Nội dung cuốn sách gồm:
Bài 1: Nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước
Bài 2: Quyết định quản lý nhà nước
Bài 3: Thủ tục hành chính
Bài 4: Quyền tiếp cận thông tin trong quản lý nhà nước
Bài 5: Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
Bài 6: Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Bài 7: Phòng, chống tham nhũng
Bài 8: Cải cách hành chính nhà nước
Cuốn sách gồm 14 chương:
Chương I: một số vấn đề lý luận về luật tố tụng hành chính Việt Nam
Chương II:thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án nhan dân
Chương III: người tiến hành tố tụng hành chính
Chương IV: người tham gia tố tụng hành chính
Chương V: các biện pháp khẳn cấp tạm thời; chứng minh và chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
Chương VI: khởi kiện, thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương VII: xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương VIII: thủ tục giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân
Chương IX:thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Chương X: giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn tại tòa án
Chương XI: thủ tục xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Chương XII: thủ tục giải quyết vụ án hành chính có yếu to nước ngoài
Chương XIII: thủ thi hành bản án, quyết định của tòa án về vụ án hành chính
Chương XIV: khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.
Luật Trưng cầu ý dân (hiện hành) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Luật gồm 8 chương, 52 điều, quy định về việc trưng cầu ý dân; nguyên tắc trưng cầu ý dân; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong tổ chức trưng cầu ý dân; trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân và tổ chức trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân…
Thời gian qua, hiện tượng “giàu lên bất thường” của một số cán bộ, công chức hay việc “cả họ làm quan” xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam và trở thành vấn đề được xã hội ngày càng quan tâm. Một số phương tiện truyền thông và chuyên gia gọi đó là hiện tượng “xung đột lợi ích” hay có bản chất của “xung đột lợi ích” trong thực thi công vụ. Vậy “xung đột lợi ích” là gì và có tác động như thế nào đến hoạt động công vụ để cần phải kiểm soát?
Xung đột lợi ích là khái niệm được nhắc đến nhiều trên thế giới và kiểm soát xung đột lợi ích được coi là một công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng được các quốc gia coi trọng. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, pháp luật hiện hành mới chỉ đưa ra khái niệm chung về xung đột lợi ích cũng như kiểm soát xung đột lợi ích và bước đầu ghi nhận, đưa ra các biện pháp giải quyết các tình huống xung đột lợi ích cụ thể, liên quan đến việc tặng quà và nhận quà tặng; có hành vi hoặc ra quyết định (hoặc gây ảnh hưởng) có lợi cho cá nhân hoặc người thân của người thực hiện hành vi, ra quyết định; đầu tư và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp và sử dụng lợi thế thông tin có được từ vị trí công tác. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 và hiện nay là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có một số quy định để phòng ngừa, kiểm soát những tình huốhg “xung đột lợi ích” nhằm phòng ngừa tham nhũng, mặc dù không sử dụng thuật ngữ “xung đột lợi ích” (Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012) hoặc đã có khái niệm về xung đột lợi ích song chưa có chế định riêng về kiểm soát xung đột lợi ích. Hoạt động kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ trên thực tế cũng chưa được quan tâm thực hiện.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy mục tiêu của các giải pháp kiểm soát xung đột lợi ích là nhằm phòng, chống tham nhũng, đảm bảo tính liêm chính đề cao trách nhiệm giải trình, minh bạch trong hoạt động công vụ với sự tham gia đông đảo của xã hội trong hoạch định và thực thi chính sách, vì mục tiêu xây dựng và phát triển của bộ máy hành chính phục vụ, một đội ngũ công chức chuyên nghiệp, tính chịu trách nhiệm cao, một môi trường công vụ minh bạch, liêm chính, ở khía cạnh này, theo đánh giá mới nhất trong nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thì “Việt Nam chưa có một hệ thông đảm bảo trách nhiệm giải trình đủ mạnh để dựa vào đó nâng cao hơn nữa hiệu quả của Nhà nước”.
Được viết dưới dạng tiểu thuyết lịch sử chiến tranh, cuốn sách đã tái hiện một cách khách quan, chân thực chiến thắng của quân và dân ta cũng như sự thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ và chế độ Việt Nam Cộng hòa trong con mắt quan sát của một người nước ngoài. Thông qua việc miêu tả quá trình tiến hành cuộc di tản hỗn loạn của quân Mỹ và sự sụp đổ của chế độ Việt Nam cộng hòa, cuốn sách cho bạn đọc thấy rõ sức mạnh tổng lực của quân và dân cả nước tiến tới chiến thắng vang dội, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạnh của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Cuốn sách còn tập trung phản ánh quá trình tiếp quản Sài gòn sau ngày giải phóng với những vấn đề cụ thể như: khắc phục thiệt hại về kinh tế; ổn định tình hình chính trị; đăng ký cán bộ, sĩ quan, binh lính ngụy để tiến hành đào tạo lại; chiến dịch chống văn hóa đồi trụy do lối sống Mỹ để lại; chống các thành phần ngoan cố…Qua đó bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của thế lực phản cách mạng, những câu chuyện đồn đại về “các cuộc thảm sát đẫm máu” mà cơ quan tuyên truyền của đế quốc Mỹ và của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nghĩ ra để làm mất uy tín của Quân Giải phóng, hòng cũng cố tinh thần kháng cự trong người dân và trong quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là để thuyết phục Quốc hội Mỹ viện trợ dành thêm hàng tỷ đôla nhằm cứu vãn cuộc chiến đang đi đến hồi kết.
Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2019) gồm 8 chương, 76 điều, quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ; nguyên tắc, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Nội dung cuốn sách Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2019) do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản, là văn bản được nhất thể hóa từ hai văn bản luật: Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 10/01/2020), giúp bạn đọc thuận tiện tra cứu, tham khảo.
Nội dung cuốn sách được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Bầu cử trong Đảng và công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở;
Chương II: Công tác bầu cử của đại hội đảng bộ xã ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng;
Chương III: Phương hướng, giải pháp và những gợi mở trong công tác bầu cử của đại hội đảng bộ cơ sở thời gian tới.
Cuốn sách khái quát một số vấn đề lý luận về bầu cử nói chung; khảo sát, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại trong công tác bầu cử ở đại hội cơ sở của một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng; trên cơ sở những hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương Đảng, tác giả đề xuất một số giải pháp mà các cơ sở đảng cần thực hiện tốt để công tác bầu cử thực sự mang lại hiệu quả thiết thực nhất, góp phần vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Qua đó, cung cấp cho bạn đọc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cơ sở những luận cứ mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động bầu cử trong Đảng.
Tài liệu gồm một số bài viết, bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp; các chỉ đạo, hướng dẫn, hệ thống các văn bản, biểu mẫu mới nhất của Trung ương Đảng hướng dẫn tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.
Việc hệ thống hóa sự chỉ đạo, cách thức tiến hành, các vấn đề cần quán triệt trong đại hội trong nội dung cuốn tài liệu có ý nghĩa thiết thực, bổ ích với đảng bộ các cấp đang chuẩn bị tiến hành đại hội, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Bên cạnh những lý thuyết chung về kiểm soát thỏa thuận sử dụng giá để hạn chế cạnh tranh, cuốn sách cũng tập trung trình bày, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật của Việt Nam về kiểm soát thỏa thuận sử dụng giá để hạn chế cạnh tranh, qua đó đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật cạnh tranh. Ngoài ra, nội dung cuốn sách cũng cập nhật những quy định mới liên quan đến pháp luật kiểm soát thỏa thuận sử dụng giá tại Việt Nam, trong đó có Luật Cạnh tranh năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nội dung cuốn sách hệ thống hóa lại các quan điểm về đặc trưng của xã hội tri thức, làm rõ bản chất và phân tích vai trò của xã hội tri thức đối với sự phát triển bền vững, qua đó trình bày một số suy nghĩ về con đường phát triển xã hội tri thức ở Việt Nam.
Nội dung chính của cuốn sách được chia làm 3 chương:
- Chương I: Từ xã hội thông tin đến xã hội tri thức
- Chương II: Những cột trụ chủ chốt để xây dựng xã hội tri thức
- Chương III: Những thách thức và triển vọng phát triển của xã hội tri thức
Cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo rất có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu về xã hội tri thức - một lĩnh vực đang từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong đời sống hiện đại ngày nay.
Đông Nam Á từ lâu đã được coi là một trong những khu vực có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử khu vực và thế giới, là “ngã tư đường”, cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với khu vực Tây Á,… nên không phải ngẫu nhiên mà mối liên hệ của khu vực này với thế giới được xác lập. Trải qua hàng trăm năm, cư dân nơi này còn trải qua quá trình tiếp biến, xây dựng nền văn hóa riêng, độc đáo của mỗi quốc gia những cùng tồn tại hài hòa, tạo nên tính đa dạng, phong phú của nền văn hóa khu vực và đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại những giá trị tinh thần độc đáo.
Theo đó, bức tranh tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á rất đa dạng, nhiều vẻ, bởi trong quá trình phát triển, ở đây đã hội tụ đủ các hệ ý thức, tư tưởng từ cả phương Đông như: Trung Quốc, Ấn Độ, Arập,… và phương Tây như: Tây Ban Nha, Hà Lan,… Vì thế, việc xây dựng chính sách để bảo đảm cho các nhóm cộng đồng tôn giáo chung sống hòa hợp trong mỗi quốc gia và ở phạm vi lớn hơn – khu vực là một vấn đề không hề đơn giản, nhất là khi sự hình thành của Cộng đồng ASEAN ( ASEAN Community – AC), mà cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN ( ASEAN Socio – Cultural Community – ASCC) là một trong ba trụ cột chính, đã đưa ra mục tiêu xây dựng ASEAN thành một cộng đồng vì con người, nơi mà các dân tộc Đông Nam Á trên chặng đường mới của mình sẽ gắn kết, chia sẻ lợi ích và phát triển cùng nhau dưới một mái nhà.
Để bạn đọc hiểu rõ hơn về vai trò của tôn giáo trong quá trình hình thành Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Đa dạng tôn giáo với tiến trình xây dựng cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN (ASCC). Cuốn sách phân tích những tác động có yếu tố tôn giáo đến quá trình xây dựng và hoàn thiện Cộng đồng này.
Cuốn sách tập hợp hơn 60 kế sách của các vị quan yêu nước ở các vị trí quan trường khác nhau của các vương triều. Đó là những tờ sớ, tờ khải, bản điều trần đề cập tới không chỉ những vấn đề quan trọng của đất nước, mà cả những khía cạnh bình thường cảu đời sống nhân dân và đưa ra những đề nghị, sáng kiến cải cách, được ghi chép trong các bộ sử cũ của nước nhà. Với vốn kiến thức sâu rộng, đa ngành, tác giả không chỉ tập trung trình bày nội dung của từng kế sách mà còn đưa ra những nhận định chủ quan về các kế sách, luận giải về ý nghĩa của nó với xã hội đương thời, đồng thời rút ra các bài học quý cho xã hội chúng ta hôm nay.
Trách Nhiệm Hình Sự Và Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự
Cách Dạy, Cách Học, Cách Sống Trong Thế Kỷ XXI: Khảo Sát Triết Lý Giáo Dục Của Dewey Và Makiguchi Để Đưa Ra Phương Thức Giáo Dục Mới Cho Nhân Loại
Bước sang thế kỷ XXI, vấn đề “Học tập suốt đời” (Lifelong Learning) đã được khởi xướng và được xem là một chìa khóa để giải quyết những mâu thuẫn trong tương lai, đón nhận thách thức trong thế kỷ mới, là nhịp đập của xã hội và nguyên tắc chỉ đạo mọi cải cách giáo dục. Đặc biệt trong một thế giới luôn biến động như hiện nay, các nhà giáo dục trên thế giới dần tin rằng kỹ năng tư duy ứng dụng trong việc học tập lẫn nhau trong thực tiễn cuộc sống hiện đại là công cụ quan trọng và là một trong những phẩm chất, năng lực của công dân toàn cầu. Do đó, việc dạy cách học, cách sống cũng là một giải pháp đánh thức những tiềm năng của mỗi người, giúp họ tự tin khẳng định bản thân, có khả năng tư duy giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và lôgích, đưa ra quyết định, sáng kiến - ý tưởng mới, phân tích thông tin, hoạch định tương lai.
Nội dung cuốn sách Cách dạy - Cách học - Cách sống trong thế kỷ XXI (Khảo sát triết lý giáo dục của Dewey và Makiguchi để đưa ra phương thức giáo dục mới cho nhân loại) được trình bày dưới hình thức một cuộc đối thoại cởi mở và đầy trách nhiệm giữa Tiến sĩ Daisaku Ikeda - học giả uyên bác về nhiều lĩnh vực khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng ở Nhật Bản cũng như trên thế giới và hai triết gia nổi tiếng người Mỹ - Jim Garrison và Larry Hickman. Các chủ đề luận bàn trong cuộc đối thoại hết sức thiết thực và sâu sắc, các chuyên gia cùng trao đổi, phân tích một số vấn đề quan trọng mà xã hội con người ngày nay đang phải đối mặt, như vai trò của giáo dục trong việc đào tạo công dân toàn cầu, môi trường học tập trong gia đình, nhà trường và tầm quan trọng của việc học tập suốt đời; làm thế nào để khoa học kỹ thuật có thể mang lại hạnh phúc cho con người, làm thế nào xung đột có thể giải quyết thông qua đối thoại, làm thế nào để những người dân có tập quán và sự quan tâm khác nhau có thể cùng chung sống trong những cộng đồng dân chủ,... Đặc biệt, ý nghĩa xuyên suốt cuốn sách mà nhóm tác giả muốn gửi gắm đó là sự động viên, khích lệ thế hệ thanh niên hiện nay và mai sau cần phát triển và sáng tạo các giá trị hơn nữa, nhằm bảo đảm một tương lai thành công ở thế kỷ XXI.
Về tác giả, Jim Garrison là Giáo sư Triết học giáo dục tại Đại học Bách khoa Virginia ở Blacksburg, Virginia, trong khi Larry Hickman là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Dewey và Giáo sư Triết học tại Đại học Southern Illinois Carbondale; cả hai đều nguyên là Chủ tịch của Hiệp hội John Dewey. Daisaku Ikeda là Chủ tịch của Tổ chức Soka Gakkai International, một tổ chức Phật giáo với hơn 12 triệu thành viên trên toàn thế giới. Ông đã viết và giảng dạy rộng rãi về Phật giáo, chủ nghĩa nhân văn và đạo đức toàn cầu. Cuộc đối thoại của ba học giả đã đưa ra những bình luận về nhà giáo vĩ đại người Mỹ John Dewey và triết lý của ông, và so sánh triết lý giáo dục của Dewey với lý thuyết giáo dục tạo giá trị (Giáo dục Soka) của chủ tịch đầu tiên của phong trào Soka Gakkai là Tsunesaburo Makiguchi (1871-1944).
Trong tác phẩm này, các tác giả đã chỉ ra những điểm chung giữa Dewey và Makiguchi, chẳng hạn như nhấn mạnh hạnh phúc là mục đích của giáo dục, quan điểm về giáo dục và giá trị của hạnh phúc với con trẻ, cũng như vai trò của phụ nữ, sự cân bằng giữa công việc và học tập, mối quan hệ giữa tuổi thơ và giáo dục ở trường và ở nhà. Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong xã hội và sự cần thiết phải thay đổi cơ bản từ khái niệm giáo dục vì lợi ích của xã hội sang khái niệm xã hội vì lợi ích của giáo dục. Trong giáo dục, dạy dỗ không chỉ là khai thác giá trị, mà còn tạo ra giá trị, từ đó nâng cao và làm giàu thêm ý nghĩa của cuộc sống. Garrison chia sẻ cái nhìn sâu sắc của ông về vai trò của hạnh phúc trong giáo dục: "Đối với tôi thì rõ ràng hạnh phúc và phát triển không khác gì nhau trên nhiều phương diện. Hạnh phúc không chỉ bắt nguồn từ phát triển mà còn chính là phát triển".
Mục lục
1 Điều Dewey ủng hộ
2 Học cùng nhau
3 Từ thầy đến trò
4 Phát triển là mục tiêu
5 Cái giá của chiến tranh
6 Mọi đứa trẻ đều đặc biệt
7 Trí tuệ giáo dục
8 Những gia đình sáng tạo
9 Trải nghiệm đại học
10 Đại học của thế kỷ XXI
11 Giáo dục cho công dân toàn cầu
12 Giáo dục ngày nay
13 Đối thoại và chuyển đổi
14 Phá vỡ vòng quay bạo lực
15 Nền dân chủ sáng tạo
16 Các nền dân chủ khác nhau
17 Khoa học và công nghệ
18 Triết lý phản hồi
19 Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo
20 Mở rộng cơ hội, mở rộng dân chủ
Những Nội Dung Cơ Bản Và Mới Trong Các Nghị Quyết Của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Bộ Chính Trị Khóa Xii
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vai trò của các biện pháp phòng ngừa hành chính ngày càng được thể hiện rõ nét, cụ thể hơn, đặc biệt là trong công tác kiểm tra, quản lý hành chính. Do đó, nhu cầu điều chỉnh, áp dụng các biện pháp này trong quản lý nhà nước ngày càng cao. Các biện pháp này cũng đang được áp dụng khá phổ biến và là một trong những cách thức để quyền lực nhà nước được thực thi, hạn chế được những sai phạm không đáng có của các tổ chức, cá nhân.
Cuốn sách Biện pháp phòng ngừa hành chính – Lý luận và thực tiễn của TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc tập trung nghiên cứu ba nội dung chính: những vấn đề lý luận về biện pháp phòng ngừa hành chính; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng ngừa hành chính ở Việt Nam; và từ những nghiên cứu nêu trên, tác giả đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa hành chính.
Với sự quan sát tỉ mỉ và lối tả thực sinh động, tác giả giúp bạn đọc thấy đọc thấy được những thói quen trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội và các tầng lớp, lứa tuổi ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thực tế cho thấy, môi xloaij thói quen cũng có đời sống riêng, như: thói quen trong ẩm thực; lựa chọn nơi cư trú, xây dựng nhà ở; sử dụng trang phục; cách thức di chuyển và giao tiếp xã hội; trong thể hiện đức tin tôn giáo, tín ngưỡng thờ tự…
Thông qua cuốn sách, chúng ta có thể nhận thấy có những thói quen tốt vẫn được duy trì song cũng có thói quen tốt đang bị mai một, và có những thói quen xấu đang hiện hữu, để từ đó điều chỉnh lại suy nghĩ, hành động của mình cho phù hợp với thời đại mà không làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Chấn Hưng Nhật Bản
Nhật Bản là một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế giới với nguồn vốn dồi dào, công nghệ tiên tiến, có kinh nghiệm quản lý hiện đại và hiệu quả. Là nước xuất khẩu vốn khổng lồ, với hơn 1 nghìn tỉ USD đầu tư trực tiếp ở nước ngoài nên Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Trên con đường đi lên trở thành một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế giới, Nhật Bản đã phải trải qua hai cuộc tái thiết đất nước vô cùng quan trọng, diễn ra vào thời kỳ Phục hưng Minh Trị năm 1868 và diễn ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cả hai lần tự tái thiết này, Nhật Bản đã tạo ra một nỗ lực to lớn để du nhập, làm chủ, cải tiến, thay đổi công nghệ và bí quyết ngành công nghiệp của phương Tây. Và nhờ đó, Nhật Bản dường như trở nên bất bại trong lĩnh vực công nghiệp và công nghệ.
Tuy nhiên, từ năm 1990 trở về đây, nền kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu phát triển chậm lại, đặc biệt là vị trí đứng đầu của Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp và công nghệ đang bị đe dọa thay thế bởi các đối thủ cạnh tranh như Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan. Hoạt động đổi mới sáng tạo của Nhật Bản cũng có dấu hiệu đi xuống vào đầu những năm 1990 mặc dù Chính phủ Nhật Bản đã hết sức nỗ lực tăng gấp đôi chi tiêu dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Một phần nguyên nhân là Nhật Bản chỉ tập trung đầu tư nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực ôtô và điện tử mà bỏ qua những lĩnh vực khác có quy mô toàn cầu và lại những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư cao cho nghiên cứu và phát triển như dược phẩm, công nghệ sinh học, phần mềm và dịch vụ máy tính. Đứng trước nguy cơ này, câu hỏi đặt ra là liệu Nhật Bản có cần một cuộc tái thiết nữa hay không? Và nếu cần thì phải tái thiết như thế nào
Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về phát triển nước Nhật Bản, Thái Hà Books và NXB Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Chấn hưng Nhật Bản: Làm cách nào Nhật Bản có thể tự tái thiết và tại sao điều này lại quan trọng với Hoa Kỳ và thế giới của tác giả Clyde Prestowitz.
Cuốn sách được chia thành 10 chương và được viết theo phong cách hết sức độc đáo. Thay vì mô tả đất nước Nhật Bản của hiện tại sau đó đưa ra những khuyến nghị về mặt chính sách,... thì ở đây, tác giả đã phác họa một bức tranh về đất nước Nhật Bản trong tương lai của năm 2050, một đất nước đã được tái thiết lần thứ ba với rất nhiều sự thay đổi cả về kinh tế - xã hội và chính trị, chẳng hạn như GDP tăng 4,5%/năm, vượt xa so với bất kỳ nước lớn nào và gần gấp đôi GDP của Trung Quốc; dân số có chiều hướng tăng lên và vượt mức 150 triệu người; phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động, sinh nhiều con hơn;... và đáng ngạc nhiên hơn là Nhật Bản trở thành quốc gia nói tiếng Anh! Có thể thấy đây là một đất nước trong tương lai hoàn toàn thay đổi so với Nhật Bản của hiện tại. Tưởng như cuốn sách mang đến một câu chuyện giả tưởng song đó lại chính là những thông điệp, những lời khuyên và những kỳ vọng của tác giả, một người Mỹ đã từng có thời gian dài sinh sống và học tập tại Nhật Bản, dành cho đất nước này.
Mục lục:
Những lời khen tặng dành cho Chấn Hưng Nhật Bản
Lời Nhà xuất bản
Giới thiệu: Nền tảng của cuốn sách
Chương 1: Tokyo, năm 2050
Chương 2: 2016 - Năm của những cuộc khủng hoảng
Chương 3: Hòa bình kiểu Thái Bình Dương
Chương 4: Phụ nữ giải cứu đất nước
Chương 5: Nhật Bản trở thành nước nói tiếng Anh
Chương 6: Quốc gia đổi mới sáng tạo
Chương 7: Tự chủ về năng lượng
Chương 8: Tập đoàn Nhật Bản đến tập đoàn Đức - với những đặc trưng Nhật Bản
Chương 9: Đánh bại kẻ trong cuộc
Chương 10: Đi lên với dân, đi xuống với quan
Kết luận: Tại sao Nhật Bản lại là vấn đề đáng quan tâm với Hoa Kỳ và thế giới?
Lời cảm ơn
Thông tin về tác giả:
Clyde Prestowitz là tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất và được đánh giá cao như Trading Places, Rogue Nation và Three Billion New Capitalists. Ông giữ chức vụ cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Thương mại Hoa Kỳ và là nhà đàm phán thương mại đứng đầu tại châu Á. Ông cũng là Phó Chủ tịch của Ủy ban Thương mại và Đầu tư khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Tổng thống Clinton. Là người thành lập Viện Chiến lược kinh tế ở Washington D.C, ông cũng đưa ra lời khuyên cho chính phủ, các tập đoàn quốc tế,các liên đoàn lao động về vấn đề cạnh tranh và chiến lược toàn cầu hoá.
Châu Á là một châu lục chưa bao giờ chịu khuất phục. Không có một châu Á đơn nhất về mặt giá trị, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ hay quan trọng nhất, về chính trị. Sau Thế chiến II, việc phi thuộc địa hóa, dân chủ hóa và toàn cầu hóa thương mại tự do ảnh hưởng không đồng đều đến các quốc gia châu Á. Công nghiệp hóa và đô thị hóa phát triển nhanh chóng, đi đầu là Nhật Bản. Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á đang theo kịp ở các tốc độ và đạt được mức độ thành công khác nhau. Song, xu hướng chung đã rõ ràng. Trong khi phương Tây lao vào phục hồi sau khủng hoảng tài chính năm 2008, vượt qua các đại dương, một Thế kỷ Châu Á đang dần khởi sắc.
Một điều rõ ràng nữa là các quốc gia châu Á phải thích ứng với những thực tế mới. Khi công thức tăng trưởng của Nhật Bản là xuất khẩu sang phương Tây hiện đang bị thách thức, họ phải tìm kiếm những cỗ máy tăng trưởng mới bao gồm mở rộng mậu dịch và đầu tư trong khu vực, xây dựng cơ sở hạ tầng và kết nối con người. Và họ phải làm điều đó trong một môi trường xã hội và chính trị phức tạp hơn. Khi các quốc gia trở nên thịnh vượng hơn, chính phủ phải đối mặt với áp lực khi tầng lớp trung lưu ngày càng tăng khiến nhu cầu về truyền thông xã hội và thông tin di động của họ tăng theo.
Ở phạm vi quốc tế, quyền lực kinh tế đang dịch chuyển từ phương Tây sang phương Đông và yếu tố địa chính trị mới đang dần hình thành xung quanh các mối liên hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong khi mục đích của cuốn sách này không phải là đưa ra các dự báo chính xác, chúng tôi cố gắng nhận định các động cơ thúc đẩy tăng trưởng và những yếu tố làm thay đổi cuộc chơi sẽ xác định cơ chế mới của toàn cầu hướng trọng tâm vào châu Á sẽ tiến triển ra sao. Chúng tôi cố gắng phân tích các yếu tố đem đến thành công về kinh tế và chính trị tại một số quốc gia và những yếu tố gây ra thất bại tại những quốc gia khác.
Nghiên cứu chuyên sâu của chúng tôi xác định được năm xu thế lớn đặt ra những thách thức đối với châu Á trong những thập kỷ tới:
1) cuộc sống sau chính sách “nới lỏng định lượng” (QE);
2) công nghệ mới;
3) nâng cao vị thế của cá thể và nhu cầu ngày càng tăng;
4) quốc tế hóa châu Á;
5) thay đổi các mô hình nhân khẩu học.
Ngoài ra, chúng tôi xác định được năm yếu tố thay đổi cuộc chơi có thể xây dựng hoặc phá vỡ những hứa hẹn về một thế kỷ của châu Á:
1) áp lực ngày càng tăng đối với các hệ thống cầm quyền;
2) cuộc cách mạng khí đá phiến;
3) sự dịch chuyển của thương mại toàn cầu và các dòng chảy tài chính;
4) kết nối cơ sở hạ tầng;
5) vốn con người và “bẫy thu nhập trung bình”.
Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng khác nhau đến số phận của mỗi quốc gia tùy thuộc vào bối cảnh về kinh tế và chính trị cụ thể của quốc gia đó. Thông qua các nghiên cứu điển hình bàn về các yếu tố kinh tế, chính trị và công nghệ, chúng tôi hy vọng mang lại cho bạn đọc trải nghiệm độc đáo, đặc biệt là với các nhà quản lý cấp khu vực và các sinh viên sau đại học muốn tìm kiếm cơ hội việc làm tại châu Á.
Xây Dựng Xã Hội Học Tập
Từ khi được xuất bản, cuốn sách Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội đã trở thành một tài liệu hữu ích cho độc giả - những người luôn dành sự ủng hộ đối với những chính sách thúc đẩy sự tiến bộ về khoa học và công nghệ của chính phủ. Cuốn sách là một tác phẩm đầy thuyết phục cho thấy mức sống của chúng ta được cải thiện đáng kể như thế nào là kết quả của việc học cách để học tập, và đưa ra những lý giải làm thế nào mà các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển đều có thể xây dựng được một nền kinh tế học tập kiểu mới.
Với lối viết gần gũi, dễ hiểu, cuốn sách Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội (Ấn bản dành cho độc giả) đã truyền tải được thông điệp chính cũng như những phương hướng về mặt chính sách.
Cuốn sách làm sáng tỏ quan điểm cho rằng xây dựng một xã hội học tập đòi hỏi chính phủ phải ban hành được những chính sách có chất lượng trên các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực quan trọng khác. Luận điểm chính của cuốn sách - rằng mọi chính sách đều ảnh hưởng tới học tập - có ý nghĩa quan trọng đối với những chính phủ còn chưa quan tâm đến những cách thức đổi mới mà họ có thể vận dụng để thúc đẩy nền kinh tế của đất nước tiến lên phía trước.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2019
Nội dung cuốn sách nêu bật vai trò, đặc điểm và xu thế phát triển của việc tạo dựng sức ảnh hưởng của Pháp trên trường quốc tế; đánh giá điểm mạnh cũng như hạn chế của sức mạnh mềm Pháp trong kỷ nguyên toàn cầu hóa; đồng thời, đưa ra dự báo về triển vọng của sức mạnh mềm Pháp trong tương lai.
Quan Hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ (1947 - 1991)
Cuốn sách luận giải, cung cấp những dẫn chứng, cứ liệu tham khảo hữu ích, góp phần làm sáng tỏ phần nào mối quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trên các lĩnh vực chính yếu, bao gồm bốn chương: Chương I: Những nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ; Chương II: Quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao và quốc phòng; Chương III: Quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật; Chương IV: Một số nhận xét về quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ.
Hỏi - Đáp Về Di Sản Thế Giới Và Di Sản Thế Giới Tại Việt Nam
Nội dung cuốn sách giới thiệu đến bạn đọc những thông tin, hiểu biết cơ bản về di sản thế giới nói chung , các di sản thế giới tại Việt Nam nói riêng và các công ước, tổ chức có liên quan.
So Sánh Bộ Luật Hình Sự Năm 2015, Sửa Đổi Bổ Sung 2017 Với Bộ Luật Hình Sự 1999, Sửa Đổi Bổ Sung 2009
Suốt hơn 50 năm trải nghiệm thực tiễn và tham gia lâm sàng tại một bệnh viện đa khoa lớn tại Thành phố Hồ Chí Minh, suy thận là một trong vài bệnh mà tôi thích nghiên cứu và học hỏi.
- Thuở còn đi học, cách đây hơn 70 năm, khoa thận là một khoa còn mới mẻ, tuy đã hoàn chỉnh: phần sinh lý đã có được học đủ các chức năng của thận, dĩ nhiên cách sắp xếp có khác hơn ngày nay. Phần bệnh học, trên lý thuyết, cũng như trong lâm sàng, chỉ biết bệnh suy thận đã hình thành hay đã tiến triển đến giai đoạn nặng. Tất nhiên là không có thuốc chữa trị (lọc máu ngoài thận chỉ được khởi vào dạo 1947).
- Lúc bấy giờ, báo chí có đưa một tin gây xúc động. Một bé trai 7 tuổi tên Jules Renard bị suy thận nặng. Do không có thuốc chữa, chỉ còn có cách là ghép thận. Bà mẹ bằng lòng cho một quả thận của mình. Thời bấy giờ, y học chưa biết rành về môn phù hợp mô trong ghép tạng. Một tuần sau khi phẫu thuật, cơ thể của bé không chấp nhận quả thận được ghép và bé tử vong. Câu chuyện trên với môn phù hợp mô theo đuổi tôi cho đến ngày trưởng thành trong nghề nghiệp! (Mô có nhóm như máu, phải phù hợp thì cơ thể mới chấp nhận).
- Khi ra đời hành nghề, bệnh nhân đến khám không giống như hồi học ở nhà trường hay ở bệnh viện thực
- Vào cuối thế kỷ trước, tôi có theo bệnh nhân sang Ấn Độ (1 lần) và Đài Loan (2 lần) để ghép thận. Tất nhiên, vào thời điểm này, y khoa đã biết rành về môn phù hợp mô và các thuốc ngừa loại mảnh ghép.Tôi học hỏi cách làm của các bạn đồng nghiệp láng giềng: sửa soạn bệnh nhân trước ghép, theo dõi sau ghép và cả mặt trái của vấn đề(!).
- Vào đầu thập niên của thế kỷ này, tôi có đọc trong y văn Pháp một quyển sách tựa “Suy thận mãn - từ chẩn đoán đến thẩm tách”; đồng tác giả là 5 cán bộ giảng viên Khoa Thận học của một trường đại học y bên Pháp. Câu mở đầu của quyển sách viết:
- Từ “THẬN” dùng trong sách này chỉ tạng trong cơ thể người như tim hay phổi; (ở hàng thịt, người ta gọi “trái cật”). Nó có nhiều chức năng. Nhưng khi nói nó “yếu” hay “suy”, cách hiểu biết không được rõ ràng thống nhất; càng rối rắm hơn khi có tính từ “mãn tính” kèm theo. Ngay tại những nước có ngành y tế tiến bộ, việc chữa trị cho bệnh nhân bị suy thận mãn trong giai đoạn cuối bằng lọc máu qua thận nhân tạo hay ghép thận đã được biết đến từ lâu; nhưng, khi làm thống kê rõ ràng giai đoạn khởi đầu “suy mãn tính” thì khoa học chưa đáp ứng được tính chính xác (!).
Sách này có mục tiêu phổ cập kiến thức, mong giúp ích phần nào cả người chẩn đoán - chữa trị, cả người bệnh, nên cố đơn giản hóa một số vấn đề nhưng vẫn tôn trọng triệt để khoa học.
- Chỉnh vài “Thành kiến sai lầm” còn lác đác trong tự chẩn đoán và tự điều trị
- Định vị và chức năng tạo sai lầm Thận nằm phía sau ổ bụng, ngay vòng thắt lưng, hai bên cột sống. Thận phải nằm dưới gan, thận trái bên cạnh lá lách. Động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ. Do vị trí này mà có người kết luận đơn giản: “đau lưng” là do “thận yếu” và tự dùng thuốc “bổ thận”, có khi gây hại thật sự cho thận. Lại cũng có người nghĩ “gần” trúng đau lung là do cột sống lưng, tự dùng thuốc loại kháng viêm không stêrôit, thường để trị bệnh khớp, nhưng có hại cho thận. Cũng có trường hợp người than “đi tiểu nhiều”. Thật ra, suy thận cũng gây đi tiểu nhiều, nhưng có một số bệnh bàng quang, tuyến tiền liệt, đường niệu… cần chẩn đoán hơn là nhận định đơn giản đi tiểu nhiều là do “thận yếu” và tự dùng thuốc “bổ thận” trước khi có chẩn đoán khoa học chính xác. Giảm sút khả năng tính dục là một chương dài của bệnh học ngành y, vì liên hệ đến toàn thể xác lẫn tâm lý -tâm thần. Gọi đơn giản “yếu sinh lý” rồi tự uống thuốc kích thích là sai lầm và có hại. Trên đây, chỉ kể qua vài “Thành kiến sai lầm” thỉnh thoảng còn gặp ở một số người tự chữa trị với chẩn đoán mơ hồ.
Sách “Suy thận mãn” cũng nhắm đến các bạn trong ngành y, ngoài khoa thận, một số thông tin có thể có ích:
- Sử dụng kết quả phòng xét nghiệm trong chẩn đoán suy thận;
- Khuyên tránh thuốc uống có hại cho thận cho dù suy thận mãn chỉ ở mức độ vừa phải (Metformine trong đái tháo đường);
- Hướng cách làm cho bệnh suy thận mãn tiến triển thật chậm;
- Thông tin, giải thích kỹ càng để người bệnh đặt niềm tin về bệnh và cách theo dõi, điều trị từng giai đoạn;
- Nhận trách nhiệm trong điều trị biến chứng (nguy cơ tim - mạch) và các bệnh cùng lúc (đái tháo đường, cao huyết áp…);
- Cố giữ gìn người bệnh trong tình trạng sức khỏe tương đối, dự định có thể phải áp dụng cách điều trị thay thế (lọc máu, ghép thận) bằng cách cố bảo vệ tình trạng hệ tĩnh mạch; chủng ngừa sớm viêm gan siêu vi B.
Nghiên cứu hiệu năng thuốc đông y
- Một số tin cho biết thuốc đông y có thể chữa khỏi.
- Tây y cho biết: “Trong cơ thể, thận có đặc điểm kỳ diệu là tự phục hồi được hoàn toàn nếu xóa bỏ sớm nguyên nhân gây thương tổn cho nó”. Cần có một công trình dài hạn nghiêm túc đúng khoa học để có thể kết luận.
BS. LƯƠNG PHÁN
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi