâm, bạn cũng có thể tụng các câu kệ, những lời thơ ngắn đầy trí tuệ của truyền thống Thiền tông. Thì thầm những lời tích cực này với bản thân cũng có thể giúp bạn có cái nhìn bình an, tích cực hơn về mọi thứ xung quanh.
Nếu chúng ta thực sự chú ý đến việc chăm sóc thân tâm mình, thì bắt đầu ngày mới bằng việc gác danh sách những việc cần làm sang một bên và thực hành hít thở có chánh niệm sẽ là một cách tuyệt vời để đổ đầy bình năng lượng của mình. Khi thực hành hơi thở chánh niệm, tôi thường đặt tay lên phần bụng hoặc ngực để có thể cảm nhận cơ thể mình đang mở ra và thu vào cùng với hơi thở. Tôi để lưng thẳng nhưng dễ chịu, ngồi trên sàn với đệm êm thoải mái và đầu gối xếp gọn dưới cơ hoành, hoặc ngồi trên ghế và bàn chân đặt trên sàn. Chồng tôi, Chihiro, và tôi đã thiết kế một không gian nhỏ nhưng thiêng liêng trong nhà, với nến và những câu trích dẫn ý nghĩa để tạo cảm hứng khi bắt đầu thực hành thở cùng nhau. Chúng tôi thường nhắm mắt, nhưng nếu bạn cảm thấy thoải mái hơn khi mở mắt, bạn vẫn có thể duy trì sự tập trung nhẹ nhàng khi đang nhìn. Tôi và chồng sống rất gần một cảng nhỏ, thỉnh thoảng chúng tôi sẽ thiền ở đó, với đôi mắt mở để nhìn ngắm khung cảnh. Hãy thử thực hành ở nhiều nơi khác nhau và xem nơi nào phù hợp với bạn nhất.
Khi tôi ngồi ở “góc thở” vào buổi sáng, sự thực hành có thể kéo dài suốt thời gian còn lại trong ngày. Sẽ dễ nhất nếu bạn bắt đầu thực hành với năm phút mỗi ngày, rồi mỗi tuần lại tăng dần thêm năm phút. Lý tưởng nhất là có thể dành ra 30 đến 45 phút mỗi ngày, nhưng vì chúng ta còn nhiều công việc khác nên điều này dường như hơi khó khăn. Ngay cả khi bạn chỉ có 10 đến 15 phút để thực hành hít thở chánh niệm, bạn vẫn có thể dành cả ngày còn lại để tiếp tục thực hành. Bất cứ khi nào xếp hàng, ví dụ như đợi máy photo, đợi ở quán cà phê hoặc dừng xe, hãy dùng thời gian đó để quay về với bản thân và thực hành thở có chánh niệm.
Trong ngày, bạn có thể kiểm tra và để ý xem hơi thở ngắn hay dài, nông hay sâu. Khi thực hành thở chánh niệm, bạn có thể dễ dàng kích hoạt hệ thống thần kinh phó giao cảm, thứ kết nối với một trạng thái thư giãn hơn của cơ thể và tâm trí. Một học sinh của tôi từng nhận thấy hơi thở của mình ngắn và nông trong khi làm bài thi toán và cô bé ngay lập tức thực hành thở có chánh niệm để giúp bản thân giữ bình tĩnh và tập trung hơn vào bài thi. Tôi cũng nhận thấy rằng, với việc thực tập liên tục, tôi có thể tạm thời ngưng lại những suy nghĩ ngay khi tôi tập trung vào những sắc thái của hơi thở và có mặt trọn vẹn trong mỗi hơi thở vào và hơi thở ra. Với những ai có một tâm trí rối bời và luôn rượt đuổi tìm kiếm, những giây phút nghỉ ngơi này thực sự thư giãn và có sức phục hồi.
Bạn Gái Vs. Bạn Thời Thơ Ấu - Tập 4
Cuộc chiến không ngừng nghỉ giành giật sự chú ý từ nhân vật chính giữa cô bạn thời thơ ấu Chiwa và cô hot girl trường Masuzu, xảy ra song song cùng với vô vàn những diễn biến thú vị chốn học đường; tưởng chừng như không bao giờ có hồi kết. Liệu nhân vật chính có tìm ra được câu trả lời cho riêng mình?
Draw Kawaii in 5 simple steps - Vẽ theo phong cách Kawaii với 5 bước đơn giản
Em đã sẵn sàng trổ tài hội họa chỉ với 5 bước vẽ chưa? Từ chú tắc kè hoa sặc sỡ cho đến chú chim công đỏm dáng, từ chiếc thuyền đang dong buồm ra khơi cho đến ngọn hải đăng đang chiếu sáng rực rỡ..., tất cả đều có trong Draw Kawaii in 5 simple steps - Vẽ theo phong cách Kawaii với 5 bước đơn giản. Ngoài hướng dẫn chi tiết, trong cuốn sách còn có một khoảng trống thật lớn để em thực hành ngay lập tức nữa đấy.
Hãy sẵn sàng để chìm đắm trong hội họa nào!
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều...
Về tác giả:
Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản.
Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản.
Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017.
Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim.
Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất)
Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, v...v...
Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất)
Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, v...v...
Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất)
Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, v...v...
Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất)
Các tác phẩm tiêu biểu:
- Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập)
- Âm Dương Sư
- Thợ săn quỷ
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI nhưng vẫnluôn đứng trước những bí ẩn không có lời giải,và thế giới tâm linh - siêu nhiên là một chủ đề đượcbàn luận và quan tâm nhiều nhất. Văn hào Pháp Guy de Maupassant từng viết: “Người ta chỉ sợ những thứmà họ không hiểu”, và quả thật, những câu chuyện ma chưa bao giờ ngừng khiến chúng ta dựng tóc gáy cũng như luôn khơi dậy sự tò mò vô hạn.
Ma có thật hay không? là câu hỏi đau đáu đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những bạn đọc sợ ma, vậy nên chúng tôi xin được dùng câu hỏi này làm nhan đề của cuốn sách mà bạn đang cầm trên tay - một cuốn cẩm nang phong phú và đa chiều về những con ma, giới thiệu cách săn ma và lật tẩy những mánh khóe giả ma trục lợi của một số đối tượng bất hảo. Đây cũng là ấn phẩm huyền thoại của một trong những nhà xuất bản hàng đầu nước Anh, được rất nhiều thế hệ độc giả trên toàn thế giới yêu mến, giúp bạn hiểu biết hơn, tỉnh táo hơn và
Năm 2018, tác phẩm Cô thành trong gương đạt giải Honyataishou (giải thưởng do các nhà sách toàn Nhật Bản bầu chọn) lần thứ 15 và trở thành sách bán chạy tại Nhật.
TÓM TẮT:
Vì một tổn thương tâm lý, Kokoro từ chối đến trường, nhốt mình trong phòng. Những ngày tháng nhàm chán và buồn bã lặng lẽ trôi qua, cho đến một hôm, cô bé phát hiện tấm gương trong phòng mình phát sáng. Bước qua tấm gương, Kokoro nhận ra mình đang ở trong một tòa lâu đài lộng lẫy, cùng sáu người bạn chung hoàn cảnh.
Họ được tập hợp tại đó bởi ai và với mục đích gì? Bảy đứa trẻ cô độc buộc phải dấn bước vào một cuộc phiêu lưu kỳ lạ, trước khi đáp án cuối cùng mở ra, gây sững sờ và xúc động tột cùng.
Một câu chuyện tiếp thêm dũng khí cho tất cả những người lạc ra khỏi vòng quay cuộc sống, sẽ cuốn hút bạn cho tới những trang sách cuối.
VỀ TÁC GIẢ:
Tsujimura Mizuki sinh tại tỉnh Yamanashi, Nhật Bản và là một nhà văn nổi tiếng, chủ nhân của rất nhiều giải thưởng văn học. Năm 2004, Tsujimura Mizuki đạt giải Mephisto với tác phẩm ra mắt Khu học xá bị lãng quên (tạm dịch). Năm 2011, cô tiếp tục đạt giải tác giả mới, giải thưởng Yoshikawaeijibungaku với tác phẩm Kết nối (tạm dịch). Chưa dừng ở đó, năm 2012, Tsujimura Mizuki thắng giải Naoki lần thứ 147 cùng tác phẩm Giấc mơ không lối thoát (tạm dịch).
Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo - Tập 2
“Có lúc, lòng tốt sẽ trở thành từ đồng nghĩa với thiếu tình thương, tự ti, nhu nhược, cô đơn, cực đoan, thường bị cô lập và bắt nạt. Mãi đến sau khi viết cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo, tôi mới biết trên đời có nhiều bạo lực và ức hiếp như thế, có vô số người ở trong bóng tối, tại công sở, họ bị cấp trên chèn ép, cấp dưới lừa gạt; ở nhà bị càm ràm trách móc, thậm chí đánh đập; ở cạnh bạn bè thì sợ làm phật lòng mà không dám từ chối, nỗi đau khổ và đè nén trong lòng không nơi giãi bày, bởi chẳng ai tin, thậm chí chẳng ai thèm nghe, nên mới có đủ thứ trầm cảm, mất ngủ, lầm lì thậm chí tự sát mà nguyên nhân là bản thân không thể phản kháng. Cảm giác tuyệt vọng và bơ vơ của bạn lan rộng ra khắp các mặt trong cuộc sống, bạn sẽ cho rằng mọi việc mình làm đều không có ý nghĩa và giá trị, rất dễ cảm thấy cuộc đời chẳng còn gì đáng lưu luyến nữa.
... Đây chính là ý nghĩa xuất bản cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo 2: Nếu bạn vẫn luôn cô đơn bơ vơ, tôi mong bạn hiểu được, dù thế giới này không thể lập tức cho bạn lòng dũng cảm, kiên cường và niềm vui, song ít ra bạn vẫn có thể tự tạo ra cho mình những thứ ấy. Đọc thêm một cuốn sách thì có thể có thêm một phần sức mạnh để từ chối hợp lý và phản kháng đúng mực.”
Về tác giả:
Mộ Nhan Ca – một bác sĩ tâm lý lựa chọn tin vào sự ấm áp của thế giới, một nghệ sĩ múa uyển chuyển lướt giữa những con chữ, tình cảm tinh tế, thích suy tư, có nhiều công trình nghiên cứu tâm lý và dịch thuật.
Tác phẩm tiêu biểu:
- Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo
- Cuộc đời này phải sống vì bản thân mình
- Đời khốc liệt bao nhiêu, bạn phải kiên cường bấy nhiêu
Cao Thủ “Đổi Đen Thay Trắng” - Tập 1
Một hacker tài giỏi bị Chủ Thần chọn trúng, đưa đi làm nhân vật phản diện suốt mấy trăm ngàn kiếp, không kiếp nào là không phải chạy như điên trên con đường tìm đến cái chết, rơi vào kết cục bi thảm.
Khi rốt cuộc thoát khỏi sự khống chế của hệ thống phản diện, hắn quyết định báo thù, đánh bay cặn bã, thay đổi vận mệnh. Dù nội tâm có rữa nát như thế nào đi chăng nữa, thì ngoài mặt, hắn vẫn phải luôn đứng trên chuẩn mực đạo đức cao nhất.
Đôi nét tác giả
Phong Thư Lưu Ngốc
Tác giả văn học mạng Tấn Giang.
Nơi ở: Hồ Nam.
Một số tác phẩm tiêu biều: Cao thủ "đổi đen thay trắng", Linh môi (tạm dịch), Hữu Xu (tạm dịch)...
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi